Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18 Phẩm Quan Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6640)
18 Phẩm Quan Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Quan Thế Âm Bồ-Tát Phổ Môn

CHÁNH VĂN

Phẩm Phổ Môn là tánh quán tự tại, ứng khắp quần cơ. Đây chính nói rõ phương pháp chóng ngộ của thiền-na, để tự thấy tâm thể xưa nay trong sạch của chính mình. Bởi nhiếp trong phẩm Diệu Âm trước, dù đã cùng lìa động tịnh các thinh trần bị nghe, song vẫn còn chấp có tánh nghe hay nghe, chưa đạt được bản tâm, thể tịch diệt xưa naychân như. Đến đây, mới vừa tạn mặt, mới biết tâm thể vốn hư linh. Ứng hiện phổ môn, tùy thời phó cảm, cứu khổ độ sanh, ứng vật hiện hình, như trăng đáy nước, chẳng cuộc nhĩ môn, nên nói là Phổ Môn. Đây cũng nhằm bày tỏ đã nhận được Phật tuệ chân không, ứng hiện tự tại là khi chóng rõ không không vậy.

Lại phẩm Diệu Âm ở trước, cũng có ba mươi hai ứng, đồng như phẩm Phổ Môn này, mà chẳng nói tự tại, là cớ sao? 

Đây là chỗ cơ yếu trong cửa huyền, rất khó xét lường. Bởi nhân tiếng mà thành nghe, nhân nghe mà thành tiếng. Song tiếng, nghe cùng quán sát thì một lúc đồng hiện, cho nên ứng dụng cũng đồng dấu vết kia. Nhưng, trong kinh Diệu Âm có đến đi, còn Quán Âm là nói nghiệp tự tại, vì Diệu Âm là tánh hay nghe. Do lúc có âm thinh, thì tánh hay nghe mới bày ra, lúc không âm thinh thì tánh hay nghe tự lặng lẽ. Đó là chỗ mà Diệu Âm có dấu vết đến đi, tiêu biểu cho tánh hay nghe theo cái có không, sanh diệt của tướng âm thinh. Khác nào những hình bóng không thật trong gương kia. Lại, như hành khách tạm dừng rồi đi nên chẳng tự tại. Nói Quán Âm là nghiệp tự tại. Nghiệp chính là bản tâm, là chủ nhân ông. Tự tại tức là bản tâm linh tri, cũng là chủ nhân ông. Bởi nghe có nghe không, tự là thinh trần hoặc có hoặc không, mà linh tri biết có biết không đó, chân quán thường tự tại. Thế thì, không tiếng đã không diệt, có tiếng cũng chẳng sanh, tức chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi, và chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải động chẳng phải tịnh, tất cả đều chẳng phải, đó là chân quán tự tại. Lại, tức sanh tức diệt, tức đến tức đi… tất cả đều tức, đó là đại Bồ-tát. Trong kinh có đoạn:

Quán chân, quán thanh tịnh,
Quán trí tuệ rộng lớn,
Quán bi và quán từ,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng,
Sáng trong sạch không nhơ,
Trời tuệ phá các tối,
Hay dẹp vạ gió lửa,
Sáng soi khắp thế gian.

Tiết văn này, chính là nêu rõ trí đại viên cảnh, Phật tuệ chân không, cảm ứng của Quán Tự Tại, cũng đả phá lớp vọng tưởng dung thông của tưởng ấm thứ ba vậy. 

Nên biết rằng phẩm Phổ Môn này, cùng với kinh Lăng Nghiêm chỗ đức Quán Thế Âm nói về nhĩ căn viên thông, từ Văn Tư Tu vào Tam-ma-địa là đồng một ý, chỉ khác nhau ở chỗ kín và bày đó thôi.

Kệ rằng: 

Quan san trải khắp thẳng về nhà,
Chẳng biết đường xưa mấy dặm xa,
Gót dẫm Phổ Môn riêng tiến bước,
Quán chân tự tại, tát-bà-ha,
Tùy cơ ứng hiện tìm tiếng cảm,
Chẳng bỏ từ bi độ khổ hà,
Thanh tịnh quán soi, đây tuệ nhật,
Sáng trùm vạn tượng khắp sum la.

GIẢNG

Phẩm này phá về tưởng ấm. Tới đây là giai đoạn dùng trí tuệ chân thật để triệt tiêu mọi tưởng tượng. Phá tưởng ấm cần phảinăng lực sắc bén nhất, trí tuệ mạnh mẽ nhất. Người tu thiếu định tỉnh, sẽ bị ma tưởng tượng dẫn đi, nếu không điều phục nổi, đôi khi dẫn đến tình trạng mất bình thường. Cho nên người tu thiền không vui quá, không buồn quá, không để quá đà. Từ định tỉnh, trí tuệ hiện bày tròn đủ, khi đó sẽ thấy rõ thật chất mọi vấn đề. Người tu dùng trí tuệ chặt đứt tất cả niệm tưởng để sống bình thường. Cho nên con người bình thườngcon người đáng quí nhất. 

Vô thường chẳng hẹn nên chúng ta không có thì giờ toan tính việc tạp, phải tập trung thời gian cần thiết để thấy rõ những nghiệp tập cù cặn, tiêu dung hóa giải, diệt trừ nó. Người biết soi rọi lại thân tâm mình là người biết sống nhất. Tập trung nhìn vào, nhận lại ánh sáng bên trong là quay về trí thể. Từ sáu căn chúng ta nhận ra mình có cái biết. Sở dĩ có cái biết đó là vì ta có trí thể bên trong. Bên trong nếu không có chủ, làm gì thể hiện được cái biết ra ngoài. Trí tuệ bên trong đang hoạt động, đang sáng suốt nên phát ra các căn. 

Tu là từ đó nhận lại tánh giác chân thật. Từ lỗ tai nhận lại, từ tất cả giác quan quay về nhận lại, đó gọi là Phật tánh sáng suốt trùm khắp. Cái đó không bao giờ mất, nó hằng dụng, thường liễu tri trong mỗi chúng ta. Chỉ vì mình cứ chạy ra ngoài nên bỏ quên nó. Bây giờ trong mọi sinh hoạt, làm sao chúng ta đừng bị cảnh duyên bên ngoài kéo lôi, quay về nhận lại gốc, được thế là bình ổn nhất. Các huynh đệ có cơ hội sống với nhau như thế này, đầy đủ thuận duyên để phát huy công phu, không nên để mất thời gian. Mỗi vị tranh thủ tu hành, chuyển đổi tập nghiệp bằng trí tuệ của chính mình. 

Chúng sanh có các thứ bệnh nên Phật chế các thứ thuốc để trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng ta muốn hết bệnh mà không chịu uống thuốc thì làm sao hết được. Mỗi vị nghiệm lại xem mình trẻ thơ lắm. Ông cha để thuốc đầy trong tủ, các đứa con khóc lóc than đau mà không chịu lấy thuốc uống, nên cứ bệnh hoài. Chúng ta có những thứ bệnh như ham ngủ, ham ăn, ham danh, ham tài, ham sắc, tự ái, tự kiêu… đủ kiểu. Làm sao trị được những bệnh này mới an ổn. Người uống thuốc Phật rồi không buồn ai, không ghét ai, thân thể đau nhức cở nào cũng chịu được. Phật đã để sẵn thuốc mà chúng sanh không chịu uống nên Ngài đành lánh mặt. Để cho nó đau thấu xương thấu tủy, đau tới bờ tới bến đi, bắt buộc nó phải tìm thuốc uống. Bấy giờ uống vô là mạnh liền. 

Phẩm Phổ Môn là tánh quán tự tại, ứng khắp quần cơ. Quần cơ là khắp hết. Đây chính nói rõ phương pháp chóng ngộ của thiền-na, để tự thấy tâm thể xưa nay trong sạch của chính mình. Phẩm Phổ Môn là pháp trùm khắp. Pháp mà không pháp, phát huy định tuệ sẵn có nơi mình, không tìm cầu ở đâu hết.

Bởi nhiếp trong phẩm Diệu Âm trước, dù đã cùng lìa động tịnh các thinh trần bị nghe, song vẫn còn chấp có tánh nghe hay nghe, chưa đạt được bản tâm, thể tịch diệt xưa naychân như. Đến đây, mới vừa tạn mặt, mới biết tâm thể vốn hư linh. Ứng hiện phổ môn, tùy thời phó cảm, cứu khổ độ sanh, ứng vật hiện hình, như trăng đáy nước, chẳng cuộc nhĩ môn, nên nói là Phổ Môn. Đây cũng nhằm bày tỏ đã nhận được Phật tuệ chân không, ứng hiện tự tại là khi chóng rõ không không vậy. 

Người đã vào được công phu, đã uống thuốc Phật, là người tự tại trong tất cả cảnh duyên. Mắt thấy sắc không bị sắc dẫn, tai nghe tiếng không bị tiếng kéo, mũi ngửi mùi không bị mùi nhận chìm, lưỡi nếm vị không bị vị làm rối loạn, thân xúc chạm tự tại bình yên. Không cuộc trong căn nào hết. Nói tóm lại, mọi tiếp cận đều làm chủ được. Phổ Môntrùm khắp như thế. 

Trong cuộc sống hằng ngày, khi tiếp duyên xúc cảnh, vừa khởi niệm gì đằng sau đó là cắt. Công phu này từ kinh nghiệm của các bậc cổ đức, ứng dụng các giác quan trong lúc tiếp cận với trần cảnh. Người nào bình thản được với tất cả cảnh duyên, đó là người giác ngộ. Không làm chủ được các giác quan thì đi trong luân hồi sanh tử. Giản dị như thế. Với người có trí tuệ, thấy tất cả những hình sắc trước mắt, biết nó không thật, không chạy theo, không mắc mứu. Người này có một cái thắng bảo đảm an toàn, dù họ đang đi trên dốc ngược, nhưng cái thắng kê ngang là không nhúc nhích cục kịt gì cả. Trí tuệ sáng suốt là chúa tể, không gì có thể hơn nó. Sống với trí tuệ là sống với ông chủ của mình.

Mấy năm trước đây có một Phật tử là giáo sư Triết học. Anh có những kinh nghiệm về cuộc đời rất sâu sắc. Trao đổi, nói chuyện với anh tôi thấy thích thú. Anh dạy người ta những phương pháp sống vững vàng, không bị chao đảo bởi ngoại duyên, nhưng bản thân anh lại mê uống rượu. Bạn nhậu của anh cũng là giáo sư bác sĩ. Nhậu riết vợ buồn con khổ, sau cơn say tỉnh lại, anh thấy cũng xót xa cho mình cho gia đình. Vì vậy anh vào thiền viện xin công quả tập tu. Công quả chừng mười ngày là bắt đầu buồn buồn rồi. Hồi đó con đường trước chùa gập ghềnh lắm. Buổi trưa rảnh, anh dẫn xe cúc kít với cái cuốc ra san lấp mặt đường. Đang làm có ông bạn ngoài Vũng Tàu chạy ngang hỏi: 

- Mày làm gì đó? 

- Tao ở đây tu. 

- Trời đất ơi! Thôi dẹp đi, lên xe tao chở đi một vòng. 

Thế là quăng cuốc quăng xe cúc kít vô chùa, chưa kịp nói với ai là ông bạn chở đi tuốt. Chở về nhà ông bạn nhậu năm bảy ngày. Ở nhà nghĩ anh ở chùa, ở chùa nghĩ anh về nhà. Té ra anh tu với mấy ông bạn nhậu. Cả tuần lễ, tỉnh lại ông bạn đưa về sám hối mấy thầy. Hổm rày con mê khổ quá thầy ơi, con ra làm ngoài cổng gặp bạn nó dẫn đi tuốt. Thầy nói ai biểu ra ngoài làm chi, yếu đuối thì ở trong này có hàng rào bảo vệ, ra ngoài trước sau gì cũng bị lôi đi thôi. 

Cho nên chúng ta phải kịp phát giác chính mình. Yếu điểm nào thì chấn chỉnh điểm ấy, đừng để bị nghiệp lôi đi. Mỗi tối quí vị tụng kinh Bát-nhã để buông bỏ hết tật bệnh, phải biết uống thuốc của ông già để lại, luôn cảnh giác và làm chủ. Trong nhà thiền dùng từ chiếu soi, nghĩa là rọi lại mình. Để làm gì? Một là thấy mình có tánh giác sáng suốt trùm khắp, hai là thấy tất cả cảnh duyên không thật. Cái không thật thì không ôm giữ, không chạy theo. Cái chân thật cần phải sống, phải phát huy tròn đầy, phục hồi nguyên vị của chính mình. Phục hồi được cái đó thì mọi thứ bên ngoài không làm gì được chúng ta

Tất cả các pháp, nếu ta tỉnh thì nó là nhân duyên giúp ta tu thành Phật. Nếu ta không tỉnh thì nó là chất đam mê nhận chìm chúng ta. Cơm ăn áo mặc đối với thân này cũng thế. Người biết tu thì thân này là phương tiện, là cái phao cuối cùng để đưa họ lên bờ giác. Người không biết tu thì thân này là nguyên nhân dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta không thể đổ thừa tại cái gì hết, rõ ràng là tại mình. 

Nếu áp dụng thân để tu, đừng cho nó sai sử mình thì quí biết bao nhiêu. Bởi không có thân này, lấy gì chúng ta làm những việc công đức, lấy gì ngồi thiền tụng kinh. Thời gian trôi qua rất nhanh, chúng ta không lợi dụng thân này tu hành, đến lúc già yếu hối hận không kịp. Năm năm mười năm thoáng chồng chất, nhanh ơi là nhanh. Mới ngày nào tôi từ trên núi đội nón, quảy thiền trượng, vác bồ đoàn xuống vùng đất khô cằn này khai khẩn đồng hoang thành ruộng lúa nương khoai. Vèo một cái, đầu đã bạc chân đã mỏi, tay không còn cầm nổi cây cuốc nữa. Huynh đệ chúng ta không ai chạy khỏi sự biến dịch của vô thường cả. Hòa thượng nói bản án đã tuyên rồi, không ai thoát được. Nếu chúng ta chưa chịu nhận, chưa chịu lo cho mình, chưa chịu uống thuốc để trị bệnh trầm kha thì đâu phải là người sáng.

Phật là giác, cho nên đệ tử Phật cũng phải giác. Không giác thì không phải đệ tử Phật. Giác ít là con Phật, giác như Phật thì thành Phật. Chúng ta không còn thời gian để làm việc khác. Anh em ai nấy đều tâm tâm niệm niệm một việc duy nhất là làm sao trị bệnh của mình, làm sao uống được thuốc Phật, tiêu dung hết những cù cặn trong lòng, để sống an nhiên tự tại với tánh giác tròn sáng của mình. Đó là hạnh Phổ Môn trùm khắpchúng ta có duyên áp dụng hằng ngày. Mình có nguồn trí tuệ sáng suốt tỉnh táo, quyết định tất cả, không để sự sai trái có cơ hội sống dậy, len lỏi làm lầm mình. Tu là như thế. 

Mỗi chiều lên điện Phật đọc lại từng lời kinh tiếng kệ để tâm rỗng rang sáng suốt, chớ không phải nguyện đức Phật ban cho con quả vị Phật. Cha ông của con là những bậc đã giác ngộ, con cũng sẽ tu tập để được giác ngộ như các ngài. Con xin gầy dựng lại sức mạnh của chính con, gầy dựng lại niềm tin và sự tỉnh giác nơi chính mình. Phật đã nói con có sẵn tánh Phật, con nghiệm thấy quả đúng như vậy. Bây giờ trong từng phút giây, từng bước đi, từng hơi thở, con nguyện phát huy trọn vẹn tánh Phật ấy, không mong mỏi điều gì khác hơn. 

Đây là chỗ cơ yếu trong cửa huyền, rất khó xét lường. Bởi nhân tiếng mà thành nghe, nhân nghe mà thành tiếng. Song tiếng, nghe cùng quán sát thì một lúc đồng hiện, cho nên ứng dụng cũng đồng dấu vết kia. Đoạn này so sánh giữa Bồ-tát Diệu Âm và Bồ-tát Quán Thế Âm

Nhưng, trong kinh Diệu Âm có đến đi, còn Quán Âm là nói nghiệp tự tại, vì Diệu Âm là tánh hay nghe. Do lúc có âm thinh, thì tánh hay nghe mới bày ra, lúc không âm thinh thì tánh hay nghe tự lặng lẽ. Đó là chỗ mà Diệu Âm có dấu vết đến đi, tiêu biểu cho tánh hay nghe theo cái có không, sanh diệt của tướng âm thinh. Khác nào những hình bóng không thật trong gương kia. 

Ở đây so sánh năng lực, pháp tu giữa Bồ-tát Diệu Âm và Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát sử dụng nghiệp tức chỉ cho thể nhập tâm. Người thể nhập được tâm rồi là người đủ năng lực điều trị các thứ tưởng tượng. Với công dụng này, với pháp tu này đủ năng lực để trị bệnh loạn tưởng của chúng sanh. Những thứ cảm thọ, tưởng tượng, phân biệt, suy nghĩ... thuộc về tinh thần, nhà Phật nói thuộc về vọng tâm. Nó vô thường, không thật nên vừa có một niệm tưởng khởi lên chúng ta buông đi. Niệm tưởng nào cũng buông, dù là niệm Phật niệm Pháp, niệm Tăng, đó mới là người nhập Phổ Môn, người tự tại

Có những người điên mà không biết mình điên. Vì ham tu quá, họ mong được sự hỗ trợ của các thế lực huyền bí. Vì vậy hay nghe bên tai lời Bồ-tát dạy tu thế này thế kia. Lúc đầu dạy đúng, họ làm theo và thấy có kết quả lợi lạc. Từ đó tin tưởng tuyệt đối, Bồ-tát biểu làm gì cũng làm. Đang ăn Bồ-tát biểu đi phải đi, đang nói Bồ-tát biểu cười phải cười. Bồ-tát biểu đâu dám cãi, vì đã quen nghe rồi. Như thế riết rồi khùng, thân thể tiều tụy, nói xàm nói nhảm luôn. Khi lâm vào tình huống này thì thật là khổ. Nguyên nhân ban đầuchạy theo những tưởng tượng của mình. Chạy theo quá, không chịu dừng lại thì dẫn đến tình trạng như thế. Cho nên pháp tu thiền biết vọng tưởng không thật không theo, trị bệnh này hay vô cùng. Ai nói tu thiền điên là người đó không biết tu thiền. Thật ra tu thiền trị bệnh điên có hiệu quả nhất.

Nếu chúng ta cứ chạy theo các giác quan, chấp nhận hiện cảnh bên ngoài thì ngược xuôi dong ruổi tạo nghiệp, trả vay không biết đến bao giờ mới xong. Bây giờ từ các căn soi lại, thấu tỏ tánh giác thì bình yên. Nghe cũng thế, ngửi cũng thế, các căn đều như thế. Quay về tập trung vào chỗ gốc, không chạy ra ngoài nhất định sẽ bình yên. Nhà thiền có câu chuyện: Như con khỉ ở trong nhà, nghe con khỉ bên ngoài kêu chóe chóe, nó đáp lại choé choé. Hai con ứng đối nhau mãi thì một lát cả hai đều mệt, đều điên đảo. Nếu con khỉ trong nhà ngủ, con khỉ bên ngoài không nghe đáp lại, nó sẽ bỏ đi thì yên. Cả hai đều khỏe.

Trở lại tu các giác quan, chúng ta có tánh sáng suốt bên trong. Tánh sáng suốt này không có tâm phóng ra ngoài, cảnh bên ngoài cũng không có ý tác động đến mình. Giống như con khỉ bên trong ngủ, con khỉ bên ngoài cũng im luôn. Như vậy không có vấn đề gì xảy ra cả. Các giác quan sáng suốt, không lầm chạy theo cảnh thì chúng ta bình yên. Giản dị như vậy. Đó là phương pháp phổ khắp, phương pháp tu của Bồ-tát Quan Thế Âm.

Phẩm Phổ Môn cũng nói đến sự liên hệ với phẩm Bồ-tát Diệu Âm

Lại, như hành khách tạm dừng rồi đi nên chẳng tự tại. Nói Quán Âm là nghiệp tự tại. Nghiệp chính là bản tâm, là chủ nhân ông. Tự tại tức là bản tâm linh tri, cũng là chủ nhân ông. Bởi nghe có nghe không, tự là thinh trần hoặc có hoặc không, mà linh tri biết có biết không đó, chân quán thường tự tại. Thế thì, không tiếng đã không diệt, có tiếng cũng chẳng sanh, tức chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi và chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải động chẳng phải tịnh, tất cả đều chẳng phải, đó là chân quán tự tại. Lại, tức sanh tức diệt, tức đến tức đi… tất cả đều tức, đó là đại Bồ-tát. Trong kinh có đoạn:

Quán chân(1), quán thanh tịnh(2),

Quán trí tuệ rộng lớn(3),

Quán bi(4) và quán từ (5),

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng,

Sáng trong sạch không nhơ,

Trời tuệ phá các tối,

Hay dẹp vạ gió lửa,

Sáng soi khắp thế gian.

(1) Quán chân: Dùng chân trí soi tỏ chân lý.

(2) Quán thanh tịnh: Rõ thấu pháp tánh thanh tịnh.

(3) Quán trí tuệ rộng lớn: Trí tuệ rộng lớn thấu suốt tất cả pháp. 

(4) Quán bi: Khởi tâm đại bi vô biên, luôn xét nỗi khổ của mọi loài để cứu vớt chúng. 

(5) Quán từ: Vận tâm đại từ vô lượng, thường xem mọi loài ưa thích những gì để ban bố niềm vui cho chúng. 

Ở đây nói như hành khách tạm dừng rồi đi nên chẳng tự tại. Thinh trần là khách trần, nó như người khách khi có khi không. Lữ khách là người phiêu bạt giang hồ, không thường trụ ở đâu cả. Hình ảnh này dụ cho trần cảnh bên ngoài, cụ thể trong phẩm này là thinh trần. Thinh trần chỉ là cái tạm bợ, lúc có lúc không, giống như người lữ khách tạm nghỉ bên quán trọ ven đường. Đã là lữ khách tạm nghỉ nơi quán trọ thì chỉ nghỉ một đêm hoặc giây lát rồi lại tiếp tục lên đường, không dừng trụ vĩnh viễn. Các trần bên ngoài luôn luôn biến đổi như thế. Bên trong chỉ cho nghiệp tự tại, tức là chủ nhân ông, là bản tâm của chúng ta. Đó cũng là cái chân quán thường thanh tịnh, tức là trí tuệ trùm khắp nơi mỗi người. Cái này không phải lữ khách, không có chuyện tạm dừng rồi đi. Nó thường còn nên ở đây nói nghiệp tự tại

Nói rõ hơn, nghiệp tự tại của chúng ta là gì? Là tánh nghe hay tánh thấy. Các vật tượng trước mắt hoặc có hoặc không, cái thấy của chúng ta lúc nào cũng thấy. Cái thấy thường hằng liên tục, cho nên vật có vật không chúng ta đều biết. Ở đây chân quán cũng vậy. Ngài Minh Chánh gọi là nghiệp tự tại, nghĩa là nó không mất. Trần cảnh bên ngoài khi có khi không, tánh nghe vẫn thường hằng. Có thì nghe có, không thì nghe không, tánh nghe lúc nào cũng thế. Tánh nghe, tánh thấy… nói chung là tánh giác không bị trần cảnh bên ngoài làm động. Nó luôn tự tại, là chủ nhân ông của chúng ta. Ai cũng có, nếu nhận ra và sống được với nó thì mình bình yên.

Sở dĩ chúng ta khổ là vì cứ lầm lủi chạy theo trần cảnh rồi mắc mứu, lầm nhận cảnh duyên bên ngoài là thật, muốn nó còn mãi mà nó không còn. Chỉ khi nào ta khéo nhận lại tánh giác bất sanh bất diệt, thì dừng được tất cả lăng xăng, ngược xuôi, mắc mứu. Bấy giờ mình sẽ bình an. Huynh đệ tập trung sống cho với tánh giác của mình, gìn giữ nó. Được như thế là người giới luật tinh nghiêm, tu hành thanh tịnh, là người tự tại, không còn rày đây mai đó, phiêu bạt giang hồ. Bấy giờ là chủ nhân ông, nghiệp tự tại, là chân quán thường thanh tịnh, là bản tâm của chúng ta.

Chủ đích chư Phật ra đời là nhằm chỉ cho chúng ta tri kiến Phật nơi mỗi người. Chúng ta nhận và sống với tri kiến Phật của mình. Chỉ vậy thôi, chứ không có việc khác. Nếu chúng ta chịu nhận tri kiến Phật và hằng sống với nó thì đại nguyện đại thệ ra đời độ sinh của chư Phật trong mười phương thế giới được viên mãn. Các ngài thực hiện trọn vẹn bản thệ của mình là thị hiện ra đời để chỉ chúng sanh cái sẵn có mà họ bỏ đi. Bây giờ chỉ cần nhận lại, đừng chạy ra ngoài ngược xuôi nữa là xong.

Toàn bộ kinh Pháp Hoa với những hình ảnh ví dụ đều muốn nói lên một việc này thôi. Như ngôi nhà hư nát sắp sụp đổ, trong đó lửa dữ cháy đỏ, những đứa trẻ ham chơi không chịu chạy ra. Bấy giờ người cha của chúng muốn con ra khỏi nhà lửa, nên dùng phương tiện dụ các con mau ra, cha sẽ cho các thứ xe như xe dê, xe nai, xe hươu v.v... Bọn chúng nghe thế đua nhau chạy ra, cuối cùng người cha chỉ cho một loại xe duy nhất, đó là xe trâu trắng lớn rất xinh đẹp. Bản hoài của đức Phật ra đời để chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh. Vì căn cơ chúng sanh không đồng, Phật dùng phương tiện nói ba thừa, cuối cùng Như Lai chỉ một Phật thừa duy nhất, thù thắng vi diệu, không có gì khác. Nhất Phật thừatri kiến Phật vậy.

Như người qua sông cần có thuyền bè. Đã đến bờ rồi, thuyền bè không còn cần nữa thì bỏ đi. Chúng ta cũng vậy, một khi đã nhận sống với tri kiến Phật thì tự tại, không phải tu trì chi nữa, không còn chỗ nào để bám, để soi rọi nữa. Thiền sư Huệ Nam nói người đã qua cửa là người tự tại, phất tay áo mà đi. Người qua cửa mà còn hỏi kẻ khác mình qua cửa chưa, nên biết người ấy chưa qua cửa. Chúng ta nói tu hành, giữ giới, tụng kinh, ngồi thiền, làm tất cả việc công đức đều nhằm làm sao nhận được sống được với tánh Phật. Từ chỗ quí vị nhận ra yếu chỉ thẳng tắt của các thiền sư, các ngài muốn chúng ta đi thẳng, đến thẳng, không cho bám víu bất cứ một thứ gì. Vì vậy ngài Lâm Tế hỏi đại ý Phật pháp bị ăn đòn. Người xưa tâm từ bi đến độ không để cho học trò có một tí xíu bám víu nghĩ ngợi nào. Vừa mở miệng liền “bốp”, rất nhiều vị thiền sư như vậy. 

Chúng ta ngược lại cứ vận dụng đến mớ tư tưởng, cho đó là thật rồi soi cái này, đục cái kia, bám cái nọ, cả đời kiếp vẫn là kẻ lữ khách ngược xuôi. Chúng sanh có mặt ở các cõi là do nghiệp dẫn, đây chính là cái lầm to nhất. Lầm sinh ra đời, lầm nhận thân này thật, lầm nhận tất cả hiện tượng chung quanh là thật, lầm nhận tâm vọng tưởng là thật. Tóm lại, tất cả đều lầm, không có cái nào tỉnh. Chúng ta học đạo giác ngộ mà không có giác ngộ. Bởi vì cái gì cũng lầm cũng chấp. Những thứ hư giả mà cho là mình nên không thể nhận ra cái chân thật. Như nhà củi của thiền viện, huynh đệ chất củi đầy ắp trong đó, không thể đem cái gì khác vô được.

Ngay từ gốc đã lầm đã sai, từ đó phăng ra, lầm mê này chồng chất đến lầm mê khác. Do đó chúng ta học đạo cả đời cũng không sáng đạo. Thiền là pháp môn thẳng tắt, một phương pháp mà không có phương pháp gì hết. Hòa thượng Thủy Lạo bạch với Mã Tổ “Thế nào là đại ý Phật pháp”, Tổ đạp cho một đạp té ngửa, ngài ngóc đầu dậy cười hả hả, ngộ đạo. Phương pháp gì? Đâu có tụng kinh chi, Bát-nhã tâm kinh, Kim Cương, Pháp Hoa, Niết-bàn… không có kinh toát ra được cái đó. Con người như vậy, căn cơ như vậy, khéo nhận như vậy thì giác ngộ. Từ đó về sau cách cư xử của ngài đều biểu hiện hoạt dụng của một con người trí tuệ.

Ở đây tôi muốn nói đến chữ khéo. Cơ hội để chúng ta ngộ đạo đầy dẫy trước mắt. Những pháp môn, những thủ thuật người xưa đã mở bày trắng ra, không giấu diếm gì cả. Mình chỉ khéo. Người u mê thì thôi đành, chứ những ai khéo léo một chút, dũng cảm một chút nhận ra tức thì. Thời của chúng ta không phải thời trước mình không có Phật, đây là thời đằng trước trùng điệp chư Phật tổ đã đi qua, để lại vô số gương hạnh dấu vết cho kẻ sau. Bây giờ chỉ dám buông bỏ các thứ tạp nham, nhìn và nhận lại cái thật của mình, dễ hơn người xưa rất nhiều. 

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A Nan thấy không? Đáp thấy. Đức Phật hạ tay xuống, hỏi thấy không? Đáp không thấy. Phật quở “nếu ông không thấy, vì sao biết không có nấm tay ta đưa lên?” Chỗ này người khéo sẽ nhận ra tức thì. Rõ ràng cái thấy không mất. Cái nghe cũng vậy. Như tôi nói thì quí vị nghe có âm thanh, tôi im lặng quí vị nghe không có âm thanh. Nếu không nghe vì sao quí vị biết tôi im lặng. Bây giờ chúng ta nhớ làm người khéo, là con cháu của tráng sĩ chặt tay trên Tung Sơn thuở nào, gan dạ nhận lại cái chúng ta có. Nếu người không gan, dù ở đạo tràng này một trăm năm cũng chỉ là kẻ quét sân, cuốc đất, không thêm không bớt. Người học thiền phải biết khám phá chính mình, phải gan dạ như vậy mới được. 

Chư huynh đệ đã được học Phật pháp của đức Phật, thiền sử của các thiền sư từ Ấn Độ, Trung Hoa sang Việt Nam đầy đủ, không thiếu chi cả. Kiến giải như vậy rất là nhiều, nếu không tu e rằng chúng ta sẽ bị sình bụng, bể bụng mà chết. Sình bụng vì không ứng dụng Phật pháp được, gặp ai cũng nói xàm, do dồn vô nhiều quá mà không tiêu hóa nổi nên phải nói ra cho hả hơi. Giống như người bị thương thực, buổi chiều ăn nhiều, tối bụng sình lên không chở đi nhà thương kịp, có thể nguy hiểm đến tánh mạng. 

Trong nhà thiền có câu “Kích thạch hỏa” tức là lấy hai viên đá gõ vào nhau cho nó nháng lửa lên. Tụng kinh ngồi thiền, tất cả phương tiện khác đối với hành giả tu thiền là kích thạch hỏa. Ai muốn có lửa muốn sáng thì kích hoài. Người nào cất kỹ trong tủ, lâu lâu kích chơi một cái thì chịu thua. Các anh em nào thích tu thiền Hòa thượng nhận hết, không bỏ một ai dù hoàn cảnh vị ấy ra sao. Ngài thương người tu. Nhưng kể từ khi có trường Phật học ra đời, nhiều vị đang tu trong thiền viện muốn đi học, Hòa thượng biết ngay vị ấy không có công phu hành thiền. Ở đây nuốt không trôi mà muốn học thêm nữa, khác nào kẻ thương thực lại bị thương thực tiếp. Cái bụng đã sình lên, bây giờ dồn thêm nữa thì nó bể thôi, không có gì lạ. 

Tuy huynh đệ tu học trong thiền viện nhưng không bị dốt. Anh em chịu khó coi lại bài vỡ đã được học, những điều Hòa thượng Ân sư vất vả nghiên tầm, đúc kết để hướng dẫn chúng ta tu hành, không thiếu chi cả. Có điều người nào dồn nhiều quá, giống như cái bị của ông ba bị, ai cho gì cũng thảy vô hết, bây giờ không biết lấy cái nào ra xài. Bản thân quí vị muốn dùng pháp nhưng không biết lấy ở đâu nữa. Tại vì nó không trật tự, không chân quán. Huynh đệ để mất thì giờ khá nhiều, bây giờ cố gắng đừng để mất thì giờ nữa. Mình chỉ làm một việc duy nhất là nhận cho được tánh giác qua sáu căn. Căn nào cũng được, tùy mỗi vị thích hợp.

Nghiệm lại trong đời sống, chúng ta còn lầm nhiều thứ lắm. Do lầm nên tự ngã thể hiện nguyên vẹn trong lối ứng xử, lối giao tiếp hằng ngày. Cống cao, sân giận, tật đố… là những biểu hiện của một bản ngã còn chìm trong si mê, lầm lạc. Người tu phải thấy rõ điều này. Chúng ta kiểm tra từng hơi thở, từng bước đi của mình, sửa ngay khi chúng nhú mầm mới được. Người nhìn ra thấy như vầy như kia là không biết mình lầm, cứ nói tôi thấy đúng, cho nên thường xảy ra vấn đề. Vấn đề nổi cộm nhất là phiền não. Tu riết mặt mày méo xẹo, hai mắt trỏm sâu thành ra bệnh. Bệnh tu. Hành giả nào bị thiền bệnh phải sớm xả bỏ các kiến chấp

Những gì chúng ta không giải tỏa, không tiêu dung được trong sinh hoạt của mình là phiền não. “Phiền” là những bức xúc, bực bội bất ổn, nó làm mình căng đầu giống như bị lửa đốt. “Não” là tâm bị chèn ép, đè nén, bất an bất ổn. Cho nên lửa phiền não hừng hực trong chúng ta thì mình không yên. Người bị phiền não ăn không ngon ngủ không yên, thất chí nản lòng, rồi trở thành người tiêu cực. Nếu cố gắng đè nén càng đưa đến tình trạng bất đắc chí. Làm việc gì chỉ làm lấy lệ thôi, không hết lòng nên chẳng có kết quả gì. Bởi vậy nên các thế lực của ma xen vô. Tu hành mà bị như thế, nếu không phải hạng “bán đồ nhi phế”, thì cũng là hạng muôn đời “bất đắc chí” mà thôi. Nam nhân chi chí mà trở thành một người bất đắc chí thì uổng biết bao nhiêu. 

Cho nên hễ tu phải ra tu, tu tới nơi tới chốn, khẳng định như vậy. Một đường thẳng tiến, không có cái khác. Bao giờ chúng ta sáng được việc của mình mới yên lòng. Người sáng được việc rồi, sống với tánh giác, thấy mọi thứ chung quanh không có gì đáng kể, ai nói gì cũng chỉ “thế à!”. Thiền sư Bạch Ẩn đang là một bậc thầy sáng chói, người đời xem ngài như Phật sống. Có cô gái dẫn cha tới nói ngài là tác giả cái thai hoang trong bụng cô. Ông già làm dữ, ngài chỉ nói “thế à!”. Sau một thời gian cô sanh con, đem tới cho ngài nuôi, Ngài cũng bảo “thế à!”. Thật bình thản. Bấy giờ tất cả những gì ngài đang có đều vuột mất. Tiếng tăm, đệ tử, chùa chiền, bổn đạo… đồng một lúc tan hoang. Ngài nhận đứa bé nuôi, mỗi ngày đi xin sữa cho nó uống, người ta chửi bới, nguyền rủa đủ thứ. Ngài vẫn “thế à”, không nói thêm lời gì. Cho tới một hôm, mẹ đứa bé chịu hết nổi, thấy mình làm cho vị Phật sống phải chịu như vậy, cô khai thật với cha “ba ơi, hồi đó con sợ ba đánh nên con nói đại ngài Bạch Ẩn là cha đứa bé, nhưng sự thật không phải. Cha nó là một kẻ nô lệ trong nhà” Ông già hoảng lên, mau mau chạy tới dập đầu sám hối ngài Bạch Ẩn. Thiền sư cũng chỉ “thế à”, rồi vui vẻ giao đứa bé cho cha con cô gái mang về. Người sáng được việc của mình, không có tâm khác, tự do tự tại như thế. Thật là một sức mạnh phi thường không ai địch nổi.

Chúng ta cũng có nghiệp báo riêng, không ai giống ai. Ngoài cộng nghiệp còn có biệt nghiệp, biệt nghiệp này mới đáng sợ. Nó xuất hiện như những bản án. Nếu chưa sáng được việc lớn, biệt nghiệp này quậy chúng ta rất đáng lo ngại. Đôi khi chúng ta thua nghiệp, phải cuốn gói theo nó, hỏng cả một đời tu. Cho nên anh em thận trọng, giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, ở yên trong đại chúng. Bởi chỉ có sự bảo hộ của đại chúng mới giúp chúng ta giữ gìn giới thân huệ mạng của mình một cách an toàn nhất. Chỉ những vị sáng được việc lớn mới kham nhận, trả nghiệp một cách bình thường, còn thì không nên khinh xuất mà tan thân mất mạng. Đây là điều hết sức quan trọng đối với người tu.

Cho nên muốn chắc ăn phải sáng được việc của mình, không thì cứ vay thêm, mắc mứu thêm hoài. Phẩm Phổ Môn, Bồ-tát Quan Thế Âm dạy chúng ta từ căn tai xoay trở lại với tánh nghe của mình, đừng chạy theo thinh trần. Thực hành như vậy bền lâu, chúng ta sẽ sáng được việc lớn. Chỉ như thế mới ra khỏi trầm luân sanh tử, vĩnh viễn không còn bị nghiệp tập vây bủa kéo lôi vào các đường, chịu khổ triền miên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11638)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11351)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17988)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9952)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11242)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12099)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10619)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12690)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19671)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12673)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11641)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12615)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13628)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13053)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11487)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19706)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant