Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển V

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7582)
Quyển V

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
 Đại Sư Khuy Cơ biên soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường 
Biên soạn: Giáo sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2005

 

QUYỂN THỨ NĂM (PHẦN TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.

PHẨM THỨ BA THÍ DỤ

Ba môn phân biệt

 I. NÓI RÕ DỤNG Ý .
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.

I. NÓI RÕ DỤNG Ý

Có 2 ý :

1. Thu Tử là hạng thượng căn nghe pháp rồi liền tỏ ngộ. Bốn người khác là hạng trung căn phải nhờ vào thí dụ mới biết được. Trên đã giáo hóa cho hạng thượng căn, dưới phải làm cho hạng trung căn hiểu rõ. Cho nên mới có phẩm này.
2. Luận rằng : từ đây trở xuống là thuyết Bảy thí dụ cho bảy loại chúng sinh có đủ phiền não tính để đối trị bảy loại Tăng thượng mạn và thuyết cho ba hạng người tuy không có phiền não nhưng nhiễm mạn. Nhiễm mạn về Tam muội, Giải thoát, Kiến v.v…, tức là để đối trị loại nhiễm mạn này thì thuyết về Ba bình đẳêng. 
Lại nói : dư tàn Tu đa la thuyết minh về Mười nghĩa vô thượng
Đây có ý nói chung chỉ rõ 26 phẩm ở dưới sẽ thuyết minh về ba nghĩa này.
•Bảy thí dụ : ở tại bảy phẩm :
1) Dụ nhà lửa, ở phẩm Thí Dụ này.
2) Dụ về người con nghèo túng, tại phẩm Tín Giải.
3) Dụ về mây mưa, tại phẩm Dược Thảo.
4) Dụ hóa thành, tại phẩm Hóa Thành.
5) Dụ đeo bảo châu, tại phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thụ Ký.
6) Thí dụ về cởi minh châu trong búi tóc, tại phẩm An Lạc Hạnh.
7) Dụ thày thuốc, tại phẩm Thọ Lượng.
Cứ theo thứ tự đó, mỗi thí dụ ở tại một phẩm.
•Ba bình đẳng : có trong 9 phẩm :
1) Thí Dụ.
2) Thụ Ký.
3) Ngũ Bách Đệ Tử Thụ Ký.
4) Thụ ký Cho Hạng Hữu Học Vô Học.
5) Pháp Sư
6) Khuyến Trì .
7) Đề Đà Đạt Đa
8) Thường Bất Khinh. 
9) Thấy Bảo Tháp
Tám phẩm đầu đều có thụ ký, thuyết về sơ thừa bình đẳng. Trong phẩm Thấy Bảo Tháp ở cuối thì thuyết gộp cả hai thứ bình đẳngSinh tử Niết bàn bình đẳng, pháp với thân bình đẳng.
• Mười nghĩa vô thượng : có ở 21 phẩm :
- Chín vô thượng đầu có ở 7 phẩm :
1) Dược Thảo Dụ
2) Hóa Thành Dụ : tại đây có hai vô thượng thứ hai và thứ ba. 
3) Ngũ Bách Đệ Tử Thụ Ký. 
4) Thấy Bảo Tháp
5) An Lạc Hạnh
6) Dũng Xuất.
7) Thọ Lượng : tại đây có hai vô thượng thứ tám và thứ chín. 
Trong 7 phẩm trên, trừ các phẩm thứ hai, thứ bảy, còn năm phẩm kia mỗi phẩm có một vô thượng.
- Dư tàn Tu đa lavô thượng thứ mười. Có nghĩa là 14 phẩm còn lại đều là vô thượng thứ mười. 
Ở trong 14 phẩm này có hai lực : Pháp lực và Tu hành lực.
+ Pháp lực có 3 phẩm : 
1) Phân Biệt Công Đức
2) Tùy Hỷ Công Đức
3) Pháp Sư Công Đức.
+ Tu hành lực có 7 lực, gộp lại là 11 phẩm :
1. Trì lực, có ba phẩm : 
1) Pháp Sư.
2) An Lạc Hạnh.
3) Khuyến Trì.
2. Thuyết lực, có 1 phẩm : tức là Thần Lực.
3. Hành khổ hạnh lực, cũng có 1 phẩm : tức là phẩm Dược Vương.
4. Giáo hóa chúng sinh hành khổ hạnh lực, cũng 1 phẩm, đó là phẩm Diệu Âm.
5. Hộ chúng sinh chư nạn lực, có 2 phẩm :
1) Quan Âm Phổ Môn
2) Đà La Ni.
6. Công đức thắng lực, có 1 phẩm : là phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự.
7. Hộ pháp lực, có 2 phẩm : 
1) Phổ Hiền
2) Chúc Lụy
Mười vô thượng ở sau là bảy thí dụ ở phần đầu.
Tam bình đẳng tàn : gọi là Thượng tàn. Nên trong bản luận giải bảy dụ ba bình đẳng xong, nói : “Dư tàn Tu đa la nói rõ nghĩa vô thượng”. Vô thượng thứ mười là tàn của chín loại vô thượng trước, gọi là Hạ tàn. Cho nên trong bản luận giải thích về vô thượng thứ mười, nói : “Mười đây là thắng diệu lực vô thượng dư tàn Tu đa la thuyết”.
- Tàn có hai nghĩa :
+ Một là Văn tàn, vì chưa từng thuyết.
+ Hai là Nghĩa tàn, vì trước tuy đã thuyết, song chưa hết nghĩa, còn muốn có thêm ý khác nữa, nên nay lại thuyết nữa, gọi là Nghĩa tàn.
Sợ văn dài dòng, nên lướt qua chẳng nói. Tới trong các phẩm sau sẽ nhất nhất giải thích kỹ, vì trong bảy phẩm : Dược Thảo, Hóa Thành, Ngũ Bách Đệ Tử, Bảo Tháp, Khuyến Trì, An Lạc HạnhThọ Lượng, hoặc về văn hoặc về nghĩa đều nói lại.
Còn bảy dụ, thì vì hạng phàm phu hữu học gọi là hạng có phiền não, có bảy loại Tăng thượng nhiễm mạn, để đối trị hạng này nên thuyết bảy thí dụ.
Như chấp Hóa thành cho đó là Chân thành (tòa thành có thật), tức là cho rằng cái mà họ mong cầu là Tam Ma Bạt Đề (thiền quán) thế gian sẽ là Chân diệt (diệt độ thực sự). 
Chấp vô họcviên mãn, nên không còn có điều sở cầu gì nữa
Hạng vô học nhị thừa, gọi là người không phiền não.
Có 3 loại pháp chấp nhiễm mạn : Tam muội, Giải thoát, Kiến v.v… . Đó là pháp chấp hướng về nhị thừa, tuy chẳng gọi tên là Nhiễm.
Hạng này hồi tâm rồi, thì gọi là Bồ tát nhiễm pháp chấp. Hạng Bồ tát này gọi là nhiễm vô phiền não mạn. Luận dịch nghĩa là điên đảo cũng là ý này.
• Nghĩa vô thượng thì trong đại thừa có thể nói là có. Các thừa khác thì không. Do đó, thuyết về ba thừa có sự khác nhau, vì Giáo Lý Hạnh Quả có sự khác nhau.
Luận dẫn lời Phật dạy : “Chẳng lìa thân ta, đó là Nghĩa vô thượng”. Nhị thừa chẳng nói nghĩa này, vì chẳng giải được. Do đó vô thượng tức là Giáo Lý Hạnh Quả của nhất thừa, tùy theo sự thích ứng mà phối vào các phẩm.
• Bảy loại Chúng sinh cụ túc phiền não :
Thứ nhất là người cầu thế lực, khởi điên đảo bậc nhất, cầu công đức Tăng thượng mạn, vì bị các phiền não thế gian thiêu đốt nên cần cầu diệu cảnh quả báo của trời người. Vì loại này mà thuyết dụ Nhà Lửa. 
Phú quý tự tại, gọi là thế lực. Vì các phàm phu cầu diệu cảnh ngoại quả cùng nội quả báo này của trời người, chẳng biết phiền não thiêu đốt nung nấu, cho nên vì hạng này mà thuyết về dụ Nhà Lửa, bởi vì phiền não do thế lực của trời người thiêu đốt cũng như nhà lửa.
Thế tôn nay nói có 2 xe, tức là thiện căn tam muội thế gian, Bồ đề chỉ là giả giải (giải thoát giả, chẳng phải giải thoát thật) để khiến họ ra khỏi nhà lửa, rồi sau đó khiến họ dần dần nhập Phật đại Niết bàn
Cho nên luận nói rằng : đối với hạng người thứ nhất, thì dùng các loại công đức thiện căn tam muội thế gian làm phương tiện khiến họ thích thú, sau đó khiến họ nhập Niết bàn.
Ở đây chẳng nói “Chính chứng Sinh không Trạch diệt Chân trí” trong đạo giải thoát gọi là tam muội thế gian.
Giả giải đó là dê hươu, chẳng phải là thể của xe. Từ quán đó rồi nhập định thế gian, quán điều đã chứng trước đây.
Vì tâm thô nên chẳng thấy Chính tríSinh không như (chân lý Sinh không), mà lại thấy Hoặc, Nghiệp, Hậu khổ chẳng sinh, tâm liền biến, tưởng là Niết bàn giải thoát
Niết bànChính trí chứng được trong căn bản quán, thì dưới đây gọi là Hóa thành
Chẳng nói do giả quánbiến thành Thành, vì chẳng hết khổ. 
Nay thuyết về ngôi Hậu đắc trí, thời sau năng biến, tưởng giải (tưởng là giải thoát), gọi là thiện căn tam muội thế gian. Các thứ công đức Khinh an Hỷ lạc, giả danh là dê hươu, giả danhChủng trí, là để cho họ thích thú, sau đó dạy họ nhất thừa, rồi mới khiến họ nhập Phật đại Niết bàn, tới Phật vị, năng nhập xe trâu (chỉ nhất Phật thừa) tức là Hai trí, tức là Bồ đề. Niết bàn sở nhập tức là Bảo sở.
Trong dụ Hóa thành ở sau, nói rằng nhị thừa chấp chỗ Hoặc Khổ chẳng sinh đó là Niết bàn. Lý thực Niết bàn trong đạo giải thoát là Chíùnh trí chứng. Cho nên nói nhập Hóa thành, là để các lái buôn đều khỏi mệt. Vì các trí trước sau đều chẳng thể liễu ngộ mọi pháp, nên thực ra chẳng phải là Chủng trí
Thuyết về xe dê, xe hươu chỉ có danh mà chẳng thấy lên xe, vì nói đó ví như thiện căn tam muội thế gian, để khiến họ thích thú. Nhị thừa chấp đó cho là hai xe, thực ra chẳng phải là thể của xe, như bốn điên đảonhị thừa khởi lên. 
Chính quán chẳng thế.
Sau mới tưởng giải, duyên vào đây mà khởi chấp. Hóa thành cũng thế
Nay để đối trị thói Tăng thượng mạn điên đảo cầu công đức của hạng người cầu thế lực, cho nên nói thí dụ về xe này.
Đó là dụng ý của phẩm này. Các nghĩa khác đây, sẽ giải thích sau. 

II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.

Thí : là ví, là tỉ loại (so sánh, giống như). 
Sách Ngọc Thiên nói : tỷ loại để giúp nhau hiểu rõ.
Dụ : là khai thông, là hiểu rõ
Sách Ngọc Thiên nói : đó là hiểu, là can gián vậy. 
Nay nêu các sự tích gần gủithế gian để ví với đạo lý thâm diệu của Xuất thế gian, để khai thị cho kẻ chưa giác ngộ được hiểu rõ sự mê muội trước đây. 
Thí dụ để hiểu rõ, gọi là phẩm Thí Dụ. Hoặc là Thí tức là Dụ, nên gọi tên là phẩm Thí Dụ.

III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 

• Câu hỏi 1 : đây căn cứ vào cái lý dụ hiểu mà gọi tên là phẩm Thí Dụ. Sao phẩm trước lại lấy thẳng pháp mà đặt tên pháp phẩm ?
Giải đáp : trước sau làm thể lệ lẫn nhau, lý ra thực nên như thế. Nhưng việc đặt tên khác nhau, làm sao mà biết rõ được nguyên nhân ? Song vì Phương Tiện là nghĩa riêng trong pháp, còn Thí Dụ là tên chung chỉ sự ví von. Chung riêng đã khác thì tên gọi cũng phải khác, không thể cứ rập khuôn như nhau được.

• Câu hỏi 2 : cớ sao trong kinh có tới 7 thí dụ, mà riêng đây được đặt tên là phẩm Thí Dụ còn các phẩm khác được đặt gộp vào tên riêng của phẩm đó ?
Giải đáp : dụ tuy có 7, nhưng đây là đầu tiên. Tuy nêu lên tên gọi chung, nhưng tự nó đã là tên riêng, còn các phẩm khác chẳng phải chỉ thuần túy gọi là thí dụ.

• Câu hỏi 3 : hạng trung căn tín giải thì nêu riêng thành phẩm Tín Giải. Hạng thượng căn lĩnh ký, lẽ ra cũng phải nêu riêng. Cớ sao khi thuyết minh về việc Thu Tử lĩnh ký lại gửi gấm luôn vào trong phần đầu của phẩm này ?
Giải đáp : về hạng trung căn lĩnh ký, văn rộng nghĩa dài, bởi vậy nêu riêng. Thu Tử chẳng thế, nên nói kèm luôn vào đây. Lại vì Thu Tử lĩnh ký, khải thỉnh, nên Phật mới nêu thí dụ. Cho nên việc lĩnh ký của Thu Tử được thuyết minh kèm ở phần đầu của phẩm này.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Xá Lợi Phất” tới “được pháp Vị tằng hữu”. 
Tán rằng : chính trong phẩm này, chia làm hai phần lớn : 
- Phần đầu nói về việc Thu Tử nghe pháp lĩnh giải hoan hỷ kể lại thành tựu và được thụ ký.
- Phần sau nói về việc đức Phật dùng thí dụ một cách rộng rãi để hóa độ cho hạng trung căn ở đó.
Phần đầu thuộc vòng đầu đã nói ở trên : thuyết về pháp nhất thừa. Vòng đầu có bốn, trên : pháp đã thuyết xong, dưới đây là ý thứ hai : Thu Tử nghe pháp lĩnh giải, tự trách rồi sinh hoan hỷ. Trong này có hai phần : đầu là trường hàng, sau là kệ tụng
Đây là phần đầu. 
Theo cách giải thích của thế gian thì chữ Dũng nghĩa như chữ Kiểu, Nghiêu (có nghĩa là kiễng chân, co một chân lên), chữ Dược nghĩa là nhảy. “Co chân mà nhảy” hình dung sự hoan hỉ tới cực độ. Được nghe chân đạo, thấy được quyền thừa, nên dũng dược tưng bừng (vô cùng phấn khởi).
Được thỏa lòng mong muốn, cho nên hoan hỷ. Để tỏ rõ đã phát tâm đại thừa nên liền đứng dậy. Tâm hợp với điều Phật thuyết nên chắp tay nhất tâm xin Phật giảng thêm. Chiêm ngưỡng tôn nhan giãi bày bản tâm với Phật nên nói là : “Bạch Phật”. 
Pháp âm đây là chỉ ngôn giáo đại thừa
Vì là pháp chưa từng được nghe nên nói là đắc vị tằng hữu (được pháp chưa từng có).
Lại do ba nghĩa, cho nên hoan hỷ :
1) Nghe Phật thuyết pháp, tâm an như biển ; biết đây là Phật chẳng phải là ma, cho nên hoan hỷ
2) Nghe giảng nhất thừa ngày nay là thực thừa, mới hiểu rõ tam thừa ngày xưa chỉ là quyền thừa, tam thừa là nhân của nhất thừa, bởi vậy hoan hỷ
3) Nghe Phật nói 1.200 A la hán cũng đều sẽ thành Phật, cho nên hoan hỷ.
*
-Kinh văn : “Vì sao như vậy” tới “vô lượng tri kiến”. 
Tán rằng : dưới đây giải thích về nguyên nhân của sự hoan hỷ, có bốn :
1) Vì mất đại pháp đến nỗi phải thở than.
2) Ở bậc tiểu thừa, nay nghe đại pháp thì sinh hoan hỷ.
3) Hoan hỷ vì nay được nghe đại pháp thì hết phiền não
4) Vì biết rằng là Phật tử thì sẽ thành đạo
Đây là phần đầu.
* Chữ Dự [ 豫 ] có nghĩa như chữ Nhập, chữ Quan. Sách Ngọc Thiên nói : Dự có nghĩa là “làm trước” ,là “dự bị ” , là “từ lâu”. Theo sách Thiết Vận, chữ này âm đọc như Dật, nhưng sách này viết là [ 豫 ], đúng phải viết là [ 預 ]. Sách Nhĩ Nhã viết là [ 預 ], và giải nghĩa là : cùng, cùng với. Cổ văn viết là [與] như câu “Công tất dự [與] yên” (ngài ắt dự vào đó). 
Chữ Cảm : nghĩa là Khích (cảm khích = xúc động). Chữ Thương : đây có nghĩa là Thán (than thở).
Xưa kia nghe chuyện Bồ tát được thụ ký như vậy, mà chúng tôi chẳng được gia nhập vào số các vị xưa nghe thụ ký, chẳng được dự vào việc thụ ký, bởi vậy nên đã xúc động ân hận xót xa vì đã mất năm loại tri kiến của Như Lai, hoặc mất tri kiến Trí tính Trí tướng của Như Lai.
*
-Kinh văn : “Thế tôn ! Tôi thường ở một mình” tới “mà được tế độ” .
Tán rằng : dưới là ở bậc tiểu thừa nên phải than thở
Có hai ý : đầu tiên than nỗi trụ ở tiểu thừa; sau đó là tự trách bản thân
Đây là phần đầu. 
* “Thường” : có nghĩa là Hằng. Chữ “Mỗi” : có nghĩa như Sác, Lũ (nhiều lần), là từ chỉ số lần không nhất định. “Nhập” : có nghĩa là chứng.
- Pháp tính : đây là nhân vô ngã, là chân như, mà mọi người ai cũng có thể chứng được. 
Tôi và Bồ tát đều có thể chứng nhập Vô ngã chân như, vì sao mà một mình Như Lai đã từ tiểu thừa mà được độ thoát
Hoặc là, Tính : đây là chỉ Thể. Cùng nhập trong Phật pháp thể loại.
* Có bản chữ Thường [ 常 ] viết thành [嘗 ] có nghĩa là “đã từng ”.
*
-Kinh văn : “Đó là lỗi của chúng con, chẳng phải là do Thế tôn” .
Tán rằng : dưới là tự trách mình.
Có ba phần : đầu là phần nêu, thứ đến giải thích, cuối cùngkết luận
Đây là phần nêu.
* Chữ Cữu : có nghĩa là tội lỗi, tội lỗi của tôi. Chữ Cữu, âm gọi là phiên thiết của Cự Cửu. Chữ này là chữ hội ý : hội ý của hai chữ Nhân Các. Người ta có điều chống đối trái ngược nhau thì thành ra tội lỗi.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao” tới “mà được giải thoát”. 
Tán rằng : đây là giải thích nguyên do.
Nhân : đây là chỉ Nhân hành để thành đại Bồ đề, chỉ bốn hạnh Bồ tátThất địa :
1. Bồ đề phần. 3. Các thần thông
2. Ba la mật. 4. Thành tựu hữu tình
Ngài Ca Diếp nói rằng : “Đối với Bồ tát pháp, Du hí thần thông, Tịnh Phật quốc độ, Thành tựu hữu tình, thì tâm chẳng ưa thích”. Cho nên Nhân của Chính giác chính là bốn hạnh này. 
* Chữ Đãi (đợi) : có nghĩa là mong đợi, khao khát, hy vọng.
Thu Tử tự nói : Nếu bọn chúng ta mong đợi, hy vọng, khao khát cái nhân của Vô thượng chính giác, thì Phật ắt sẽ dùng đại thừađộ thoát cho. Song do chúng ta ở trong đại nhân (nhân đại thừa) mà chẳng sinh ra hy vọng chờ đợi, cho nên Thế tôn chẳng dùng đại thừatế độ cho. 
Hoặc là, Nhân : là chỉ cho tâm Bồ đề, có ba loại :
1. Chán ghét lìa bỏ hữu vi
2. Cầu Bồ đềà.
3. Tâm niệm sâu sắc nghĩ tới chúng sinh
Tức là trụ như vầy, tu hành như vầy, hàng phục tâm đó như vầy.
*
-Kinh văn : “Song chúng con ” tới “tư duy thủ chứng ”. 
Tán rằng : đây là kết luận tự trách. 
Song do chẳng hiểu là Phật đã dùng phương tiện tùy nghidiễn thuyết về các pháp, mới nghe đã tin đã thụ hành, tư duy thủ chứng ngay, nên Phật chẳng dùng đại thừađộ thoát cho. Do đó, đây là lỗi của chúng con. 
*
-Kinh văn : “Thế tôn” tới “khoan khoái rất được yên ổn”. 
Tán rằng : đây là mừng nay được nghe mà hết phiền não.
* Chữ Khắc [ 剋 ] đây nghĩa là Chuyên.
Xưa nay tu tiểu thừa, chuyên tự trách tự hối chẳng cầu đại thừa.
Chữ Nghi : là nghi Bồ đề đối với bản thân mình không có phần, chẳng sinh ra ưa thích. Hoặc lại còn cho rằng bản thân mình đã được giải thoát không khác gì Phật. Nay nghe Phật nói pháp mà Phật chứng được rất sâu rất khó hiểu, nhị thừa chẳng hiểu, cho nên nghi Phật là ma.
Nay đã nghe thuyết nhất thừa là thực, tam thừa là quyền, biết xưa tu tiểu (thừa) là nhân của đại (thừa) bởi vậy Hối đoạn.
Biết rằng mình có phần Bồ đề sẽ được thành Phật. Biết sở đắc giải thoát là Phật phương tiện, cho nên nghi cũng đoạn, tâm khai ý giải, thân ý thảnh thơi
Thảnh thơi : có nghĩa là yên ổn vui vẻ. Đã không nghi hối nữa, nên khoan khoái yên ổn. Nghi hối nếu nảy sinh sẽ thường xuyên chẳng yên ổn, làm sao mà được thảnh thơi ?
* Chữ Đoạn : có hai âm Đoạn và Đoán, nay lấy âm đầu, có nghĩa là cắt đứt, dứt đứt.

Hỏi - : Nghi sinh phân biệt, nhập Kiến (đạo) liền trừ; Hối thường hay lo, lìa dục liền xả. Tại sao Thu Tử đến nay mới trừ được hai thứ đó ?
Đáp - : Nghi do phiền não, đến quả Dự lưu sẽ hết. Hối bạn với phiền não, lìa dục liền trừ. Nay loại pháp chấp này dị thục sinh nghi, như A la hán nghi loại Hắc diêm (muối đen), nghi về sự, sinh ra ghét gọi là hối, về lý chẳng sai.
Thể của việc sinh nghi ra ghét này là Thiện Quí (xuất phát từ thiện tâm, mà thấy xấu hổ), vì khinh rẻ cự tuyệt các việc bạo ác, hoặc chính là một phần của Chán, Tuệ cùng với Vô tham, vì cũng tức là xét kỹ tâm và tâm sở, có điều là tướng tính của Hối ắt thô động.
Lìa dục xả : lìa dục có Hối ắt sinh ra ghét, vì vậy mà gọi là Hối, đó là căn cứ vào quả mà đặt tên. Lẽ nào Lìa dục rồi mà lại chẳng chán ghét ?
*
-Kinh văn : “Ngày nay mới biết” tới “được phần Phật pháp”.
Tán rằng : biết là Phật tử và đạo thành.
Du Già, quyển 84 có sáu câu, đó là :
đại sư tử, 
Bụng Phật sinh ra, 
Miệng Phật sinh ra, 
Phật pháp sinh ra, 
Phật pháp hóa ra, 
Được pháp đẳng phần.
Kinh Thắng Man nói rằng : “được của cải dư thừa của Phật”, thì ở trong đây có bốn câu.
Du Già nói : câu đầu là tổng cú, năm câu sau là biệt cú.
Do bụng sinh ra : có nghĩa là đã lựa lọc loại ra hạng con dị sinh kém cỏi. Được trí tuệ thánh, là do bụng Phật đích thân sinh ra. Chẳng giống hạng dị sinh chỉ là con nuôi của Phật, vì hết thảy chúng sinh đều là con Phật. Phật chẳng đích thân sinh ra, vì chẳng phải là từ bụng sinh ra. Do Phật pháp sinh ra, đó mới là thực sự sinh ra (chân sinh).
Thêm nữa, hạng nhị thừa cũng giống như con nàng hầu, chứ chẳng phải là con do vợ cả sinh ra. Cho nên kinh dưới mới nói là : “Giống như con ta”. 
Bồ tát Sơ địa sinh ở nhà Như Lai, vì chứng pháp giới nên đó là con do vợ sinh ra. Trước đó chẳng phải là con do vợ sinh ra, nên gọi là “chẳng phải bụng sinh”. Nay phát đại tâm sẽ làm Bồ tát sinh trong pháp giới, thì gọi chung là Bụng sinh. 
Miệng Phật sinh ra : có nghĩa là Từ âm thuyết pháp mà sinh ra, Thể là Văn tuệ, vì duyên vào Giáo mà sinh ra.
Phật pháp sinh ra : có nghĩa là do Như lý tác ý, tùy pháp, hành pháp mà sinh, Thể gồm hai tuệ Tư Tu, vì duyên vào Lý Giáo tùy ứng mà sinh.
Phật pháp hoá ra : có nghĩa là từ đường Pháp thânthành lập được pháp tương tự.
Đường pháp thân : chỉ hai nhân phúc tuệ của các Bồ tát, ta cũng như vậy, vì từ trong hai nhân đó mà thành lập
Pháp thân có hai loại, vì tiểu thừa đại thừa hai nghĩa khác nhau.
Đắc pháp đẳng phần : có nghĩa là được thụ dụng pháp bảo, pháp tài vô lậu, vì là pháp tương tự
Pháp : chỉ Pháp bảo hoặc bảy Thánh tài : Tín, Giới, Văn, Xả, Tuệ, Tàm, Quí. 
Đẳng : có nghĩa là tương tự
Phần : là dư phần, phần loại. 
Chư Phật Bồ tát có khả năng dùng pháp tài, ta nay cũng thế, cũng tương tự như họ, vì cũng được thụ dụng dư phần Pháp bảo vô lậu.
Tùy sự thích ứng của chúng sinh
- Nếu họ ở địa vị nhị thừa mà lại hướng về dị sinh, thì đã giáo hóa cho họ một lượt nữa
- Nếu họ thật sự là con Phật, nay làm Bồ tát mà lại hướng về nhị thừa, thì lại giáo hóa cho họ một lượt nữa. 
Ngang với chân Phật tử : có thể giải thích đúng như Lý. 
Luận đó còn giải thích rằng : “Các câu như vậy chỉ rõ Tăng thượng sinh viên mãn và Phụ tương tự pháp (pháp tương tự với cha - chỉ Phật pháp mà người tu Phật chứng được như Phật là cha của các Phật tử) sinh viên mãn”. Trong năm câu sau, ba câu đầu chỉ rõ Tăng thượng sinh viên mãn, hai câu sau chỉ rõ Phụ tương tự pháp sinh viên mãn.
Tăng thượng sinh : có nghĩa là tự thể thắng sinh.
Phụ tương tự pháp sinh : có nghĩa là nối dõi di thể của cha, dùng gia tài của cha, tất cả đều tương tự
Trong Tăng thượng sinh :
- Câu đầu loại trừ những lỗi lầm của Khí thế gian, vì pháp từ bụng chính trí của Phật sinh ra, loại trừ các thứ từ bào thai ác Khí thế gian sinh ra. 
- Câu thứ hai loại trừ những thứ do tinh huyết bất tịnh sinh ra, vì pháp do miệng Phật sinh ra chẳng phải lấy tinh huyết làm tự thể. 
- Câu thứ ba loại trừ dục tham, đó chẳng phải là do chính pháp sinh ra, vì phàm phu do tham dục tư nhuận mà có, chứ chẳng phải do chính pháp sinh ra. 
- Câu thứ tư chỉ rõ pháp tự thể tương tự từ đường Pháp thân mà được thành lập, nối dõi Pháp thân, tự thể thù thắng, được sự tôn quý ví như nối dõi chủng tính Ba la môn
- Câu thứ năm nói về sự thụ dụng pháp tương tự, thụ dụng pháp tài vô lậu của Phật, ví như người thế gian được thụ dụng của cải của bố mẹ vậy. 
Trong kinh văn này có bốn, thiếu câu thứ hai, vì Hóa và Sinh gộp lại làm một câu : 
Xưa trụ trong quyền thừa,
Chẳng phải chân Phật tử.
Nay cầu quả vị thực, 
Mới là từ bụng sinh.
Đó là đại ý của kinh văn này. 
Nhiếp Luận nói rằng : Chẳng phải như nhị thừa là con nàng hầu vô trí
Lại có nghĩa rằng : Bốn đoạn nói trên lần lượt ghép với bốn nghĩa Khai Thị Ngộ Nhập trước (địa vị) Lĩnh giải
Cứ theo thứ tự mà nghiên cứu kỹ về pháp thể thì về lý chưa hẳn đã thế. 
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Xá Lợi Phất” tới “lưới nghi đều đã trừ”. 
Tán rằng : 25 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
• 2 tụng rưỡi đầu là phần nêu. 
• 23 tụng sau là phần giải thích.
Phần đầu có hai : 
- 1 tụng đầu trong phần nêu, ý nói được pháp vị tằng hữu, trong tâm vui mừng và hết nghi ngờ
- 1 tụng rưỡi sau, giải thích về việc đắc pháp vị tằng hữu, thể hiện rõ ưu hối đã hết.
Đây là 1 tụng của phần đầu. 
Xưa nghi ngờ bản thân không có phần được làm Phật, nay nghe nói sẽ được làm Phật, bởi vậy hết nghi. 
Nghi làm tổn hại chúng sinh, khiến họ khó thể xuất ly, nên ví với lưới.
*
-Kinh văn : “Xưa nay nhờ Phật dạy” tới “nghe cũng trừ ưu hối”. 
Tán rằng : giải thích vì được pháp vị tằng hữu, nên tỏ rõ ưu hối đã hết. 
Ý nói : xưa nay tôi nhờ được Phật dạy. Xưa kia vì trụ ở Tiểu, chẳng được Đại nữa, bởi vậy ưu hối. Nghe thuyết kinh này, hôm nay mới biết là chẳng mất Đại vì những pháp tu trước kia chính là nhân của đại thừa. Do đó mà hết hối. 
Phật âm hiếm có, diệu dụng có thể trừ được ưu não trong phiền não chướng của chúng sinh. Ta tuy lậu tận, nay nghe Phật âm cũng có thể phục trừ được ưu não pháp chấp.
Ưu : ở đây chỉ ưu phiền chẳng được làm Phật :
1) “Ưu” tức là cái “ưu” của pháp chấp, vì ly dục mà chẳng xả, như Tất Lan Đà Phiệt Sa có thói quen xấu là nói lời thô ác, bởi vì pháp chấp chẳng xả. Giống với nghi hối tùy ứng ở trên cũng thế
2) Thực sự là Ưu, tức là ác tác đều chán lìa, coi rẻ, xả thụ. 
Xét danh từ Ưu, thì : 
- Hoặc là thiện ưu (sự lo âu hướng thiện) về pháp chấp thuộc loại vô ký, lìa dục mà chẳng xả.
- Hoặc là “Ưu” tương ứng với “Não”, “Não” tức là ưu hối, chẳng phải là phiền não.
*
-Kinh văn : “Ta ở trong hang núi” tới “cớ sao tự khi mình”. 
Tán rằng : dưới là 23 tụng về phần giải thích ở trên. Chia làm bốn :
• 2 tụng rưỡi đầu, nói về ý “vì ở Tiểu giai (thềm bậc nhỏ - chỉ tiểu thừa) nên than thở”. 
• 5 tụng rưỡi, than thở vì để mất Đại pháp (chỉ pháp đại thừa). 
• 14 tụng, tụng về nỗi vui mừng vì nay được nghe (Đại pháp) nhờ vậy mà não tận.
• 1 tụng cuối, nói về ý biết là Phật tử sẽ thành đạo.
Trước sau khác với trường hàng ở trên, cho nên trong phần đầu có hai : 
- 1 tụng rưỡi đầu, than vì ở Tiểu vị. 
- 1 tụng sau, tụng về sự than thở.
Đây là phần đầu. 
Ô hô : là thán từ, chỉ sự than thở : “Cớ sao lại tự khi”.
Khi : có nghĩa là khinh. Khinh khi bản thân mình tiểu trí, trụ chứng ở Tiểu (thừa) chẳng cầu Đại vị, cho rằng mình không có phần, như thế gọi là tự khinh khi.
*
-Kinh văn : “Chúng ta cũng Phật tử” tới “diễn thuyết Đạo vô thượng ”. 
Tán rằng : 1 tụng này, tụng về sự than thở
Vô lậu pháp : là pháp tính chân như.
Nhập : có nghĩa là chứng. 
Về lý tuy cùng chứng, cùng được gọi là Phật tử nhưng không có trí để có thể sau này sẽ thành Phậtđại chúngdiễn thuyết chính đạo nhất thừa.
*
-Kinh văn : “Kim sắc, ba mươi hai” tới “mà chẳng được sự này”. 
Tán rằng : dưới là 5 tụng rưỡi, than thở vì bỏ mất Đại pháp
Trong đó chia làm hai phần : 
• 3 tụng rưỡi đầu, nói về Đại pháp bị bỏ mất. 
• 2 tụng rưỡi sau, nói rõ cái ý bản thân phải than thở
Trong phần đầu lại có hai phần : 
- 2 tụng đầu, nói về Nội ngoại trang nghiêm đức.
- 1 tụng rưỡi sau, nói về Danh lợi cao quảng đức
Trong phần đầu này lại chia làm hai :
+ 1 tụng đầu, nói về đức cụ tướng hàng ma.
+ 1 tụng sau, nói về đức mãn hảo bất cộng.
Đây là 1 tụng của phần đầu.
“Màu vàng ròng ba mươi hai”: vì thân Phật màu vàng ròng có 32 tướng đẹp.
Theo Kinh Đại Bát Nhã, quyển 381 : “Phật bảo Thiện Hiện rằng : Này Thiện Hiện ! Ba mươi hai tướng của Như Lai là như thế nào ?
Này Thiện Hiện !
Một là dưới chân Thế tôn có tướng bằng phẳng đầy đặn, diệu thiện an trụ giống như đáy hộp đựng đồ trang sức của nữ, mặt đất dù cao thấp lồi lõm thế nào, chỗ nào chân ngài đặt lên cũng thảy đều cảm thấy bằng phẳng như nhau.
Hai là dưới chân Thế tôn có vân hình vành bánh xe có ngàn nan hoa; các hình vành, trục thảy đều viên mãn.
Ba là tay chân Thế tôn thảy đều mềm mại, như bông Đổ La hơn hẳn mọi thứ mềm mại. 
Bốn là giữa các ngón tay ngón chân của Thế tôn thảy đều có màng nối giống như chân chim nhạn chúa, có màu vàng ròng hoa văn giao nhau giống như tranh lụa.
Năm là tất cả các ngón chân ngón tay Thế tôn đều tròn đầy thon dài rất đáng ưa thích.
Sáu là gót chân Thế tôn rộng dài tròn đầy, tương xứng với mu bàn chân, hơn hẳn các loài hữu tình khác.
Bảy là mu bàn chân Thế tôn dài cao đầy đặn mềm mại đẹp đẽ tương xứng với gót chân.
Tám là hai bắp chân Thế tôn dần dần thon lại giống như bắp chân chúa loài hươu tiên Ế Nê Da. 
Chín là hai cánh tay Thế tôn dài thẳng tròn lẳn giống như vòi voi chúa, duỗi thẳng thì dài chạm đầu gối.
Mười là âm tướng Thế tôn thế cứng giấu kín, giống như ngựa rồng, cũng như voi chúa.
Mười một là mỗi lỗ chân lông của Thế tôn mọc một lông mềm mại xanh mướt loăn xoăn theo chiều tay phải.
Mười hai là Tóc Thế tôn đều đầu chỉa lên trên, xoăn tít theo chiều tay phải, uyển chuyển mềm mại xanh mướt, trang sức cho thân màu vàng ròng, rất đáng ưa thích.
Mười ba là Thế tôn da dẻ mịn màng mượt ma,ø bụi nước v.v… thảy đều chẳng bám.
Mười bốn là da thân Thế tôn đều màu vàng ròng bóng sạch, ánh lên như đài vàng đẹp được trang sức bằng các thứ báu, được đại chúng ưa nhìn.
Mười lăm là Thế tôn lòng hai chân, lòng hai bàn tay cùng cổ và hai vai, cả bảy chỗ ấy đều đầy đặn.
Mười sáu là vai, cổ Thế tôn tròn đầy, đẹp đẽ.
Mười bảy là nách của Thế tôn đều đầy đặn chắc nịch.
Mười tám là Thế tôn dung nghi to lớn đẫy đà, ngay ngắn. 
Mười chín là Thế tôn thân tướng cao to, đoan nghiêm.
Hai mươi là Thế tôn thể tướng ngang dọc bằng nhau chu vi tròn đầy như cây Nặc Cù Đà.
Hai mươi mốt là Thế tôn hàm, ức cùng nửa thân trên uy dung quảng đại như Sư tử chúa. 
Hai mươi hai là Thế tôn mặt thường tỏa ánh hào quang, vòng hào quang ấy rộng tới một tầm.
Hai mươi ba là Thế tôn tướng răng tới bốn mươi chiếc đều đặn bằng bặn, sạch khít, chân sâu trắng hơn tuyết, ngọc.
Hai mươi bốn là chiếc răng nanh của Thế tôn trắng muốt, sắc nhọn.
Hai mươi lăm là Thế tôn thường được vị ngon nhất, vì hầu mạch thẳng có thể dẫn được tất cả các vị ngon nhất của mạch các chi tiết trong thân; gió, nóng, bệnh vặt chẳng thể tạp nhiễu; vì chẳng tạp nhiễu nên mạch tránh được các chứng phù trầm, nhanh chậm, hoại tổn, úng tắc; có thể nuốt ngay nước bọt, các dịch lưu thông, khiến cho thân tâm vui vẻ thoải mái, thường được thượng vị.
Hai mươi sáu là Thế tôn tướng lưỡi mỏng sạch rộng dài, có thể che kín cả mặt tới tận rìa tóc cạnh tai.
Hai mươi bảy là Thế tôn từ vận hòa nhã, tùy chúng nhiều ít, đều nghe như nhau. Âm thanh của Ngài to vang giống như trống trời, phát ngôn uyển chuyển như tiếng chim Tần Ca.
Hai mươi tám là Thế tôn lông mi giống hệt ngưu vương, xanh mướt ngay ngắn, chẳng lẫn vào nhau.
Hai mươi chín là con mắt Thế tôn lòng đen đen láy, lòng trắng tắng tinh, vòng đỏ ngăn cách sáng sạch phân minh.
Ba mươi là Thế tôn khuôn mặt tròn như trăng tròn, tướng lông mày sáng sạch như chiếc cung của Thiên đế.
Ba mươi mốt là Thế tôn ở giữa lông mày có tướng bạch hào, xoắn theo chiều tay phải mềm mại như bông Đổ La, trắng toát sáng sạch tựa như tuyết như ngọc kha v.v…
Ba mươi hai là bướu Ô Sắt Nhị Sa trên đỉnh đầu Thế tôn cao rõ tròn xoe giống như lọng trời.
Này Thiện Hiện ! Đó là ba mươi hai tướng của bậc đại sĩ ” .
Cứ theo kinh văn này thì có bài tụng thuyết chung rằng : 
Bằng, nan, mềm, màng, thon.
Gót, bàn, bắp, cánh, kín.
Lông chĩa lên mượt mà.
Da, vàng, bảy, vai đầy.
Dáng tay dài to bằng.
Ánh sư tử, đủ răng.
Nanh, vị, lưỡi, âm, mi.
Mắt, mặt, hào tướng, lọng.
Nếu theo Du Già thì khác với ở đây. 
Trong Du Già còn thuyết về nhân nghiệp, sợ rườm nên thôi. Cứ như bộ ấy thì phải nói là : 
Bằng, nan, thon, gót nhỏ.
Màng ngón, tay chẳng khoèo.
Thế,thân, sáng, chĩa lên.
Sinh vàng, láng, bảy chỗ.
Sư tử, vai đầy thẳng.
Đủ răng, không kẽ, tươi.
Hàm rộng, vị, thanh, xanh.
Ngưu vương, đỉnh, hào tướng.
Bài tổng tụng này lấy y xứ bốn căn Nhãn, Nhĩ, Thân, NamThiệt căn làm Thể.
“Thập lực giải thoát”: đã giải như trên.
Thu Tử tự than : 
“Cùng chung trong một pháp
Mà chẳng được sự này”.
*
-Kinh văn : “Tám mươi thứ diệu hảo” tới “mà ta đều đã mất”. 
Tán rằng : đó là “Hảo mãn bất cọâng đức”.
“Tám mươi thứ diệu hảo” : Kinh Bát Nhã nói : “Thiện Hiện hỏi rằng : Tám mươi tùy hảo của Như Lai Ứng chính Đẳng giác là gì ? 
Này Thiện Hiện
Một là móng tay Thế tôn hẹp dài mỏng mượt sáng bóng tươi tắn như hoa đồng đỏ. 
Hai là chân tay Thế tôn ngón tròn, thon, dài, đều, thẳng, mềm mại, khớp xương chẳng lộ. 
Ba là Thế tôn chân tay thảy đều bằng bặn, ở giữa các ngón thảy đều đầy khít.
Bốn là Thế tôn chân tay tròn đầy như ý, mềm mại bóng mượt, sắc như hoa sen
Năm là Thế tôn gân mạch quấn quít rắn chắc, sâu kín chẳng lộ. 
Sáu là Thế tôn hai mắt cá chân đều kín, chẳng lộ. 
Bảy là Thế tôn bước đi thẳng tiến đĩnh đạc như Long tượng vương (rồng-voi chúa). 
Tám là Thế tôn bước đi uy dung oai vệ như Sư tử vương
Chín là Thế tôn bước đi khoan thai đĩnh đạc chẳng quá, chẳng giảm giống như Ngưu vương.
Mười là Thế tôn bước đi tiến dừng nhã nhặn giống như Nga vương (ngỗng chúa).
Mười một là Thế tôn khi ngoảnh lại ắt đều quay theo chiều tay phải như Long tượng vương, cả người chuyển theo. 
Mười hai là Thế tôn chi tiết tròn trịa đều đặn thon thả dần dần, bố trí đẹp khéo. 
Mười ba là các khớp xương của Thế tôn giao kết không hở giống như rồng cuộn. 
Mười bốn là Thế tôn đầu gối bố trí đẹp khéo, bền chắc, tròn đầy. 
Mười lăm là chỗ kín của Thế tôn có vân đẹp đẽ, uy thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh.
Mười sáu là Thế tôn thân chi mượt mà, mềm mại, bóng bẩy, tươi sạch, bụi ghét chẳng bám.
Mười bảy là Thế tôn thân dung đôn hậu trang nghiêm không sợ, thường chẳng khiếp nhược. 
Mười tám là Thế tôn thân chi kiên cố trù mật, khéo gắn với nhau.
Mười chín là Thế tôn thân chi yên định, đôn trọng, không hề lắc lư, tròn đầy không hoại.
Hai mươi là Thế tôn thân tướng giống như vua tiên, vòng quanh đoan nghiêm, sáng sạch lìa bóng mờ.
Hai mươi mốt là Thế tôn thân có hào quang bao quanh, khi đi v.v… luôn tự tỏa sáng.
Hai mươi hai là Thế tôn bụng hình vuông vức ngay ngắn, không có khiếm khuyết, nhu nhuyễn chẳng lộ, mọi tướng trang nghiêm.
Hai mươi ba là Thế tôn rốn sâu, xoáy theo chiều tay phải, tròn đẹp, thanh tịnh, sáng bóng.
Hai mươi bốn là Thế tôn rốn dày chẳng lõm chẳng lồi, xung quanh đẹp đẽ.
Hai mươi lăm là Thế tôn da dẻ xa lìa ghẻ lở cũng không có các tật như đốm đồi mồi, u bướu v.v…
Hai mươi sáu là Thế tôn bàn tay đầy đặn mềm mại, bàn chân bằng phẳng vững chãi.
Hai mươi bảy là vân tay Thế tôn sâu dài sáng thẳng bóng mượt, chẳng đứt.
Hai mươi tám là Thế tôn môi đỏ như son, sáng bóng ánh lên lên như quả Tần Bà, môi trên môi dưới cân xứng với nhau.
Hai mươi chín là Thế tôn diện môn (mặt) chẳng dài chẳng ngắn, chẳng to chẳng nhỏ, đoan nghiêm đúng cỡ.
Ba mươi là Thế tôn thiệt tướng (tướng lưỡi) mềm mỏng, rộng dài, màu như đồng đỏ.
Ba mươi mốt là Thế tôn phát ra âm thanh oai vang sâu xa như voi chúa gầm, rõ ràng trong trẻo.
Ba mươi hai là Thế tôn âm vận mỹ diệu đầy đủ như tiếng vang trong hang sâu.
Ba mươi ba là Thế tôn mũi cao dài mà lại thẳng, lỗ mũi chẳng hởä.
Ba mươi tư là Thế tôn các răng bằng bặn, trắng muốt.
Ba mươi lăm là các răng nanh của Thế tôn đều tròn trắng sáng sạch, nhọn sắc dần dần.
Ba mươi sáu là mắt Thế tôn thanh tịnh, đen trắng rõ ràng.
Ba mươi bảy là mắt Thế tôn dài rộng ví như hoa sen xanh, rất đáng ưa thích.
Ba mươi tám là Thế tôn lông mi trên dưới tề chỉnh dày dặn, chẳng trắng.
Ba mươi chín là Thế tôn có đôi lông mày dài mà chẳng trắng, dày mà mịn màng.
Bốn mươi là Thế tôn có đôi lông mày đẹp đẽ suôn sẻ, xanh mướt như màu lưu ly.
Bốn mươi mốt là đôi lông mày Thế tôn cao nổi sáng mượt, hình giống như vành trăng đầu tháng.
Bốn mươi hai là Thế tôn tai dày rộng to dài, vành tai, dái tai đều thành tựu.
Bốn mươi ba là hai tai Thế tôn đẹp đẽ bằng bặn, không có một khuyết tật gì.
Bốn mươi tư là dung nghi Thế tôn có thể khiến người nhìn thấy không tổn, không nhiễm, đều sinh ra yêu kính.
Bốn mươi lăm là trán Thế tôn rộng, viên mãn, bằng bặn, hình tướng rất đẹp.
Bốn mươi sáu là thân phần Thế tôn nửa trên viên mãn như Sư tử vương, oai nghiêm vô địch.
Bốn mươi bảy là Thế tôn tóc dài xanh mướt, dày dặn, chẳng bạc.
Bốn mươi tám là Thế tôn tóc thơm sạch, mềm mịn, mượt mà, xoắn tít.
Bốn mươi chín là tóc Thế tôn tề chỉnh, chẳng rối, cũng chẳng giao tạp.
Năm mươi là tóc Thế tôn bền chắc chẳng đứt, chẳng bao giờ rụng.
Năm mươi mốt là tóc Thế tôn bóng mượt rất đẹp, bụi bặm chẳng bám.
Năm mươi hai là Thế tôn thân phần rắn chắc đầy đặn hơn cả Na La Diên.
Năm mươi ba là Thế tôn thân thể cao to, đoan trực.
Năm mươi tư là Thế tôn các lỗ (lỗ tai, lỗ mũi v.v…) đều thanh tịnh, tròn đẹp.
Năm mươi lăm là Thế tôn thân chi thế lực thù thắng, không ai bằng được.
Năm mươi sáu là Thế tôn thân tướng ai cũng thích nhìn, ngắm mãi không chán.
Năm mươi bảy là Thế tôn có khuôn mặt ngang dọc vừa khéo, sáng sủa, thanh khiết giống như trăng rằm.
Năm mươi tám là Thế tôn dung nhan tướng mạo thư thái sáng, nổi, tươi cười ngay trước khi nói năng, chỉ hướng về phía trước, chẳng ngoái lại sau.
Năm mươi chín là Thế tôn diện mạo sáng sủa, tươi vui, không bao giờ xanh, đỏ, cau có.
Sáu mươi là Thế tôn thân chi thanh tịnh không có cáu ghét, luôn luôn không hề có mùi hôi hám.
Sáu mươi mốt là trong tất cả các lỗ chân lông của Thế tôn luôn tỏa ra mùi thơm vi diệu như ý.
Sáu mươi hai là diện môn Thế tôn thường xuyên tỏa ra mùi thơm thù thắng.
Sáu mươi ba là tướng đầu Thế tôn tròn trịa, đẹp đẽ giống quả Mạt Đạt Na, cũng giống như lọng trời.
Sáu mươi tư là lông trên thân Thế tôn xanh mướt, sáng sạch như cổ chim công, đỏ ánh điểm tô màu như đồng đỏ.
Sáu mươi lăm là Thế tôn pháp âm tùy chúng lớn nhỏ chẳng tăng chẳng giảm, theo lý không sai.
Sáu mươi sáu là Thế tôn đỉnh tướng không ai có thể nhìn thấy được.
Sáu mươi bảy là chân tay Thế tôn đốt ngón rõ ràng, trang nghiêm diệu hảo như màu đồng đỏ.
Sáu mươi tám là Thế tôn khi đi chân cách mặt đất chừng bốn ngón tay đã hiện dấu chân.
Sáu mươi chín là Thế tôn tự mình giữ gìn, chẳng cần người khác bảo vệ, thân không xiêu vẹo cũng chẳng õng ẹo.
Bảy mươi là Thế tôn uy đức vang xa, mọi kẻ ác tâm nhìn thấy cũng đều mừng, mọi kẻ sợ hãi nhìn thấy cũng đều yên.
Bảy mươi mốt là Thế tôn âm thanh chẳng cao chẳng thấp, theo ý chúng sinh, vui vẻ hòa nhã mà nói với họ.
Bảy mươi hai là Thế tôn có thể lựa theo ngôn ngữ âm thanh, tâm ý ưa muốn của các loài hữu tìnhthuyết pháp cho họ.
Bảy mươi ba là Thế tôn (chỉ dùng) một âm diễn thuyết chính pháp mà các loài hữu tình thảy đều hiểu được cả.
Bảy mươi tư là Thế tôn thuyết pháp đều theo thứ tự, ắt có nhân duyên, nói gì cũng hay.
Bảy mươi lăm là Thế tôn coi các loài hữu tình bình đẳng như nhau, khen thiện chê ác, mà không yêu ghét.
Bảy mươi sáu là Thế tôn làm việc thì xem trước làm sau, mẫu mực đầy đủ, khiến Thức hoàn thiện thanh tịnh
Bảy mươi bảy là tướng hảo của Thế tôn, hết thảy hữu tình không ai có thể xem hết được.
Bảy mươi tám là xương đỉnh đầu Thế tôn rắn chắc tròn đầy.
Bảy mươi chín là Thế tôn dung nhan luôn luôn trẻ trung chẳng già, ưa chơi chốn cũ.
Tám mươi là chân tay và trước ngực ức Thế tôn đều có đức tướng xoáy vân cát tường .
Này Thiện Hiện ! Vì Như Lai Ứng chính Đẳng giác thành tựu các tướng hảo như vậy, nên thân quang của ngài tha hồ vận dụng có thể chiếu dọi tam thiên đại thiên thế giới, không đâu không khắp. Nếu như khi ngài cố ý thì có thể chiếu khắp vô lượng vô biên vô số thế giới. Song vì ngài thương xót các hữu tình nên thu ánh quang minh lại, diện thường chiếu chỉ mỗi chiều một tầm. 
Nếu ngài tung thân quang ra, thì tất cả mọi thứ ánh sáng của mặt trăng mặt trời v.v… đều thường chẳng hiện, các loài hữu tình sẽ chẳng còn có thể biết được số ngày, đêm, nửa tháng, tháng, mùa, năm, sự nghiệp tiến hành sẽ chẳng thể thành được. 
Tiếng Phật tha hồ vận dụng có thể vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Nếu là khi cố ý thì có thể vang khắp vô lượng vô biên vô số thế giới. Song để đem lại lợi lạc cho các hữu tình, nên tiếng ngài tùy lượng chúng sinh mà chẳng giảm chẳng tăng.
Này Thiện Hiện ! Công đức thắng lợi như vậy, trước kia khi ta còn ở ngôi Bồ tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, ta đã có thể hoàn thành xong xuôi cả rồi, nên ngày nay tướng hảo viên mãn trang nghiêm. Hết thảy hữu tình nếu thấy mà tán thán hoan hỉ, thì đều được lợi ích an lạc thù thắng !
Như vậy thì - Này Thiện Hiện ! Bồ tát Ma ha tát khi tu hành thật sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa sẽ có thể dùng hai loại bố thí, đó là Tài thíPháp thí để nhiếp phục các hữu tình. Đây là pháp rất kỳ lạ, hy hữu”.
Ba h mươi hai tướng do thực hành Năm tu mà có : 
1. Phát tâm.
2. Lâu dài.
3. Không gián đoạn.
4. Ân trọng (thiết tha trang trọng).
5. Không có thứ gì khác cảm được.
Như Du Già luận quyển 37 nói.
Mười h tám Bất cộng pháp
Phân biệt bằng năm môn : 
1. Danh. 2. Thể. 
3. Hành tướng. 4. Sai biệt.
5. Các môn.
1. Về Danh thì :
1) Thân không lầm lỗi.
2) Không có ngôn âm khinh suất thô bạo.
3) Không có chủng chủng tưởng.
4) Không có tâm bất định
5) Không có niệm vong thất.
6) Không bất trạch xả.
7) Dục không giảm.
8) Niệm không giảm.
9) Tinh tiến không giảm.
10) Định không giảm.
11) Tuệ không giảm.
12) Giải thoát không giảm.
13) Thân nghiệp tùy trí tuệ hành.
14) Ngữ nghiệp tùy trí tuệ hành.
15) Ý nghiệp tùy trí tuệ hành.
16) Biết đời quá khứ, không chấp trước không trở ngại. 
17) Biết đời vị lai, không chấp trước không trở ngại.
18) Biết đời hiện tại, không chấp trước không trở ngại.
2. Về Thể thì : 
Lấy tám pháp gộp lại làm thể, đó là : Tư, Tưởng, Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Tuệ, Cần.
Nói rộng ra thì như sự giải thích trong quyển thứ hai của Vô Cấu Xưng sớ : “thứ mà nhị thừa không có, đó gọi là Bất cộng pháp”.
3. Hành tướng.
4. Sai biệt .
5. Các môn.
Ba môn còn lại trên đây, lược qua, không nói đến.
“ Các công đức như thế
Mà ta đều đã mất”.
Luận nói rằng : hai câu kệ trên là thị hiện nghĩa gì ? 
Xá Lợi Phất tự quở trách mình : “Ta chẳng thấy chư Phật, chẳng đến chỗ Phật nghe pháp, chẳng cúng dàng cung kính chư Phật, không làm được sự gì lợi ích cho chúng sinh, chưa được pháp đã lùi”.
Vậy nên Xá Lợi Phất tự quở trách bản thân. Trên tự giải thích cái ý tự quở trách; dưới là luận tự nhắc lại về ý tự trách và bàn về tụng văn trong kinh. Hai thứ đó tham bán với nhaugiải thích; gồm có 8 câu. Trong đó năm câu giải lời tự trách. Còn ba câu khác giải nghĩa kinh tụng.
Chẳng thấy : có nghĩa là vì chẳng thấy tướng đại nhân của chư Phật Như Lai, sinh tâm cung kính cúng dàng, nên tự trách mình không tu đại nhân (tức nhân đại thừa), nên chẳng thấy được tướng của chư Phật, cung kính cúng dàng.
Chẳng tới : thị hiện lực giáo hoá chúng sinh, tỏ rõ Phật có khả năng giáo hoá chúng sinh mà ta chẳng tới chỗ Phật. 
Hai câu trên giải thích lời tự trách.
Ánh quang minh màu vàng ròng : có nghĩa là thấy Phật tự thân, dị thân đều được vô lượng công đức, ở đây giải thích từ “Kim sắc” (màu vàng ròng) trong kinh. Do thấy Phật mà tự thân ta được vô lượng công đức quả ở dị thân.
Nghe (pháp) : thì có thể làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Đây giải thích lời tự trách chẳng nghe. Bởi vì nếu nghe, thì có thể làm được việc lợi sinh.
Lực : chỉ chúng sinh nếu có điều nghi hoặc thì dựa vào mười lực mà đoạn nghi. Đây giải thích mười lực nói ở trong kinh.
Cúng dàng : thị hiện có khả năng giáo hóa chúng sinh. Đây giải thích lời tự trách chẳng cúng dàng Phật. Phật có khả năng giáo hoá được chúng sinh, ta lẽ ra phải cúng dàng, xưa kia cớ sao chẳng cúng dàng.
Mười tám pháp Bất cộng : lìa xa các chướng ngại. Đây giải thích nghĩa của mười tám pháp Bất cọâng trong tụng.
Cung kính : thì sinh vô lượng phúc đức, vì y theo lời dạy của Như Lai thì được giải thoát, vì chứng được nhân pháp vô ngã, các pháp bình đẳng.
Đây giải thích lời tự trách chẳng cung kính. Nếu cung kính thì sẽ sinh vô lượng phúc, chứng được bình đẳng.
Vì vậy nên tự trách rằng : ta từ trước tới nay chưa được pháp này, ở ngay nơi pháp này mà sinh thoái tâm. Đó gọi là mất đại pháp nên phải than thở
Không giải thích như vậy thì luận cực kỳ khó hiểu.
*
-Kinh văn : “Lúc ta kinh hành riêng” tới “chính ta tự khinh mình ”. 
Tán rằng : đó là Danh lợi cao quảng đức vậy. 
Tự khinh khi coi rẻ mình, nên thường tự mình suy nghĩ là đã để mất đức này của Phật, vì vậy chẳng dám cầu đại (thừa). Tự lừa dối mình, nên được tiểu (thừa) đã cho là đủ.
*
-Kinh văn : “Ta thường mỗi ngày đêm” tới “suy tính sự như thế”. 
Tán rằng : đó là thuyết minh về cái ý tự mình than thở
Tụng đầu muốn hỏi Phật liệu có nên để mất đại thừa hay không ? Tụng sau giải thích mối nghi. Đó là vì thường thấy Phật chỉ khen Bồ tát mà chẳng khen ta, bởi vậy sinh nghisuy tính sự này.
*
-Kinh văn : “Nay nghe tiếng của Phật” tới “khiến chúng tới đạo tràng”. 
Tán rằng : dưới là 14 tụng, tụng về niềm vui mừng vì nay được nghe nên hết não. 
Trong đó chia làm hai phần :
• 12 tụng rưỡi đầu, tụng về sự đoạn trừ nghi hối.
• 1 tụng rưỡi cuối, tụng về ý khoái được yên ổn.
Trong phần đầu lại chia làm hai : 
- 5 tụng đầu nói về Hối xưa đã đoạn trừ.
- 7 tụng rưỡi sau nói về mối ngờ ngày nay đã đoạn diệt.
Trong phần đầu này lại chia làm hai :
+ 1 tụng đầu nêu nguyên do khiến Hối bị đoạn trừ.
+ 4 tụng sau chính thức thuyết minh Hối trừ. 
Đây là phần đầu. 
Do nghe tiếng Phật tùy nghi thuyết pháp, ý thú khó biết, vô lậu khó suy, những điều sở đắc khó giải, khiến nhị thừa chúng bỏ giáo pháp tùy nghi mà tới chỗ Phật để được thâm phápđạo tràng
Đã khiến Hối bị đoạn trừ nên gọi là Vô lậu.
*
-Kinh văn : “Ta vốn chấp tà kiến” tới “đắc chứng ở Không pháp”. 
Tán rằng : 4 tụng dưới là nói về việc trừ hối. Trong đó chia làm hai :
• 1 tụng rưỡi đầu, kể về việc xưa kia bỏ tà mà theo chính.
• 2 tụng rưỡi sau, kể về việc nay biết tiểu (thừa) là để hướng tới đại (thừa).
Đây là phần đầu. 
Bản sự : người ngoại đạo (tên là) San Đồ Da có một trăm môn đồ, sau quy y Phật xuất gia, chứng lý nhân không, đắc quả A la hán, xưng là Phạm Chí Sư, gọi là Bạt tà đắc chứng Không pháp (trừ tà, được chứng pháp Không).
*
-Kinh văn : “Bấy giờ tâm tự nghĩ” tới “chẳng phải thực diệt độ”. 
Tán rằng : dưới là 2 tụng rưỡi, kể về việc nay biết tiểu (thừa) là để hướng tới đại (thừa). Trong chia làm hai :
• 1 tụng đầu : biết rõ tiểu (thừa).
• 1 tụng rưỡi sau : biết chân đại (thừa).
Đây là phần đầu : xưa kia chẳng biết, cho là thực sự diệt độ.
*
-Kinh văn : “Nếu lúc được thành Phật” tới “diệt hết hẳn, không dư”. 
Tán rằng : biết đại (thừa) là chân diệt.
Lúc được thành Phật, trong thì đầy đủ các tướng hảo, ngoài thì được chúng sinh quy kính, mới là hết hẳn hai loại sinh tử, không còn hữu lậu. Cho nên biết đại thừa là chân diệt.
*
-Kinh văn : “Phật ở trong đại chúng” tới “nghi hối thảy đã trừ ”. 
Tán rằng : dưới đây là 7 tụng rưỡi, nói về nay mối nghi đã diệt. Chia làm hai : 
• 1 tụng đầu là kết luận : Hối xưa đã hết, đây là nguyên do trừ được mối nghi sau này.
• 6 tụng rưỡi cuối, chính thức giải thích về việc mối nghi đã trừ. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Mới nghe điều Phật thuyết ” tới “não loạn tâm ta chăng ? ”. 
Tán rằng : dưới đây là 6 tụng rưỡi, chính thức giải thích về mối nghi đã trừ. 
Chia làm hai : 
• 1 tụng đầu, kể về nguyên do sinh nghi.
• 5 tụng rưỡi sau, chính thức giải thích về nghi bị diệt.
Đây là phần đầu.
Phật xưa thuyết ba thừa, ta đã được cả rồi. Nay thuyết nhất thừa, trái với thuyết cũ, nói rằng điều ta đã được chẳng phải là Chân quả diệt. Cho nên trong lòng kinh hãi, cho Phật là ma, não loạn tâm ta. 
Đây là nghi về sự, gọi là Dị thục sinh, chẳng nghi về lý, nên chẳng phải là phiền não.
Hoặc Ưu nghi trên đều là thị hiện, chứ chẳng phải là Thu Tử vẫn còn có Ưu nghi.
*
-Kinh văn : “Phật dùng đủ thứ duyên” tới “ta nghe, lưới nghi dứt ”. 
Tán rằng : dưới là 5 tụng rưỡi, giải thích về Nghi bị diệt. Trong đó có bốn :
- 1 tụng, nói rõ lời Phật khéo, khiến tâm được yên, bởi vậy dứt nghi.
- 2 tụng, nói rõ ba đời Phật cùng thuyết phương tiện, bởi vậy dứt nghi.
- 1 tụng, giải thích Phật thuyết giống nhau, bởi vậy dứt nghi.
- 1 tụng rưỡi, biết Phật với ma, đạo tích khác nhau, bởi vậy dứt nghi.
Đây là phần đầu. 
Phật thuyết có hai : 1) Pháp thuyết.
2) Dụ thuyết.
Các loại duyên : là thuyết về đạo lý
Các loại dụ : là thuyết bằng cách ví von. 
Ngoài thì thể hiện hai cách thuyết pháp bằng ngôn ngữ khéo léo này, trong thì tâm yên ổn kiên cố như biển chẳng động, bởi vì đã đoạn được nghi. 
Ngôn từ chẳng khéo thì Lý và Dụ sẽ trái với tông chỉ. Tâm có sự dao động thì trí sẽ mê mờ về chân cảnh. Trong ngoài bị trở ngại thì nghi sẽ khó diệt. 
Nay thì chẳng thế, bởi vậy hết nghi.
*
-Kinh văn : “Phật thuyết đời quá khứ ” tới “diễn thuyết Pháp như vầy”. 
Tán rằng : ở đây nói rõ ba đời chư Phật cùng thuyết phương tiện, bởi vậy mối nghi được đoạn trừ.
Tụng đầu nói về đời quá khứ, tụng sau nói về hai đời vị laihiện tại. Đầu đều là phương tiện, sau mới là chân thực. Tức là nói về cái ý ba đời Phật đều giống nhau ở trong phẩm trước. Nghe thuyết về đạo trái ngược nhau, nên mới nảy sinh nghi ngờ. Nay nghe các thánh cùng một khuôn mẫu, nên mối nghi mới diệt.
*
-Kinh văn : “Như Thế tôn ngày nay” tới “cũng dùng phương tiện thuyết”. 
Tán rằng : đây là giải thích Phật thuyết giống nhau, bởi vậy mối nghi được đoạn trừ.
- Từ lúc sinh tới lúc xuất gia : đó là Thân phương tiện
- Đắc đạo : đó là Ýù phương tiện
- Chuyển pháp luân : đó là Ngữ phương tiện
Thoạt đầu thuyết tam thừa giống sự giáo hóa của chư Phật ba đời, nên nói rằng : cũng dùng phương tiệnthuyết pháp
Ba nghiệp trái ngược, thì có thể khiến nảy sinh nghi ngờ. Sắc tâm thuận nhau, bởi vậy nghi bị đoạn trừ. 
Thêm nữa, đầu cuối thuyết trái ngược nhau, mới nảy sinh nghi ngờ. Trước sau ngôn ngữ thuận lý, thì mối nghi mới diệt.
*
-Kinh văn : “Thế tôn thuyết thực đạo” tới “gọi đó là ma làm”. 
Tán rằng : biết Phật với ma, đạo tích khác nhau, bởi vậy nghi đoạn.
Ma thuyết trái với chân lý, bởi vậy nghi ngờ khởi lên. 
Lời Phật phù hợp diệu pháp, bởi vậy nghi diệt.
*
-Kinh văn : “Nghe tiếng Phật êm dịu” tới “an trụ trong thực trí ”. 
Tán rằng : trong 14 tụng nói về sự vui mừng vì nay được nghe pháp cho nên não hết.
Trong đó chia làm hai : 
- Trên là 12 tụng rưỡi, nói về việc đoạn trừ nghi hối đã xong. 
- Đây là 1 tụng rưỡi, nói về việc sắp được yên ổn
Từ bi tiếp dẫn, nên phát ra âm nhu nhuyễn. Như sấm vang rền, để thuyết về đạo lý huyền diệu, nên gọi là sâu xa. Trong trẻo như tiếng chim Ca Lăng cực kỳ đáng yêu, nên gọi là diễn xướng thanh tịnh pháp.
Xướng : có nghĩa là xa, là tỏ. 
Tâm đã cả mừng, thì nghi hối trừ hẳn. Bỏ cái tâm ở quyền (thừa) ngày xưa mà lấy cái trí trụ ở thực thừa ngày nay.
Thực : đây là chỉ nhất thừa mà ngày nay cầu chứng.
Quyền : là chỉ nhị thừa, là phương tiện ngày xưa !
*
-Kinh văn : “Ta nhất định thành Phật” tới “giáo hóa các Bồ tát ”. 
Tán rằng : đây tụng về mục thứ tư : biết Phật tử sẽ thành đạo
Nay ta là Phật tử, sẽ làm Bồ tát, sinh ra từ ngôn giáo đại thừa của Phật. Đã tu nhân đại (thừa), nhất định sẽ thành Phật, ngoài thì được trời người kính trọng, có khả năng chuyển được Pháp luân vô thượng, cứu cánh chỉ thuyết nhất thừa, nên có khả năng giáo hóa Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo Xá Lợi Phất” tới “theo ta thụ học”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba trong vòng thứ nhất trở xuống : Như Lai thuật thành, cũng giống với dụ về Dược thảo, thuật lại thành tựu (của Phật). 
Trong này chia làm ba phần :
- Phần đầu kể về sự gặp gỡ đã qua.
- Sau đó kể về sự gặp gỡ ngày nay.
- Cuối cùng nói rõ vẫn cứ lấy thực như trước. 
Đây là phần đầu : “Ta đã từng ở chỗ hai vạn ức Phật, tu đạo vô thượng, thường giáo hóa các ngươi”. 
Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói rằng : Xá Lợi Phất đã từng tu hành đạo Bồ tát trong sáu mươi kiếp. Có vị Bà la môn xin mắt, Thu Tử đã cho. Vị này được mắt rồi thì quẳng xuống đất, lấy hai chân mà dày xéo lên, rồi chửi bới mà bỏ đi. Thu Tử hối hận, bèn thoái nhụt đại tâm (tâm đại thừa). 
Đây là nói về lúc đó, ta vốn dĩ đã giáo hóa ngươi ở chỗ hai vạn Phật, đã là thiện hữu, thường giáo hóa đại thừa. Thu Tử thời đó cũng theo thụ giáo.
*
-Kinh văn : “Ta dùng phương tiện” tới “sinh trong pháp ta”. 
Tán rằng : đây thuật lại sự gặp gỡ ngày nay. 
Phật biết tình thế của con người sau khi thoái mất đại tâm rồi thì sợ đại thừa. Cho nên Phật giới hạn sự hóa độ trong phạm vi tiểu quả, nghĩa là dùng Thanh văn thừagiáo hoá họ dần dần cho đến chứng được Vô học, gọi là phương tiện
Chứng lý Sinh không, khởi được Vô lậu trí, trụ ở trong Phật pháp, đó gọi là “ở trong pháp ta”.
Vì sinh ra từ trong Phật pháp, thì mới gọi là chân sinh.
Vả như Thu Tử thoái đại tâm là vì đại tính gần Sinh mà xa Thục, bởi vậy sơ phát đại tâm mà giữa chừng thoái nhụt. Tiểu tâm gần Thục mà xa Sinh, bởi vậy giữa chừng phát tiểu tâmchứng quả
Ban đầu dạy họ phát khởi ý đại thừa, để khiến họ chứng nhân của thực thừa. Giữa cầu tiểu thừa mà quả thành, là vì khiến họ xả bỏ quyền thừa tiệm giáo.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “đã được diệt độ”. 
Tán rằng : dưới tỏ rõ lại trở lại để lấy Thực như trước. Chia làm hai phần : 
• Phần đầu bàn về việc nảy ra cái ý về thực : vì tu quyền (thừa) mà quên thực (thừa). 
• Phần sau tỏ rõ khiến nhớ lại bản tâm. Thuyết Pháp Hoa mà trở lại bản tâm
Đây là phần đầu. 
Xưa ta dạy ngươi chí nguyện Phật đạo, đó là đề xướng cái ý về thực (thừa). Ngươi nay đều quên mà tự cho là đã được diệt độ, đó là vì tu quyền mà quên thực 
Trước, khi chưa chứng quả Thanh văn thì chưa được trí Túc mạng vô lậu. Tuy sáu mươi kiếp luyện căn, đắc trí Túc mạng vô lậu của Thanh văn, nhưng điều biết được vẫn gần. Xưa ngươi tu đại thừa, nhưng nay đều quên, bèn cho rằng điều sở đắc là thực sự diệt độ, chẳng chịu tiến tu. Trong lời thỉnh ở quyển trước, đời đời đã từng theo Phật thụ hóa. Nay nói quên, trong này có bốn cách giải thích :
1) Tự nhớ lại đã theo Phật tu tiểu (thừa); Phật thuyết giáo về đại (thừa), đều quên cả.
2) Phật thuyết sơ giáo đại thừa, nay quên. Tự nhớ lại nửa chừng học tiểu (thừa) theo giáo hóa đó.
3) Thu Tử tự nhớ, người khác chẳng nhớ. Nay ký thác vào Thu Tử mà nói người khác, nên nói là “đều quên”.
4) Trước thuyết Phật gia hộ cho, nên nhớ. Nay bàn là do tự tâm, nên quên. Như vậy cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Ta nay vẫn muốn” tới “Phật Sở Hộ Niệm”. 
Tán rằng : khiến nhớ lại bản tâm, thuyết Pháp Hoa mà khôi phục bản tâm
Thoạt đầu dạy tiểu cơ rồi mới hướng về đại thừa, gọi là vì Thanh văn mà thuyết “Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa”, sau khi họ hồi tâm rồi thì gọi là dạy kinh “Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.
Nên biết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa còn có tên khác là Vô Lượng Nghĩa v.v… thể tính, công năng có sự phân biệt; đối cơ, hiển lý có sự khác nhau. Vì chia làm hai kinh nên mới thế, giống như quyển đầu đã nói.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “đạo sở hành ”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ tư nói về việc Phật thụ ký cho trong vòng thứ nhất. Có hai : 
• Đầu tiên thuyết minh việc thụ ký. 
• Sau đó là người trời cúng dàng, tán thán, hồi hướng
Phần đầu lại chia làm hai :
- Đầu tiên nói rõ việc thụ ký.
- Sau đó có 1 tụng về kết hội khiến mừng.
Văn đầu có hai :
+ Đầu thụ Nhân ký. 
+ Cuối thụ Quả ký.
Văn đầu này có bốn ý : 
1) Thời gian quá vô biên kiếp.
2) Ngoài gặp duyên lành, gặp được nhiều Phật.
3) Phụng trì chính pháp.
4) Đủ hạnh lợi sinh, vì phải nhân hành mãn, thì quả mới thành.
Chưa nhập Thập tín (vị), thì còn phải hai vạn kiếp. Huống hồ sau khi khởi tâm, thời tiết hẳn phải xa. Cho nên điều quan trọng bậc nhất trước hết là phải nói nhiều kiếp mới gặp chư Phật, được nhập Đại kiếp, trì chính pháp v.v…
*
-Kinh văn : “Sẽ được thành Phật” tới “Phật Thế tôn”. 
Tán rằng : dưới là thuyết minh về Quả ký.
Có hai phần : đầu là trường hàng, cuối là kệ tụng. Trường hàng có sáu :
1. Nội đức thành mãn. 
2. Ngoại độ trang nghiêm
3. Thuyết pháp giống nay. 
4. Tên kiếp khác nhau. 
5. Sự giúp đỡ hơn hay kém.
6. Pháp trụ mau hay lâu. 
Đây là phần đầu.
Mắt nhìn mưa hoa phóng quang, tai nghe Pháp Hoa trí quang. Thêm nữa, ngoài ăn bí pháp, trong phát trí quang. Nhân hai nghĩa này nên gọi là Hoa Quang.
Xét việc thụ ký Phật danh, về lý không có một chuẩn tắc nhất định nào cả. Như Thích Ca, Di Lặc nhân nhìn thấy Phật đó mà lấy làm tên gọi. Thu Tử thoạt đầu nhờ kiến văn mà đặt thành tên.
Trí Độ luận nói rằng : “Ba trăm Tỳ kheo cởi áo dâng Phật, do đưa tay làm (hình) tướng, được thụ ký danh hiệuĐại Tướng Như Lai. Lại nữa ngàn vị trời thấy cõi Phật trang nghiêm bèn phát tịnh ý, được thụ ký danh hiệu Trang Nghiêm Vương Phật”. 
Thêm nữa, Thiệt Tướng phẩm của luận đó nói : “Mười vạn ức người nhìn thấy Bồ tát mười phương đem hoa đến cúng dàng, liền phát tâm và được thụ ký Phật danh là Giác Hoa, kiếp danh là Hoa Tích”. Các loại như vậy chẳng thể có một chuẩn tắc nào cả. Hoặc đó đều là Phật gặp lúc đầu. Sau gặp duyên này, nhân hợp nguyện xưa.
Thụ ký : đại để dùng sáu môn để phân biệt
1. Nguyên do thụ ký .
2. Năng thụ ký.
3. Sở thụ ký. 
4. Thụ ký khác nhau.
5. Giải đáp thắc mắc.
6. Các loại khác nhau trong hàng Thanh văn.
1. Nguyên do thụ ký.
Đại để do năm nghĩa :
1/ Luận rằng : cốt để giúp hàng Thanh văn sinh quyết định tâm, quyết định hướng theo đại thừa nên thụ ký cho họ, chứ chẳng phải là họ đã thành tựu được pháp tính, đã chứng được pháp tính Nhị không nên thụ ký cho họ.
2/ Luận rằng : để tỏ rõ Phật pháp thân tính bình đẳng. Chỉ vì pháp hữu vi có sự khác nhau, nên thuyết ba thừa. Song chân lý đã giống nhau thì pháp thân cũng không khác nhau. 
3/ Để đoạn trừ cái tâm nghi ngờ đã lâu của Bồ tát, từ lâu nghi rằng Thanh văn chẳng được làm Phật. Nay nghe thụ ký, nên mối nghi ngờ đã lâu bị đoạn diệt.
4/ Để cho người thích Phật nhìn thấy cảnh thụ ký này, thích tự mình sẽ được tu hành cái nhân thành Phật.
5/ Thuyết mười nghĩa sở dĩ (tức mười nguyên do) của nhất thừa, đó tức là nguyên do thụ ký trong này.
2. Năng thụ ký. 
Có ba ý :
1) Sở y.
2) Ký thể (thể của ký). 
3) Ký dụng (dụng của ký). 
1) Sở y : tức là người năng thụ ký. 
Sáu chốn thị hiện thì năm là Như Lai ký, một là Bồ tát ký. 
Như Lai ký gồm : 1. Biệt ký 2. Đồng ký 3. Hậu ký 4. Oán ký 5. Thông hành ký. 
Bồ tát ký gọi là Cụ nhân ký, như phẩm Thường Bất Khinh thị hiện : lễ bái, tán thán và nói : “Tôi chẳng khinh các người. Các người đều sẽ làm Phật”. Chỉ rõ các chúng sinh đều có Phật tính.
Việc thụ ký cho ai sau này thành Phật danh hiệu là gì, thì chỉ có Phật mới làm được, các thánh khác không thể làm được, vì chẳng biết riêng từng người sau này thành Phật sẽ có tên là gì, nước Phật ấy là nước nào, bởi lẽ kẻ dưới chẳng thể biết được công việc của người trên.
Nếu am hiểu bao quát mà thụ ký cho, thì Bồ tát cũng (thụ ký) được, vì (người được thụ ký đã có) đủ nhân Phật tính.
Kinh này đã như thế. Trong mọi kinh, người có khả năng thụ ký cho chẳng qua là hai loại này (tức Phật và Bồ tát).
2) Ký thể : chỉ Hậu đắc thế tục trí.
3) Ký dụng : chỉ ngôn giáo, chỉ Tha thụ dụng, Biến hóa thân v.v… 
Trong năm uẩn, tùy ứng là thể, vì Thập địa Bồ tát, ba thừa khác nhau.
3. Sở thụ ký.
Có hai ý : 
A- Sở y . B- Thể tính
A- Sở y
Tức là người được thụ ký. Luận nói rằng có sáu chốn thị hiện :
1) Biệt ký : bốn vị Thanh văn là các ông Xá Lợi Phất, Đại Ca Diếp v.v…, đó là những vị mọi người đều quen biết, danh hiệu khác nhau, nên thụ ký riêng biệt cho từng vị. 
2) Đồng ký : bọn ông Phú Lâu Na v.v… gồm 500 người và 1.200 người, vì cùng một danh, cùng đồng thời được thụ ký.
3) Hậu ký : hạng học và vô học cùng có chung một hiệu, tuy cũng được thụ ký nhưng là hạng hạ căn, chẳng phải là hạng mọi người đều biết, bởi thế sau mới thụ ký cho.
4) Vô oán ký : đó là việc thụ ký cho Đề Bà Đạt Đa, thị hiện Như Lai không oán ghét.
5) Thông hành ký : việc thụ ký cho Tỳ kheo ni cùng thiên nữ, thị hiện phụ nữtại gia hay xuất gia nếu tu hạnh Bồ tát thì đều chứng quả Phật.
6) Cụ nhân ký : chỉ rõ các chúng sinhPhật tính.
Sáu loại ký này : 
- Biệt ký ở trong phẩm Thí Dụ và phẩm Thụ Ký.
- Đồng ký ở trong phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thụ Ký.
- Hậu ký ở trong phẩm Thụ Học Vô Học Nhân Ký.
- Vô oán ký ở trong phẩm Đề Bà Đạt Đa.
- Thông hành ký ở trong phẩm Pháp Sư và phẩm Trì. 
- Cụ nhân ký ở trong phẩm Thường Bất Khinh.
Theo lý mà suy thì các hạng đời khác chưa phát tâm cùng hạng đã phát tâm rồi, hạng Bất định tính nhị thừa cùng các Bồ tát, bốn hạng người này gọi là Sở thụ ký.
Một hội Pháp Hoa là cốt để giáo hóa đại chúng bỏ quyền mà lấy thực, nên hạng Vô vi Thập địa Bồ tát thụ ký đó là nhắc lại chuyện xưa. Có loại chưa phát tâm được thụ Cụ nhân ký. Biệt ký thì chỉ có loại đời khác đã phát tâm rồi, chỉ nghe Pháp Hoa không một ai là không thành Phật. Thế là thụ ký cho tới cả hạng Bất định tính nhị thừa. Không còn sót ai.
B- Thể tính :
Nhân thể tức là Thiện căn vô lậu thông với hiện tại, cùng Chủng nhân sở đắc quả thể thông với năm uẩn, phần nhiều là Hóa thân và Tha thụ dụng giả. Đó là để thể hiện lòng từ bi, để thể hiện đức cao. Đó là vì có sự sai biệt, vì giáo hóa chúng.
Các loại Ký biệt ở dưới sẽ chỉ rõ cụ thể.
4. Thụ ký khác nhau.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật bảo Bồ tát Kiên Ý : “Thụ ký tất cả có bốn loại :
• Có loại chưa phát tâm mà vẫn thụ ký cho.
• Có loại vừa phát tâm, đã thụ ký cho.
• Có loại mật thụ ký.
• Có loại đắc Vô sinh pháp nhẫn hiện tiền thụ ký.
Đó gọi là bốn loại. Chỉ có Như Lai mới có thể biết việc này”. 
Trong Bảo Vân cũng nói giống thuyết này.
Du Già, quyển 46 nói : đại để do sáu tướng được các Như Lai thụ Ký biệt cho về Vô thượng chính đẳng Bồ đề. Sáu tướng đó là những gì ? 
1) An trụ ở địa vị chủng tính chưa phát tâm.
2) Ở địa vị đã phát tâm.
3) Ở địa vị hiện tại tiền.
4) Ở địa vị Bất hiện tiền.
Bốn loại trên đây giống với Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Loại Mật thụ ký tức là loại Bất hiện tiền, vì tại chỗ bí mật. Hoặc Đắc vô sinh nhẫn gọi là Hiện tiền. Chưa đắc thì gọi là Bất hiện tiền. Hoặc thân tại tòa thì gọi là Hiện tiền. Thân chẳng tại tòa thì gọi là Bất hiện tiền.
Trong quyển thứ tư ở dưới và trong hạng Đồng ký có người chẳng có mặt tại hội, Phật khiến truyền ký cho. Đó chính là loại này.
5) Có định thời hạn. Có nghĩa là tới thời ấy sẽ chứng Vô thượng Chính đẳng Bồ đề.
6) Không định thời hạn. Có nghĩa là chẳng nói rõ thời hạn quyết định mà cứ thụ ký cho.
Nay Xá Lợi Phất thì đúng với các tướng thứ hai, thứ ba và thứ sáu, vì đã phát đại tâm, hiện trụ trước Phật, không định thời hạn
Kinh Niết Bàn nói : Tu đà hoàn thì tám vạn kiếp, tới. A la hán thì hai vạn kiếp, tới. Bích chi Phật thì mười ngàn kiếp, tới.
Nói “Tới”, có nghĩa là đạt tới A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm. Cho nên biết rằng trải qua số kiếp như thế mới tới Thập tín sơ tâm, mới bắt đầu nhập sơ kiếp.
Bồ Tát Địa nói : Tu hành loanh quanh chẳng bằng Bồ tát sơ tâm thủy nghiệp (Bồ Tát mới phát tâm, mới tu hành), vì sự đam mê chấp trước cái vị tịch diệt quá sâu nặng.
Do đó, nay nói qua vô lượng kiếp mới bắt đầu cúng dường bao nhiêu ngàn vạn ức Phật, hành đạo Bồ tát v.v….
Có h ba quyết định :
1/ Chủng tính định : gặp duyên liền chứng được chính giác.
2/ Phát tâm định : phát đại tâm rồi, chẳng thoái chuyển nữa.
3/ Bất hư hành định : được tự tại rồi thì làm lợi cho hữu tình, không bao giờ sống uổng.
Đầu tiên tại Địa tiền, trong năm loại Bồ đề, vì phát tâm Bồ đề. Thứ nữa tại Sơ địa, vì chứng phát tâm. Cuối cùng tại Bát địa
Nay y Sơ định, nên thụ ký cho.
5. Giải đáp thắc mắc. 
Luận nói rằng : hàng Thanh văn v.v… ấy phải chăng là thực thành Phật nên thụ ký cho, hay chẳng thành Phật mà cứ thụ ký cho ? 
Nếu thực thành Phật, thì cớ sao Bồ tát phải trải qua vô lượng kiếp tu tập vô lượng công đức
Nếu họ chẳng thành Phật thì sao lại thụ ký sằng bậy bừa bãi cho họ ?
Ý này khó nói, nếu hạng Thanh văn v.v… chỉ cần trụ một trăm kiếp luyện căn, tu hạnh Thanh văn liền thực sự được thành Phật, vì thế mà thụ ký cho họ. Thế thì Bồ tát vì cớ gì phải trải qua vô lượng kiếp tu tập vô lượng công đức mới được thành Phật. Vì Bồ đề ít nhân đã có thể thực sự thành Phật. Nếu hạng Thanh văn dẫu tu ít nhân cũng chẳng được thành Phật, thế thì cần gì mà nay thụ ký sằng cho họ ?
Luạân tự giải đáp rằng : hạng Thanh văn ấy được thụ ký thì được cái tâm quyết định, chứ chẳng phải là đã thành tựu được pháp tính
Ý này nói rằng : 
Thụ ký cho hạng Thanh văn ấy là để khiến cho họ được cái tâm quyết định thành Phật, đặng tiến tu diệu hạnh ; chứ chẳng phải là họ đã chứng hội Pháp tính nhị không, thành tựu chân lý, mà thụ ký cho. 
Luận còn giải thích thêm : Như lai dựa vào ba thừa bình đẳngthuyết pháp nhất thừa, vì Pháp thân Như LaiPháp thân hạng Thanh văn đó không khác.
Thụ ký cho : không có nghĩa là đã tu hành đầy đủ công đức nên thụ ký cho.
Thập địa Bồ tát thành tựu pháp, nên công đức đầy đủ. Còn các Thanh văn thì công đức chưa đầy đủ. 
Bởi vậy Bồ tát tu vô lượng hạnh mới được Bồ đề. Thanh văn chưa tu vô lượng công đức, chỉ vì muốn khiến họ được cái tâm quyết định thành Phật nên thụ ký cho họ.
Hỏi - : Thanh văn vô học hết hẳn hậu hữu, cớ sao lại thụ ký cho họ là trải qua ba đại kiếp sẽ được Bồ đề ?
Đáp - : Hiển Dương luận nói : y vào Biến hóa thân, chẳng phải Nghiệp báo thân, nên chẳng trái lý.
Thành Duy Thức nói : tức là biệt danh của Biến dịch sinh tử. Ý này nói rằng : trước khi phát tâm thì hiện thân có hạn. Do sau khi được thụ ký phát đại thệ nguyện, cầu đại Bồ đề, độ loài hữu tình, liền nhập Biên tế vô lậu thắng định, nhờ vào những việc đã làm trước kia mà cảm nghiệp thân nay, khiến nghiệp ấy trường kỳ chẳng đoạn tuyệt với quả. Nghiệp sở tư này do vô lậubiến chuyển lần lần thành vi diệu, vì các thứ thô tháp cũ đổi khác chín muồi rồi thì đổi thành vi tế, quảng đại, thù diệu khác hẳn cái gốc. Giống như trong sự biến hóa. Sự biến dịch này khác với thời cũ, gọi là Biến dịch sinh tử, luôn luôn giúp phát triển cho đến khi thành Phật
Do họ (chỉ Thanh văn) Phân đoạn sinh tử tuy đều hết hẳn, (Phật) nói là quá ba trăm do tuần hóa làm một tòa thành, nhưng vì Biến dịch chưa hết, Phật nói là còn hai trăm do tuần nữa mới tới Bảo sở.
Phân đoạn sinh tử tuy đều hết hẳn, nhưng vẫn thụ Biến dịch sinh cho đến khi thành Phật.
Hạng Thanh văn thú tịch thì không có sự này. 
Kinh Thắng Man nói rằng : “Vô minh trụ địa là duyên, Vô lậu nghiệp là nhân, sinh ra ba loại Ý sinh thânA la hán, Bích chi Phậtđại lực Bồ tát”. 
Nói rộng ra thì như Phật địa trong Du Già, Biệt chương trong Duy Thức v.v…
6. Các loại khác nhau trong hàng Thanh văn
Luận nói rằng Thanh văn có bốn loại : 
1) Quyết định. 3) Thoái Bồ đề tâm
2) Tăng thượng mạn. 4) Ứng hóa
-Như Lai thụ ký cho : có hai loại, đó là loại Ứng hóa và loại thoái Bồ đề tâm, trừ các loại Quyết định, Tăng thượng mạn ra vì căn chưa chín nên Như Lai chẳng thụ ký cho.
-Bồ tát thụ ký cho : 
Việc Bồ tát thụ ký cho, đó là phương tiện để khiến họ phát tâm. Như việc Thường Bất Khinh thụ ký cho. Đây nói kẻ căn chưa chín, kẻ tăng thượng mạn có thể như thế. Hạng thú tịch rốt ráo chẳng chín cớ sao lại nói là chưa chín ?
“Chưa” : cũng có nghĩa là “chẳng”.
Theo lý, lẽ nên nói rằng : hạng thú tịch chẳng ngu về pháp, nhưng tín căn chưa chín, nên Phật chẳng thụ ký cho, vì chẳng ký rõ ràngđời nào sau này sẽ được làm Phật.
-Bồ tát ký biệt :
Việc Bồ tát ký biệt, đó là sự ký biệt chung chung vì có cái lý Phật tính (tức hết thảy chúng sinh đều có Phật tính), nên ký biệt để làm phương tiện khiến người được thụ ký phát tâm tín hướng đại thừa. Hạng tăng thượng mạn, vì cái căn tín hướng chưa chín, cho nên Phật cũng chẳng ký biệt rõ ràng về sự sau này sẽ thành Phật.
Bồ tát cũng chỉ là ký biệt chung chung, để làm phương tiện khiến phát tâm tín hướng. Nay gộp lại thành văn mà nói là : “căn chưa chín” chứ chẳng phải hạng thú tịch cũng sẽ có thể thành Phật.
Trang Nghiêm luận nói rằng : người khác lúc Niết bàn thì thiện căn hết. Bồ tát thì thiện căn chẳng thế. 
Trong Kinh Niết Bàn nói : “nói rằng Tu đà hoàn v.v… đều được thành Phật, đó gọi là chẳng hiểu ý ta”. Cho nên biết rằng hạng thú tịch nhất định chẳng được làm Phật.
Loại Thanh văn ứng hóa, có người nói đó tức là Xá Lợi Phất. Bốn vị đại Thanh văn là hạng thượng căn, năm trăm đệ tử là hạng trung căn, bọn hữu họcvô học là hạng hạ căn.
Nay lý giải chẳng thế.
Kinh Hoa Nghiêm thoạt đầu nói có Xá Lợi Phấtứng hóa, sau tới phẩm Nhập Pháp Giới Xá Lợi Phất đem sáu ngàn đệ tử từ trong phòng mình ra, được Văn Thù Sư Lợi thuyết cho mười pháp, mới phát tâm Bồ đề, tức là việc được thụ ký ở trong này. Cho nên chẳng phải là loại ứng hóa
Chỉ một mình Xá Lợi PhấtThanh văn thượng căn. Bốn vị đại Thanh văn là hạng trung căn. Năm trăm đệ tử là hạng hạ căn. Cứ theo như phần dưới kinh này mà nói thì bọn các ông Phú Lâu Na v.v… là loại Ứng hóa trong hội Pháp Hoa.
Cứ như sự giải thích về “Hóa” trong Nhiếp Luận, Thập nghĩa Nhất thừa, cũng giống như Kinh Lăng Già v.v… thì Thanh văn nhiều kiếp nhập Niết bàn, uống rượu tam muội, say khướt mà nằm, sau từ định mà trở dậy phát tâm hướng đại thừa v.v… . Đó là sự hóa tác của chư Phật Bồ tát để dẫn dụ các loại khác vậy.
*
-Kinh văn : “Tên nước là Ly Cấu” tới “người trời đều thịnh”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ hai : cõi ngoài trang nghiêm, đó là Hóa tịnh độ
Văn có mười điều. Trong này có năm :
1) Quốc hiệu : là Ly Cấu, vì được thuần thiện, không có lục cấu (sáu thứ cáu bẩn).
2) Độ tướng (hình tướng của quốc độ) : cơ địa bình chính, tâm lìa cao mạn, ở trong hai thứ hơn kém mà không sợ, không khinh vì lìa xiểm mạn.
3) Tịnh uế : thanh tịnh nghiêm sức, vì chúng sinh tâm tịnh, nên cõi Phật tịnh.
4) An dật (yên ổn, nhàn nhã) : yên ổn, sung túc sung sướng vì không có các chuyện chém giết, trộm cắp, đánh chửi, binh đao, đói khát, không có ba nhân ác.
5) Thiện ác : trời, người đều rất thịnh vì không có ác tri hữu (bạn quen xấu) khác ở ngoài. Phân biệt, phiền não hết thảy đều không thì không có đường ác, nên người, trời mới thịnh.
*
-Kinh văn : “Lưu ly làm đất” tới “thường có hoa quả”. 
Tán rằng : văn này có năm điều :
6/ Nghiêm sức (trang hoàng) : lấy lưu ly làm đất, vì tâm không tỳ vết. 
7/ Lộ trụ (đường lối) : có đường tám nẻo giao nhau, vì tu tám trai giới, tám Thánh đạo :
Đông tây có bốn, Nam bắc có bốn gọi là đường tám nẻo giao nhau. Hoặc Đông tây có tám, Nam bắc cũng tám, từ một phương mà đặt tên. Hoặc đường của tám phương, gọi là đường tám nẻo giao nhau (bát giao đạo). Như rẽ chín hướng thì gọi là Quỳ.
8/ Đường : được trang sức bằng dây vàng ròng giăng làm ranh giới lối đi, đó là do cảm ứng của Bốn tổng trì.
9/ Rừng rú : gồm các hàng cây bằng bảy thứ báu, vì tu bảy Thánh tài, trì bảy chi giới.
10/ Hoa quả : thường có hoa quả, vì được tăng trưởng nhờ nhân hằng tu bảy giác, tám giải thoát.
*
-Kinh văn : “Hoa Quang Như Lai” tới “giáo hóa chúng sinh”. 
Tán rằng : dưới là mục ba : Thuyết pháp giống nay. Có hai phần : 
• Phần đầu nói rõ giống nay.
• Phần sau giải thích lý do.
Đây là phần đầu. 
Vì giống nay nên gọi là “cũng thế”. Tuy chẳng phải là đời ác, chẳng phải uế độ, đã nói là thanh tịnh, là đã nói rõ đó là Hóa tịnh độ.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “thuyết pháp tam thừa”. 
Tán rằng : đây là giải thích lý do
Cứ thực thì đức Thích Ca cũng do bản nguyện
Nay dựa vào nguyện lực, cứ ra ở đời ác, muốn chứng minh rằng các cách làm lợi của chư Phật chẳng giống nhau.
Ta ra ở đời ác, giáo hóa chúng sinh, thoạt đầu thì dùng phương tiện, sau đó thì dùng chân thực, cho nên mới dùng tam thừa
Ý nguyện của Hoa Quang Như Lai là muốn giúp đỡ khắp. Sở dĩ chỉ nêu bản nguyện như vậy là vì muốn khiến cho chúng sinh biết rằng, thời đức Phật đó không có chúng sinh ác nào muốn sinh nơi đó, nên thuận theo tập quán vốn có của họ mà điều phục nhị thừa, thuyết pháp tam thừa, chứ chẳng phải là giáo hóa chúng sinh ác, lúc đầu bằng quyền thừa, sau bằng thực thừa.
*
-Kinh văn : “Tên kiếp ấy ” tới “là đại bảo”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ tư : tên kiếp khác nhau. Đầu thì nêu lên, sau là giải thích.
*
-Kinh văn : “Các Bồ tát đó” tới “không ai biết được”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ năm : Giúp đỡ hơn kém. Có hai phần :
• Phần đầu giải thích riêng về đức. 
• Phần sau là tổng kết lại.
Văn có mười đức. Đây có một đức :
1) Các thánh khó lường, như rừng chiên đàn, chiên đàn vây quanh.
*
-Kinh văn : “Nếu khi muốn đi ” tới “đều trồng gốc đức đã lâu”. 
Tán rằng : đây có hai đức.
2) Hoa lành ứng với bước chân, vì tâm thường vượt trên hoa Cửu tịnh. 
Hiển Dương luận, quyển ba nói rằng : 
Cửu tịnh gồm : 
1/ Giới tịnh. 
2/ Tâm tịnh. 
3/ Kiến tịnh. 
4/ Độ nghi tịnh. 
5/ Đạo phi đạo tri kiến tịnh. 
6/ Hành tri kiến tịnh. 
7/ Hành đoạn tri kiến tịnh. 
8/ Vô duyên tịch diệt tịnh. 
9/ Quốc độ tịnh. 
Bảy thứ đầu là hoa Thất tịnh như luận ấy đã giảng rộng.
3) Diệu nhân vun trồng đã lâu, vì chẳng phải sơ phát tâmthiện căn đã thuần thục.
*
-Kinh văn : “Ở vô lượng trăm ngàn” tới “được ca ngợi tán thán”. 
Tán rằng : đây có hai đức :
4) Thiện duyên xưa gặp, vì phát đại nguyện.
5) Danh tiếng cao xa, vì mọi người biết.
*
-Kinh văn : “Thường tu Phật tuệ” tới “các pháp môn”. 
Tán rằng : đây có ba đức :
6) Hằng cầu Phật trí, vì thích đại giác.
7) Việc giáo hóa đối với ngoài từ lâu đã thành, vì sẵn đức Từ bi.
8) Xem xét bên trong nay đã đầy đủ, vì không mê lầm
Môn về pháp nghĩa đó là Giáo. Môn về pháp giáo đó là Nghĩa. Hai cách giải thích đều được.
*
-Kinh văn : “Chất phác thẳng thắn không hề giả dối, chí niệm kiên cố”. 
Tán rằng : đây có hai đức :
9) Tính thuần không kiêu, vì không lừa dối xiểm nịnh.
10) Tâm siêng chẳng chùn, vì hành vị cao, vì trực tâmđạo tràng, vì chất trực thì phiền não chẳng động được, cho nên chí niệm kiên cố.
*
-Kinh văn : “Bồ tát như thế đầy khắp trong nước ấy” .
Tán rằng : đây là tổng kết phần giải thích.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất ” tới “thọ tám tiểu kiếp”.
Tán rằng : dưới đây là mục thứ sáu : Pháp trụ lâu mau. Có bốn ý : 
1. Tuổi thọ của Phật. 
2. Tuổi thọ của chúng sinh
3. Thụ ký sẽ thành Phật
4. Ký về Chính pháp Tượng pháp
Đây là phần một và hai : 
Chúng sinh của đức Thích Ca bạc phúc, ít tuệ, nên tuổi thọ của Phật ngắn, tuổi thọ của chúng sinh dài. Phần thứ năm của tuổi thọ để lại là để bố thí cho đệ tử thời vị lai
Chúng sinh được Hoa Quang Như Lai hóa độ, phúc tuệ tự tu chẳng nhờ đến Phật ban cho, nên tuổi thọ Phật dài mà tuổi thọ chúng sinh ngắn. 
Thêm nữa, chúng sinh của đức Thích Ca phước bạc vô cảm, nên tuổi thọ của Phật ngắn, vì chẳng cảm Phật. Chúng sinh của đức Hoa Quang nhiều phúc, có cảm, nên tuổi thọ của Phật dài vì cảm sự hóa độ của Phật.
*
-Kinh văn : “Hoa Quang Như Lai” tới “ký Tam Bồ Đề”.
Tán rằng : dưới đây là mục thứ ba : thụ ký sẽ thành Phật.
Có ba ý : đầu tiên là ký thời, thứ hai là Chính ký, thứ ba là quốc độ
Đây là phần đầu.
Quá mười hai kiếp : vì kiếp thọ của Phật đã mãn, mới thụ ký.
Tinh tiến thành tựu : gọi là kiên mãn.
*
-Kinh văn : “Bảo các Tỳ kheo” tới “Tam Miệu Tam Phật Đà”. 
Tán rằng : đây chính là thuyết minh về Ký.
Hoa Túc : có nghĩa là hoa báu nâng chân. Nhờ nghe Kinh Pháp Hoa làm nhân, thành Phật quả viên mãn nên gọi là Hoa Túc.
An Hành : do khai mở Pháp Hoa, tu hành An lạc hạnh, nên gọi là An Hành. 
Có thuyết nói rằng yên ổn từ từ mà định thì gọi là An hành. Đây chẳng phải là cách giải thích hay, bởi vì có Phật nào mà lại đi đứng lật đật tất tưởi đâu !
Đa Đà A Già Độ : có nghĩa là Như Lai.
A La Ha : có nghĩa là “Ứùng” .
Tam Miệu Tam Phật Đà : có nghĩa là Chính đẳng giác
Kinh mới dịch, dịch là Như Lai Ứng Chính đẳng giác. Xưa dịch là Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri.
*
-Kinh văn : “Nước Phật ấy cũng như vầy”. 
Tán rằng : đây thuyết minh đất nước cũng giống như đất nước của Phật Hoa Quang, đó là kết quả của cái nhân tu hành Pháp Hoa.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “ba mươi hai tiểu kiếp”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : Ký về Chính pháp Tượng pháp.
Nếu là Chính pháp của Phật, thì có đầy đủ ba thứ Giáo, Hành, Chứng. Nếu là Tượng pháp của Phật thì chỉ có Giáo Hành, mà không Chứng quả
Nếu là Mạt pháp của Phật, thì chỉ còn Giáo, mà Hành Chứng đều không có. Theo Giáo Hành, hành chứng quả khác nhau, nên Chính pháp của Phật Thích Ca ngắn, Tượng pháp dài. Chẳng độ cho nữ, Chính pháp Tượng pháp mỗi thứ một ngàn năm. Vì độ cho nữ, nên Chính pháp giảm một nửa. 
Nay Hoa Quang Phật Chính pháp Tượng pháp bằng nhau, tuy có ba thừa, nhưng loại Bồ tát nhiều, nên gọi là Đại Bảo. Dẫu có bốn chúng nhưng phụ nữ trì giới, nên chẳng giảm Chính pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đức Thế tôn ” tới “sẽ độ vô lượng chúng”. 
Tán rằng : dưới là 11 tụng rưỡi, chia làm hai phần : 
- 10 tụng rưỡi đầu, tụng về thụ ký trước.
- 1 tụng sau, tụng về đoạn thứ hai trong việc thụ ký : Kết hội khiến cho ưa thích.
Trước Nhân ký có bốn, Quả ký có sáu.
Nay tổng kết chia làm ba phần :
• 1 tụng nói về nội đức trang nghiêm trong Quả ký. 
• 1 tụng nói về Nhân ký. 
• 8 tụng rưỡi nói về bốn nghĩa của Quả ký.
Đây là phần đầu. 
Phổ trí : là Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, vì cả hai đều có tính phổ biến.
*
-Kinh văn : “Cúng dàng vô số Phật” tới “chứng về đạo Vô thượng ”. 
Tán rằng : đây là tụng về Nhân ký. Có hai ý : 
1) Gặp duyên lành. 
2) Có đủ đạo Bồ tát
Tính ra thì cũng có thời gian : quá vô lượng kiếp thì nhập trong tụng sau, nên đây chỉ có hai.
*
-Kinh văn : “Quá vô lượng kiếp rồi” tới “thường có hoa và quả”. 
Tán rằng : dưới đây là 8 tụng, tụng Quả ký. Có bốn nghĩa, chia làm bốn : 
- Nửa tụng, tụng về tên kiếp khác nhau hoặc giống nhau. 
- 1 tụng rưỡi, nói về ngoại độ (cõi ở ngoài) trang nghiêm
- 2 tụng, nói về việc giúp đỡ hơn kém.
- 4 tụng, nói về tuổi thọ của Phật dài hay ngắn.
Chẳng tụng về việc thuyết pháp giống ngày nay. 
Đây là văn hai nghĩa đầu. 
Ngoại độ trang nghiêm có sáu nghĩa : 
1) Danh. 4) Giới. 
2) Tịnh. 5) Cây. 
3) Địa. 6) Hoa quả
Chẳng tụng về bốn nghĩa khác.
*
-Kinh văn : “Bồ tát trong nước đó ” tới “do Phật Hoa Quang độ ”. 
Tán rằng : đây là mục giúp đỡ hơn kém.
Có bốn ý : 
1. Bất thoái. 2. Ngoại hóa.
3. Gặp thiện hữu. 4. Gây nhân tốt. 
Chẳng tụng bốn ý khác. 
*
-Kinh văn : “Lúc Phật là vương tử” tới “thọ mệnh tám tiểu kiếp”. 
Tán rằng : dưới là 4 tụng rưỡi, nói về tuổi thọ của Phật lâu hay mau. Có bốn phần :
- 1 tụng rưỡi, nói về tuổi thọ của Phật. 
- Nửa tụng, nói về tuổi thọ của người. 
- 1 tụng rưỡi, nói về thời gian của Chính pháp, Tượng pháp
- 1 tụng, nói về việc lưu hành xá lợi.
Chẳng tụng về việc thụ ký. Thêm phần cúng dường xá lợi. Đây tức phần đầu và phần thứ hai.
Trong này lẽ ra phải nói rằng : thời là thân cuối cùng, khi làm vương tử, Phật đã bỏ nước, bỏ sự vinh hoaxuất gia thành đạo. Vì văn nói ngược nên trước hết nói việc vương tử bỏ nước, bỏ vinh hoa, rồi sau mới nói hậu thân thành Phật đạo. Hoặc văn này ý nói về vô lượng sinh thân làm vương tử bỏ nước bỏ vinh hoa, tới thân cuối cùng mới thành Phật đạo.
*
-Kinh văn : “Sau khi Phật diệt độ” tới “Tượng pháp ba mươi hai”. 
Tán rằng : đây tụng về thời gian của Chính phápTượng pháp.
Ngày, đêm, tháng, mùa, năm là kiếp.
*
-Kinh văn : “Xá lợi lưu truyền rộng” tới “sự đó đều như vậy”. 
Tán rằng : đây tụng về việc xá lợi lưu hành cùng với kết luận.
*
-Kinh văn : “Vị Lưỡng túc tôn đó” tới “nên phải tự vui mừng”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai nói về kết hội khiến ưa thích, giáo hóa cho tâm họ kiên định, khiến họ cầu quả Phật.
Chữ “Luân” : có nghĩa là Loại, cũng có nghĩa như chữ Thất trong từ Thất phối (sánh đôi, sánh với). Ý nói Lưỡng túc tôn là bậc không có ai sánh kịp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ bốn bộ chúng” tới “để cúng dàng Phật”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai trong phần thụ ký nói về việc chư thiên cúng dường, tán thán, hồi hướng
Trong này có hai phần : 
• Phần đầu tứ chúng bát bộ cúng dàng. 
• Phần sau là chư thiên cúng dàng tán thán.
Đây là văn phần đầu : biểu thị được đội ơn Phật cũng giống như được áo Phật che cho. Cũng biểu thị cái ý đã nói ở trên, là khi nào thành Phật quả thì sẽ thuyết pháp này cho người khác, ví như để che cho chúng sinh, cho nên đem áo mà cúng dàng.
Cho nên văn dưới nói rằng : “Ai trì kinh này sẽ được áo Phật che cho”.
*
-Kinh văn : “Thích Đề Hoàn Nhân” tới “cúng dàng Phật”. 
Tán rằng : dưới đây là chư thiên tán thán cúng dàng. 
Có hai phần : phần đầu là cúng, phần sau là tán. 
Trong cúng lại có hai : đầu là cúng áo và hoa, sau là cúng kỹ nhạc
Phần đầu cúng áo và hoa có hai ý : đầu là cúng dàng, sau là linh tướng. 
Đây là ý đầu : đem hoa cúng dàng là để biểu thị cái ý nghe Pháp Hoa thì sẽ được quả Phật.
*
-Kinh văn : “Áo trời trải ra” tới “mà tự hồi chuyển”.
Tán rằng : đây là linh tướng. 
Trụ ở hư không : thể hiện rõ nghe Kinh Pháp Hoa, siêu xuất tứ sinh, tâm ngưng đọng diệu lý
Hồi chuyển : có nghĩa là cúi nhìn khắp ba cõi, tình cảm xót thương các loài ngu xuẩn.
*
-Kinh văn : “Kỹ nhạc của chư thiên” tới “mưa các loại hoa trời”.
Tán rằng : đây là cúng dâng kỹ nhạc.
Nhân nghe pháp thanh mà ngộ đạo, nên tấu âm nhạc, biểu thị tu nhân nên quả mới mãn, bởi vậy mưa hoa trời.
*
-Kinh văn : “Mà nói lời này” tới “tối đại pháp luân”. 
Tán rằng : dưới đây là tán thán, có hai phần : đầu là trường hàng, sau là kệ tụng.
Đây là phần đầu.
Trong này chỉ nhắc lại pháp luân hai thời, vì so sánh giữa đại thừatiểu thừa, đối với hạng Bất định tính, so sánh quyền và thực với nhau. Cứ thực thì cũng so sánh với Không giáo Bát nhã. Đây là trung đạo, gọi là tối đại pháp luân.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ các Thiên tử ” tới “ít có ai tin được”. 
Tán rằng : dưới là 6 tụng rưỡi. Chia làm bốn phần : 
- 2 tụng đầu, nói rõ xưa thuyết tiểu thừa, nay thuyết đại thừa.
- 1 tụng rưỡi, tán thán pháp thắng điệu, rồi tùy hỷ.
- 2 tụng, nêu người khác tỏ rõ bản thân làm Phật sẽ sinh hoan hỉ.
- 1 tụng : hồi hướng.
Đây là phần đầu.
Ngũ chúng : tiếng Phạm là Bát Già Tắc Kiến Đà. Đây gọi là Ngũ uẩn. Vì có đầy đủ mười một loại nghĩa tích tụ nên gọi là uẩn. Nay gọi là chúng, chúng có nghĩa là tụ. Hoặc gọi là Ngũ ấm, đều trái với chính danh (cách dịch đúng).
Căn cứ vào pháp Ngũ uẩn trong tam khoa để phân tích Tứ đế, cho nên biết rõ lúc đầu là quyền. Nay hội này thuyết pháp khó lý giải, bỏ quyền theo thực. Nói “ít có ai tin được”, vì là pháp thâm áo, quyền thực trái nhau.
Y vào Đại Bát Nhã thì sơ chuyển pháp luân, tam thừa nhập đạo
Nay căn cứ vào hiển tướng thì chỉ độ Thanh văn, nên nói Ngũ chúng để thuyết minh quyền pháp. 
Thâm áo : có nghĩa là bí tàng, vì đại thừa vi diệu.
*
-Kinh văn : “Chúng tôi từ xưa nay” tới “chúng tôi đều tùy hỷ”. 
Tán rằng : tán thán pháp thắng diệu, thâm sinh tùy hỷ

Tùy : có nghĩa là thuận (theo), vì thuận theo Phật giáotu hành.
*
-Kinh văn : “Đại trí Xá Lợi Phất” tới “phương tiện tùy nghi thuyết”. 
Tán rằng : nêu người khác để nói rõ tự mình làm Phật sinh ra hoan hỷ. Phật thụ ký cho người khác, tỏ rõ ta cũng được làm Phật. Cho nên biết rằng đạo Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Phương tiện tùy nghi khiến ta hiểu rõ.
* Chữ Phả : nghĩa là chẳng thể. Ngược với chữ Chính là Phạp, ngược với chữ Khả là Phả, đó đều là ý nghĩa của chữ. 
*
-Kinh văn : “Mọi phúc đức của ta” tới “đều hồi hướng đạo Phật”. 
Tán rằng : đây là hồi hướng Phật quả thành tựu Ba la mật, Pháp cúng dàng.
Đó tức là phương tiện thiện xảo trí vậy.

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN 
QUYỂN THỨ NĂM - PHẦN TRƯỚC 
ĐÃ XONG

Ngày cuối tháng đầu mùa Đông, năm Bảo An thứ ba, dùng bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc đem ra chép, đánh dấu ngắt câu xong xuôi
Bản in của Sư Tăng Giác, chùa Pháp Long cũng đều là bản đã ngắt câu.
Thêm nữa, bản của Chu Hoặc cũng đã ngắt câu, đem in cùng với bản của Chu Hoặc. Trong bản này có chữ đã mất, tả hữu đính chính lại bản Chu Hoặc.
“để pháp được trụ lâu dài”

 

QUYỂN THỨ NĂM (PHẦN SAU)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.

-Kinh văn : “Bấy giờ Xá Lợi Phất” tới “thọ ký thành Vô thượng Chính đẳng Chính giác”. 
Tán rằng : trên đây là vòng đầu dùng pháp mà thuyết về quyền thực để giáo hóa hạng thượng căn đã xong, dưới đây là vòng thứ hai dùng Dụ mà thuyết về quyền thực để hóa độ hạng trung căn
Cả đoạn văn lớn chia làm bốn phần : 
• Phần đầu là phẩm Thí Dụ, Phật dùng dụ để giáo hóa
• Phần hai là phẩm Tín Giải, nói về việc hạng trung căn lĩnh ngộ. 
• Phần ba là phẩm Dược Thảo Dụ, nói về việc Phật giảng lại đã xong. 
• Phần thứ tư là phẩm Thụ Ký, nói về việc Phật thụ ký cho họ. 
Hạng thượng căn thông minh, không cần phải trình bày nhiều. Hạng hạ căn ba lần nghe giảng chẳng cần giảng rộng. Cho nên giáo hóa hạng trung căn, văn nghĩa đều nhiều.
Đoạn văn đầu có hai phần : đầu tiên là Thu Tử thỉnh, sau đó là Phật thuyết để làm lợi cho đại chúng. Thu Tử tuy hiểu, nay vẫn cứ thỉnh, đó đại để là vì ba nguyên nhân :
1. Để làm lợi ích cho đồng loại.
2. Để tu hạnh lợi tha.
3. Để tùy thuận sự giáo hóa của Phật.
Trước kia đã ba lần tha thiết thỉnh Phật thuyết pháp, ngày nay đã lĩnh giải rồi, nên có sự giải thích này. 
Văn đầu có ba ý : 
- Đầu tiên trình bày sự quyết định của mình.
- Sau đó thuật lại điều nghi ngờ của người khác.
- Cuối cùngchính thức thỉnh cầu
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Một ngàn hai trăm vị này” tới “đều sa vào vòng nghi hoặc”. 
Tán rằng : đây là thuật lại sự nghi ngờ mà người khác đã mắc phải.
Hữu kiến, vô kiến (chấp có, chấp không) đều là biên kiến. Y vào ngã kiến mà sinh ra các thứ chấp thủ tà kiến
Biên kiến, tà kiến này bao gồm 62 loại do ngoại đạo khởi lên. 
Nay thể hiện rõ phải y vào ngôn giáo của Phật mà bỏ tà theo chính, cho nên ở đây thuyết đặc biệt.
Ngoài ra, các thứ chấp khác ngoài ba loại kiến này cùng các phiền não hợp lại thì nghiệp phát khởi.
Phật xưa nói rằng : “Pháp của ta có thể lìa quả khổ hiện thấy trước mắt như sinh lão bệnh tử và được cứu cánh Niết bàn”. 
Do muốn diệt quả, trước tiên ắt phải đoạn nhân. Những người này áp dụng lời dạy của Phật lìa được các nhân gây khổ là ngã kiến v.v… xong, nhất định biết rằng các khổ sẽ chẳng còn sinh ra nữa và việc chứng được Niết bàn đã được quyết định
Nay lại nghe Phật thuyết bảo phải bỏ quyền theo thực, nên họ đều đọa vào vòng nghi hoặc mà khởi lên những điều nghi ngờ. Bọn họ ai nấy đều chẳng biết tự mình sẽ được thành Phật, chẳng biết điều chứng được trước kia là pháp gì ? Là pháp cứu cánh, hay đó là đạo sở hành ? Hơn nữa đã cùng áp dụng lời Phật dạy, đã đoạn các nhân gây khổ, cho nên quả khổ chẳng sinh ra nữa.
*
-Kinh văn : “Lành thay ! Thế tôn” tới “khiến lìa nghi hối”. 
Tán rằng : đây là chính thức thỉnh cầu Phật nói nhân duyên.
hai nghĩa : 1) Lý do. 2) Đạo lý
Nay thỉnh Thế tôn trình bày lý do.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “để dạy cho Bồ tát”. 
Tán rằng : dưới là Phật thuyết lợi ích. Đoạn văn lớn chia làm ba phần :
• Phần đầu từ “Bấy giờ Phật bảo” trở xuống, là tổng lược chỉ đáp, lý do khiến Phật ưng thuận thuyết pháp cho. 
• Thứ đến phần từ “Xá Lợi Phất ! Như trong quốc, ấp” trở xuống : chính thức thuyết pháp dụ,ï để khiến họ được hiểu.
Cuối cùng là từ bài kệ :
“Bảo này Xá Lợi Phất
Bọn các ngươi hết thảy, 
Đều là con của ta, 
Ta chính là cha lành”. 
trở xuống, khuyên họ tin tưởng kinh này, khiến họ vui thích vì sẽ được Phật trí.
Phần đầu lại chia làm hai : 
- Đầu tiên là Phật nói lên thuyết của mình, giải đáp chung chung. 
- Sau đó lại bảo họ lý do đồng ý thuyết pháp.
Đây là phần đầu.
Thoạt tiên nói về phương tiện, đó là cách tiệm tu đến chân thực, đầu tiên giáo hóa hạng Thanh văn, lấy đó để làm cái nhân trở thành Bồ tát. Tức là như phẩm Phương Tiện nói rằng : “Biết các chúng sinh có biết bao nhiêu thứ dục, nên đã tùy theo bản tính của họ, dùng đủ thứ phương tiệnthuyết pháp cho họ, như vậy đều là để cho họ được Nhất thiết chủng trí của một Phật thừa ! ”.
Tức là xưa thuyết về quyền thừa, nay thuyết về thực thừa. Sở dĩ như vậy là để giáo hóa Bồ tát
Do vậy nên gọi là giải thích nguyên nhân. Cho nên gọi là tổng lược chỉ đáp.
*
-Kinh văn : “Được ! Xá Lợi Phất” tới “nhờ thí dụ mà hiểu được”. 
Tán rằng : đây là bảo thêm về lý do ưng thuận thuyết cho. 
Chữ Nhiên (được) : đây có nghĩa là phải thế, cũng đúng như vậy. Đúng là có thể thuyết cho.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “tuổi ông già nua”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai, chính thuyết pháp dụ để họ hiểu rõ, đầu là trường hàng, sau là kệ tụng
Trường hàng có ba phần : 
- Phần đầu trình bày ví dụ. 
- Thứ đến phần thuyết chung.
- Cuối cùngkết luận bằng giải đáp. Đó là đoạn từ “vì nhân duyên đó, nên biết rằng phương tiện lực của chư Phật” trở xuống. 
Trong thí dụ có hai phần : 
+ Phần đầu thí dụ về xưa là quyền thừa.
+ Phần sau thí dụ về nay là thực thừa. Đó là đoạn từ ”Bấy giờ các con ai nấy thưa với cha rằng : điều cha hứa trước đây…” trở xuồng
Trong thí dụ về xưa là quyền, có bốn phần :
1. Từ “Xá Lợi Phất ! Như trong quốc, ấp” trở xuống, là thí dụ về ba cõi có Phật.
2. Từ “có nhiều đám người” trở xuống, là thí dụ về năm nẻo nguy vong.
3. Từ “Trưởng giả thấy đám cháy to ấy” trở xuống, là thí dụ về việc thấy đặt ra phương tiện quyền nghi.
4. Từ “Bấy giờ các con nghe lời cha nói” trở xuống, là thí dụ về y theo lời thì khỏi tai nạn.
Văn đầu có sáu ý : 
1. Xứ sở. 4. Sản nghiệp. 
2. Gia chủ. 5. Trạch tướng. 
3. Tuổi tác. 6. Môn hộ (cửa ngõ).
Đây có ba thứ : quốc, ấp, tụ lạc, đó là xứ sở.
Đã thuyết về tam thừa thì biết rõ là hóa Phật. Hóa Phật chỉ làm vua ba ngàn cõi nước, nước to và rộng ví với đại thiên giới ; thứ đến ấp là cỡ trung, ví với trung thiên giới ; nhỏ nhất là tụ lạc, ví với tiểu thiên giới. Vì cứ theo thứ tự từ đại,trung đến tiểu mà thí dụ.
* Sách Quảng Nhã nói : Tụ lạc : có nghĩa là chỗ ở , chỉ nơi cư trú tụ họp của con người. Tụ : là tụ họp. Lạc : cũng có nghĩa là sân sướng vườn tược.
Có vị đại trưởng giả : đó là chỉ gia chủ
Trong phần dụ thuyết ở dưới, trừ phần vấn đáp, có tám vị trưởng giả
- Năm vị đầu ví với hóa thân, vì các con còn ở trong nhà. 
- Ba vị sau ví với báo thânthụ dụng thân, vì các con “tam thừa” đều ra khỏi nhà.
Dưới đó là vấn đáp dụ, trong đó năm vị trưởng giả đều ví với hóa thânthụ dụng thân.
Như trưởng giả thế gian có ba loại :
1/ Loại trưởng giả đáng để bẩm báo vâng mệnh : loại này công bằng, thông đạt, giỏi đoạn thị phi, ví với đức Phật có đức từ bi phổ độ, có trí tuệ viên mãn, khéo giải quyết lưới nghi.
2/ Loại trưởng giả kỳ cựu đáng kính : là bậc tuổi cao trong thôn ấp, uy vọng tôn nghiêm không ai sánh bằng, ví với Phật đạo cao siêu, các thánh thần thông ít ai sánh kịp.
3/ Loại trưởng giả đáng để thân cận : của cải đẹp đẽ dồi dào, cần gì cũng có đầy đủ, tinh túy, ví với Phật phúc trí đều viên mãn, lợi lạc đều đủ. 
Trí đức, Đoạn đức, Ân đức đều ví dụ theo như thứ tự.
“Kỳ niên suy mại” (tuổi ông già nua), đó là nói về tuổi tác. 
“Suy” nghĩa như già nua (thục lão: chín già). 
“Mại” có nghĩa là từ xa trở về (viễn qui). 
Ví với đức Phật tu trí kiến đã lâu, thánh quả viên mãn thành thục, thành đạo đã lâu ở chỗ sâu xa trong cõi Niết bàn. Chẳng phải thuyết đời này, mà nêu chung cả ngôi vị trước kia.
*
-Kinh văn : “Của cải giầøu có vô lượng” tới “chỉ có một cửa”. 
Tán rằng : trong này có ba phần (mục bốn, mục năm và mục sáu).
• Mục bốn : thuyết minh về sản nghiệp, có bốn thứ : 
1. Của cải giầu có, ví với bảy thánh tài đầy đủ.
2. Ruộng nương, ví với trí đoạn là hai thứ sinh đức xứ.
3. Nhà cửa, ví với Dị thục bản thức của các chúng sinh.
Bản thức cũng là Trạch thức, như quốc vương thế gian lấy bốn biển làm gia đình, lấy cả thiên hạ làm nhà ở. Phật cũng như vậy, lấy các chúng sinh làm gia đình, vì Thể tức là Bản thức
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : “Cõi của các hữu tình, đó là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ tát”.
Chúng sinh vô lượng nên nói là có nhiều. Trong tụng chỉ chỉ một người, nên nói là có một ngôi nhà lớn. Hoặc như câu : “coi một trong sáu phương (nhất lục hợp) là nhà ở”, nên đây nói là nhiều.
Nói “có một” , cũng như câu : “coi chúng sinh bình đẳng giống như một người con”. 
Hoặc là, ở đây coi chúng sinh ai nấy khác nhau, nên nói là có nhiều. Coi Phật là chủ, nên nói là “có một”.
Kỳ thực căn nhà này một hay nhiều không khác, vì lấy dị thục thức làm nhà (gia)ø. Bởi vậy trong nhà, nhà gác mục nát nên tai nạn xảy ra tứ tung. 
Nếu nói thiền định, gọi đó là nhà (gia) thì làm sao có tai họa mà nói mục với nát ? Cho nên giữa Gia (với nghĩa gia đình) và Trạch (với nghĩa nhà ở) có sự khác nhau.
4. Đồng bộc (tôi tớ) : trong phần hợp thuyết ở dưới, ví với thần thông của Phật, vì buông thả tự tại. Và cũng ví với việc Phật thị hiện các phiền não.
Kinh Vô Cấu Xưng, phẩm Bồ Đề Phần nói rằng : “Phiền não là nô lệ hèn mạt, là đầy tớ để tùy ý mà chuyển. Như Lai có khả năng coi phiền nãonô lệ hèn mạt, rất khinh bỉ nó, đuổi đánh đoạn diệt nó, và cũng coi nó là đầy tớ để tùy ý mà chuyển. Nói lời êm ái với La Hầu, quát mắng Điều Đạt, đều vì lợi ích cho chúng sinh”.
Trí tuệ, thần thông, như nói trong phần sau, là lực của cơ thể chân tay Phật, nên đồng bộc đây chẳng phải là Định thần thông
* Sách Thuyết Văn nói rằng : Nam có tội làm nô thì gọi là Đồng. Trai gái theo cô dâu về nhà chồng thì gọi là Bộc. Đồng bộc còn có nghĩa là để sử dụng, để phục dịch.
Chữ “Bộc” : có nghĩa là Phụ, tức là phụ thuộc vào người.
“Đồng” : có nghĩa là Độc. Nay là chữ Đồng có bộ nhân đứng.
• Mục năm : “nhà ấy rộng lớn”, đó là trạch tướng (hình tướng của nhà). Bản thức là nhà, vì căn cứ vào phần hợp thuyết ở dưới nói là khắp cả ba cõi, hoặc có từ thời vô thủy, hoặc lại còn chứa đựng mọi chủng tử biến thành ba cõi. Thể thông với Nhị tử (hai loại chết), nên nói là rộng lớn. Nhà (gia) ấy tức là Trạch, tên gọi khác nhau mà thể giống nhau.
• Mục sáu : “chỉ có một cửa”. Cửa đây là nơi nhân đó mà ra khỏi nhà. Ở Dụ và Hợp (thuyết) trong trường hàng này có năm cửa :
1. Đó là cửa mà trong này nói là “chỉ có một cửa”.
2. Cửa bị cháy. 
3. Cửa nhỏ hẹp. 
4. Nay ở ngoài cửa. 
5. Nhờ cửa Phật giáo mà ra khỏi cảnh khổ ở tam giới
Bốn cửa đầu ở trong Dụ, một cửa cuối ở trong Hợp. Cửa có hai loại : 
1) Cửa chính giữa lớn, chỉ nhất thừa giáo hạnh
2) Cửa bên cạnh hẹp, chỉ nhị thừa giáo hạnh.
Trong năm cửa ấy, ba cửa đầu là loại cửa chính giữa lớn, vì thể của nó là Giáo Hạnh của nhất thừa. Hai cửa sau thì dù ở giữa hay là bên, lớn hay nhỏ, chính hay xép đều gọi là cửa, vì thể của các cửa đó là Giáo Hạnh của tam thừa.
- Vì có thể ra khỏi căn nhà biến dịch tam giới, thế nên cửa đầu gọi là nhất, mà chẳng gọi là tam. 
- Cửa thứ hai là cửa bị cháy, mà đức Phật từ đó đi ra yên ổn, có nghĩa là chẳng từ trong giáo hạnh nhị thừa mà ra. 
- Cửa thứ ba thì lại nhỏ hẹp, chẳng dung nhị thừa
Cho nên biết là ba cửa đầu chỉ thuyết về giáo hạnh nhất thừa
- Cửa thứ tư “ba xe đều ở ngoài cửa”, phải chăng nhị thừa cũng ra ngoài giáo hạnh nhất thừa
- Cửa thứ năm thấy các chúng sinh nhờ cửa Phật giáo mà ra khỏi cảnh khổ ở tam giới, chứng được cảnh vui ở Niết bàn. Sau đó đều được cho xe lớn như nhau. Tức là nhị thừa đều đã ra khỏi cửa. 
thế cho nên biết rằng hai cửa sau là chỉ chung cả cửa giữa cửa bên, cửa lớn cửa nhỏ, cửa chính cửa xép đều gọi là cửa cả, khác với các loại cửa trước, vì nghĩa sở vọng (chỉ điều mong mỏi đối với cửa ấy) khác nhau, cho nên cũng chẳng trái ngược nhau. Còn các nghĩa khác về môn (cửa) thì khi nào tới văn đó, nhất nhất sẽ đều giải thích.
Nay thuyết về cái chỗ Nhị lợi hành viên mãn, rọâng rãi bao dung xuất ly được Nhị tử, cho nên cửa chỉ nêu một và chẳng nói cái thứ hai nào khác. 
Đây là nói về cái cửa xuất ly tam giới, chứ không phải cửa để nhập tịnh độ. Đó coi Đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát làm cửa để vào, vì sở vọng khác nhau. 
Đây lấy Giáo đối đãi với Lý, lấy Nhân đối đãi với Quả mà gọi là Môn. Đó lấy Trí đối đãi với Cảnh mà gọi là Môn. 
Thêm nữa, ở đây về phía tam giới thì gọi là Xuất (xuất ly), nếu về tịnh độ thì gọi là Nhập (chứng nhập), vì thể là một. 
Đây thuyết minh về cửa để xuất tam giới, chứ chẳng thuyết minh về cửa để nhập tam giới.
Cửa để nhập tam giới, là phiền não và nghiệp ; vì điều sở vọng khác nhau, cho nên cũng chẳng trái nhau.
*
-Kinh văn : “Có nhiều đám người” tới “dừng ở bên trong”. 
Tán rằng : dưới là Dụ về năm nẻo nguy vong. Có bốn ý :
1. Đám người rất đông.
2. Nhà cửa mục nát.
3. Lửa cháy các nơi.
4. Các con nhởn nhơ.
Đây là phần đầu. 
Chủng tử của năm nẻo là sự huân tập danh ngôn. Do nghiệp cảm khác nhau, nên chia thành các loại khác nhau, vì vậy mà gọi là năm. Tùy theo cái nghiệp tương ứng, mỗi nẻo còn chia thành các chi các nhánh theo các loại nghiệp thiện ác. Quả báo chiêu cảm của mười loại nghiệp đạo, gọi là năm trăm.
Có nghĩa là trong mười nghiệp đạo, mỗi thứ lại chia thành các loại : tự mình làm, sai người khác làm, hoặc tán trợ, mừng vui, ít phần, nhiều phần, toàn phần, ít khi, nhiều khi hoặc suốt cả đời, mỗi thứ chia thành mười loại, mười thứ tu tác tư cảm, lập thành năm trăm Danh. Hoặc là mười nghiệp đạo mỗi thứ đều do mười Hoặc nhuận phát, nên gọi là năm trăm. Tất cả các thứ đó ở trong Bản thức cho nên gọi là “Trụ ở trong nhà”. Do các chủng tử này là Nhân, nên năm nẻo luân hồi, mọi khổ chẳng dứt.
*
-Kinh văn : “Nhà trên, nhà gác mục nát” tới “trụ cột xà ngang nghiêng vẹo nguy hiểm”.
Tán rằng : nhà cửa nguy hiểm mục nát có bốn ý : 
1. Nhà trên, nhà gác ví với Sắc.
2. Tường vách ví với Tưởng. 
3. Chân cột (trụ căn) ví với Hành. 
4. Mái nhà, xà ngang ví với Thụ.
Tòa nhà (trạch) ví với Thức, vì có khả năng duy trì bốn thứ này. 
Nói rằng đã lâu cũ, hơn nữa lại hỏng nát, cho nên theo thứ tự đó tức là chỉ nói về bốn loại uẩn kia, đó là Tứ thức trụ vậy.
“Nhà trên, nhà gác mục nát” : 
Nhà trên ví với Thân căn, vì là lớn mà là chủ. 
Nhà gác ví với các căn vì phải dựa dẫm phụ thuộc vào Thân mới có. 
Nhận các thứ bất tịnh vào để giúp cho sự duy trì được lâu, rồi tự sinh diệt, nên gọi là mục nát (hủ). Vì mục nát, nên là ác. 
“Tường vách sụt lở” : 
* Chữ [隤] âm đọc là Đồi, chỉ tường sụt xuống. Sách Thiết Vận viết là [ ] Sách xưa có câu : “Thái sơn sẽ sụt”. Sách Ngọc Thiên viết là [隤] có nghĩa là sụt lở. 
Sách Thiết Vận viết là [穨] có nghĩa gió to, bảo táp, cũng viết là [頹 ] có nghĩa như chữ [禿 ] (thốc) là hói (đầu hói). 
Còn như hai chữ [ , ] (thôi đồi) thì lại có nghĩa là nhà bị phá hỏng. 
Sách Thuyết Văn cũng viết là [穨], về nghĩa thì theo chữ [禿 ], còn [貴] chỉ âm đọc, cũng viết là [ ]. Hai chữ này đều là cổ văn
Để bảo vệ bên ngoài thì gọi là tường, để ngăn giữ bên trong thì gọi là vách. Tưởng uẩn nếu có các hiện tượng biến hóa bên ngoài thì như tường, các hiện tượng biến hóa bên trong thì như vách. Hư mà chẳng thực, tự nhanh chóng đổi dời thì gọi là Sụt lở (đồi lạc). 
Trụ căn phủ bại : pháp trong Hành uẩn có rất nhiều, mà tối thắng đó là Mệnh căn, vì là chủ của Thân nên ví như trụ cột của nhà, các thứ khác là căn, tính chấtmục nát hư hỏng, nên gọi là Phủ bại. 
* Chữ Phủ và chữ Hủ đều có nghĩa lại hư hỏng, Chữ Phủ [] âm đọc giống chữ Phụ [ 父 ], nên phải đọc là Phủ bại, có chỗ viết là [撫, 敗] . Như làng có tên là Thắng Mẫu thì Tăng Tử chẳng vào. 
Mái nhà, xà ngang nghiêng ngả nguy hiểm : 
* Chữ [棟] Đống là Xà dọc, mái nhà. Còn Lương là xà ngang (quá giang). 
Nội dị thục quả thụ là gốc như mái nhà, xà dọc (đống : xà nóc). Ngoại tăng thượng quả thụ là ngọn, như xà ngang (lương). Lương đống (xà ngang xà dọc) dựa vào cột trụ mà có. Quả thụ y vào Mệnh căn nghiệp mà có. 
Sắp sửa sụp đổ nên nói là nghiêng ngả nguy hiểm.
* Khuynh nguy : có nghĩa là nghiêng đổ nguy hiểm. Lại nữa sách Nhĩ Nhã nói rằng : xà nóc đó gọi là Lương, chỉ xà lớn của mái nhà.
Sách Thuyết Văn giải thích rằng : Đống là chỗ chót vót của mái nhà, cũng là chỗ ở chính giữa (hai) mái, ví với việc cảm thụ là pháp sở trì. 
Bởi vậy Du Già quyển thứ 16, dẫn kinh tụng nói rằng :
Các sắc như đám bọt,
Thụ như bong bóng nổi,
Tưởng giống lửa mặt trời,
Hành giống tựa cây chuối,
Thức giống trò ảo thuật.
Đó là như ngài Nhật Thân đã nói : “Các hành nhất thời sinh ra và nhất thời trụ diệt”.
Kinh Vô Cấu Xưng cũng nói : “Sắc như đám bọt chẳng thể sờ mó thâu tóm. Thụ như bong bóng nổi chẳng thể trụ lâu. Tưởng như lửa mặt trời sinh ra từ khát ái. Hành như cây chuối đều không có thực. Thức như ảo thuật, điên đảo mà khởi lên”, đúng như sự giải thích trong Du Già Nhiếp Dị Môn Phần.
Nếu nói về sự biến dị chậm chạp của da thịt gân xương ghép với bốn câu này. Thì cớ sao ba cõi đều có, mà trong hai cõi trên lại chẳng có sự này ? Cớ sao ngọn lửa phiền não có khả năng thiêu đốt và căn nhà mà nó dựa vào lại ví dụ đủ cả ba cõi, tới khi nói ví dụ về Quả dị thục sở thiêu lại chỉ có ở trong nẻo người của cõi Dục giới ? Trong Lục dục thiên còn nói là không có cảnh da thịt hoại ấy, cho nên chỉ nên nói như trong này.
Thêm nữa, giải thích trong Hợp Dụ ở dưới để độ chúng sinh thì sinh lão bệnh tử phối trí với đây dường như đúng với thực tế, vì bốn tướng này khắp cả năm uẩn đều có.
Dưới nói lửa lớn nổi lên từ bốn mặt. Bốn mặt cứ theo kinh thì là bốn tướng. Như vậy thì trong này chỉ là bốn uẩn, hoặc là bệnh v.v…
Lấy pháp Dục giới để ví với dị tướng khổ quả ở cả ba cõi, để khiến họ phải chán cái khổ nhân phiền não. Ví chung ba cõi cũng chẳng trái lý. 
Tới trong tụng dưới sẽ nói rõ thật rọâng và đầy đủ.
*
-Kinh văn : “Khắp cả đều cùng một lúc” tới “thiêu cháy nhà cửa”. 
Tán rằng : đây chỉ là các phương tai hoạ khởi lên. 
- Khắp ở năm uẩn nên gọi là “khắp cả”.
- Cùng xảy ra một lúc, nên gọi là “đều cùng một lúc” (câu thời) . 
- Tự dưng mà có, nên gọi là “bỗng nhiên”.
- Phiền não tùy sinh, gọi là “lửa cháy”, khiến năm uẩn ấy có tình tạp nhiễm, tính bất tịnh khổ, tính vô thường vô ngã.
- Năm uẩn hoại khắp, nên gọi là “thiêu cháy nhà cửa”.
* Chữ [ ] đọc là Hốt, chỉ sự nổi lên bất thình lình. Sách Ngọc Thiên nói chữ [ ] cũng là chữ [ 忽 ] âm nghĩa như nhau. Thiên Thương Hiệt giải thích “Hốt” là khởi lên bất thình lình
Ở đây ý này nói rằng : duyên khắp năm uẩn, liên tục không có lúc khởi đầu, phiền não nảy sinh như thế đó. Bị phiền não gia tăng, bị phiền não trói buộc, nên cái thân năm uẩn thành ra bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã.
Thiêu chung và riêng, nên nói là thiêu cháy nhà cửa. Nhà (xá) nói đây là bao gồm hết tất cả nhà trên, nhà gác v.v… . Như nhân có nhà cửa mà sinh ra hỏa hoạn, như do hỏa hoạn mà nhà cửa bị hoại, hai thứ nhân vào nhau mà khởi lên, đan xen vào nhau lại càng thêm mạnh. Đó tức là nhân năm uẩn mà sinh ra các phiền não, lại nhân phiền nãotăng trưởng năm uẩn. Hai thứ nhân vào nhau mà có cũng giống như vậy. 
Hoặc là khắp cả sinh lão bệnh tử đều có phiền não, nên lấy làm dụ.
*
-Kinh văn : “Các con trưởng giả” tới “tại trong nhà này”. 
Tán rằng : đây là nói về các con chơi ở trong nhà. 
Tuy chúng sinh năm nẻo đều là con Phật, vì Phật coi các chúng sinh bình đẳng như nhau, yêu không thiên lệch. Song các dị sinh như con nuôi xin, nếu có tam thừa vô lậu chủng tử, thì có thể nối được ngôi cha. Chính sinh, trắc sinh mới gọi là con thật, nên chỉ nói ba mà chẳng nói bốn, năm.
Theo phẩm Hiền Thủ Kinh Hoa Nghiêm thì 10 dụ Bồ tát, 20 dụ Độc giác, 30 dụ Thanh văn, mỗi loại đều tu 10 loại pháp hạnh, được thu nhiếp bởi ba tuệ của thừa mình và 10 nghiệp đạo giúp vô lậu chủng thì mới được quả viên mãn. Nên nói là hoặc 10, 20 cho tới 30. Do có nhất tính (tức nhất thừa tính), nhị tính (tức nhị thừa tính), tam tính (tức tam thừa tính) có sự khác nhau, cho nên gọi là 10, 20 và 30.
Vì trong kinh này bị thoái tính, nên mỗi loại đều dựa vào thừa của mình mà tu 10 pháp hạnh giúp chủng tính của mình, nên đặt ra 10.
- Chủng tính năm nẻo trên thuận theo bản thức nên gọi là “trụ ở trong”. 
- Tam vô lậu chủng nương nhờ bản thức, nên gọi là “tại nhà này”.
*
-Kinh văn : “Trưởng giả thấy như thế” tới “liền rất kinh sợ”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ ba, là dụ nói về việc Phật thấy cảnh khổ của chúng sinh nên đặt ra phương tiện quyền nghi.
Trong đây có bốn ý :
1. Dụ về Phật thấy chúng sinh khổ, nên thương xót chúng sinh.
2. Dụ về chúng sinh rất không thích đại thừa. Đó là đoạn từ “Xá Lợi Phất ! Trưởng giả đó” trở xuống.
3. Dụ về Phật nghĩ phương tiện cứu giúp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ trưởng giả liền nghĩ rằng ….” trở xuống.
4. Dụ về Phật chính thuyết tam thừa. Đó là đoạn từ “Cha biết các con tâm vẫn đều có” trở xuống.
Thương xót chúng sinh : chỉ Phật xưa tại Bồ tát vị v.v… thời mười sáu vị vương tử. Nên đây trước nói : “từng ở chỗ hai vạn ức Phật mà giáo hóa cho các ngươi mãi”. Cũng là điều đã nói ở phẩm trước rằng : “Vì chúng sinh này mà khởi tâm đại bi” v.v … 
Tỏ ý rất không thích đại thừa : mười sáu vương tử đã được giáo hóa về đại thừa, nhưng họ nửa chừng thoái chuyển. Phẩm trước cũng nói : “trí tuệ mà ta được” cho tới “những loại như vậy làm sao độ được ?”. Đây trước cũng nói : “Xưa ta giáo hóa ngươi chí nguyện Phật đạo, nay ngươi đều quên”.
Nghĩ phương cứu giúp : thấy họ thoái rồi bèn nghĩ phương tiện cứu họ. Phẩm trước cũng nói : “nhớ lại Phật quá khứ” cho tới “cũng nên thuyết tam thừa”.
Chính thuyết tam thừa : giáo hóa những người gần gủi để đền ơn, khiến trụ nhị thừa. Phẩm trước cũng nói : “liền đến Ba La Nại” cho đến “có tên pháp tăng khác nhau”. Đây trước cũng nói : “Ta dùng phương tiện dẫn đạo ngươi, nên ngươi sinh trong pháp ta”, chính giống vị đó, chẳng những giống đây cùng là cùng tử. Tới dưới sẽ biết.
Đoạn văn đầu có hai ý : 
+ Đầu tiên nói về lòng từ bi thương xót chúng sinh.
+ Sau đó trình bày các sự đáng thương xót
Đây là phần đầu.
Lửa to : ví với phiền nãotùy phiền não
Bốn mặt : ví với năm uẩn đều có bốn vị: Sinh, Trụ, Dị, Diệt theo thứ tự trước sau.
Kinh A Hàm nói : Sinh là phương đông, Trụ là phương nam, Dị là phương tây, Diệt là phương bắc, vì ví mặt trời mọc lặn phối hợp với bốn phương, vì nhân bốn vị này mà sinh phiền não. Hoặc là Thân, Thu,ï Tâm, Pháp duyên khởi bốn đảo. Do bốn duyên sinh đảo này mà sinh ra hết thảy phiền nãotùy phiền não gồm căn bản, tự tính, đẳng lưu.
Rất kinh sợ : cha nhìn thấy lửa cháy sợ thiêu đốt con nên kinh hồn, ví với Phật thấy Hoặc khởi lên thì sợ sẽ tổn hại cho chúng sinh nên có ý thương xót.
*
-Kinh văn : “Mà nghĩ như vầy” tới “ý ra khỏi”. 
Tán rằng : đây trình bày về sự đáng xót thương. Ta tuy đã ra khỏi, nhưng các con thật đáng thương.
Cửa bị cháy : chỉ nhất thừa Giáo Hạnh, phần nhiều bị oán ghét phỉ báng, chẳng tin chướng nạn phá hoại, bị phiền não ngăn trở, đó gọi là “cửa bị cháy”.
Nên kinh dưới nói : Kinh Pháp Hoa này nhiều kẻ oán ghét. Ta xưa lúc còn ở địa vị tu hành Phật nhân, y vào nhất thừa giáo mà quán lý nhị không, tu hạnh nhị lợi, chứng nhị chân trí, xuất phân đoạn sinh, nhập bất thoái địa, gọi là ở chỗ cửa đang cháy mà thoát ra ngoài được an ổn, rồi thì cưỡi xe bảo thừa tới chốn đạo tràng. Thế mà các chúng sinh chốn chốn đều sinh chấp trước : chấp giới, chấp địa, chấp phần, chấp thừa. 
Do sự tham chấp đó mà phóng túng chơi bời, không hề suy nghĩ cân nhắc, dùng trí Tỷ lượng để nhận ra cái biết của trí Hiện lượng. Chẳng hề kinh ngạc nghi ngờ, cũng chẳng chán ngán lo sợ cái nhân của sinh tử là lửa phiền não hại thân. Quả khổ của sinh tử hiện đau đớn rồi, mà vẫn chưa hề có ý chán ghét sinh tử, chẳng cầu xuất thế, không có tâm chứng diệt. 
Cho nên phẩm trước nói rằng : “chẳng cầu đại thế Phật và pháp đoạn khổ. Chúng sinh như vậy rất đáng được xót thương”.
Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Ví như người chỉ có một đứa con, rất mực thương yêu. Bỗng có người tới chặt cắt chân tay thân thể của nó, cha hiền trông thấy vô cùng thương xót”. 
Chư Phật Bồ tát nếu thấy chúng sinh vì tạo ác nghiệp duyên, phiền não kết duyên phải sa vào ba đường ác, bị vô lượng khổ ; thấy sự ấy rồi thì liền đau lòng xót thương cũng giống như vậy.
Thêm nữa, Kinh Vô Cấu Xưng nói : “Ví như vị trưởng giả chỉ có một đứa con, đứa con ấy ốm thì cha mẹ cũng ốm”. Nay cũng như vậy.
*Chữ Hy : có âm đọc là phiên thiết của hai chữ Hứa Nghi. Có nghĩa là đẹp là vui chơi. Nay theo nghĩa vui chơi. Còn có âm là Hỷ, nghĩa như chữ Lạc (vui sướng, vui vẻ).
Thương Hiệt, Ngọc Thiên giải thích : Hí là cười. Sách Thuyết Văn viết là [ ] Hỷ, nghĩa là hỷ lạc (mừng vui).
“Thiết Kỷ” (hại đến bản thân, bức bách bản thân) : chữ Thiết có nghĩa là cắt, là bức bách, là gấp rút.
-Hỏi : kinh này nói rằng: “Ta tuy có thể ở cửa đang cháy này mà thoát ra ngoài được an ổn…”, nghĩa la trưởng giả ra trước các con. Cớ sao ở dưới lại nói rằng : “Ta cùng các con nếu chẳng thoát ra ngoài kịp thời…”, nghĩa là trưởng giả đồng thời cùng ra với các con ?
Đáp : văn dưới tự nói : “trưởng giả nghe xong, kinh sợ vào trong nhà lửa”. Trong phần hợp thuyết tự nói là Phật để làm lợi cho chúng sinh mà sinh vào nhà lửa cũ nát là tam giới.
Kinh Niết Bàn nói : “Ví như trưởng giả nhà ông bị cháy. Trưởng giả thấy rồi, đã từ trong nhà mà ra. Các con ở phía sau chưa thoát nạn cháy. Bấy giờ trưởng giả nhất định là đã biết tác hại của lửa. Song vì các con mà ông lại quay trở lại để cứu chúng mà chẳng quản tai nạn”. 
Chư Phật Bồ tát cũng giống như vậy, tuy biết rằng vòng sinh tử có nhiều tai họa. Song vì các chúng sinh mà các ngài ở trong vòng đó chẳng ngán. Bởi vậy mới gọi là bất khả tư nghị. Cho nên lại thị hiện là đi ra với con cùng một lúc, chứ thật sự thì Phật đã ra trước.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “đưa từ trong nhà ra”. 
Tán rằng : đây là mục thứ hai : thí dụ về chẳng trông mong được giáo hóa bằng đại thừa
Thí dụ này có bốn ý :
1. Đoạn này : nghĩ tới đại thừa quả hóa.
2. Đoạn từ “lại còn ngẫm nghĩ” trở xuống : nghĩ tới đại thừa nhân hóa.
3. Đoạntừ “nghĩ như vậy rồi” trở xuống : chỉ rõ đại thừa hành hóa.
4. Đoạn từ “cha tuy thương xót” trở xuống : không hy vọng được giáo hóa bằng đại thừa
Đây là phần đầu.
Trí tuệ như Phật gọi là quả đại thừa, vì là giáo sở thuyên, vì là Phật quả đức.
* Chữ [ ] theo Thuyết Văn về ý nghĩa có quan hệ đến quần áo, về âm đọc có liên quan đến âm Giới : tông miếu tấu giới nhạc. Theo sách Ngọc Thiên chữ này có âm đọc là Cải, có nghĩa là răn giới.
Các sách ngày nay giải thích rằng : chữ này có âm đọc là Cắc và có nghĩa là vạt áo. Cách giải thích này chẳng biết căn cứ vào đâu. Song ngày nay áo phụ nữ có cái Tiền giới [ 前 ] có thể dùng làm vạt, áo tiên nữ là thuộc loại đó.
Sách Quý Tiết cũng giải thích chữ này là vạt áo và cho biết âm đọc là Giới.
Án : tức là cái kỷ (một loại bàn).
Thân có lực : đó là nhị chân trí, vì Phật lấy trí làm thể.
Tay có lực : đó là chỉ sáu thần thông, vì đó là tác dụng bên ngoài. 
Phật nghĩ như vầy : “Ta có đầy đủ cả hai thắng đức này. Chúng sinh chủng tính nhị thừa không có ý muốn tu hành đại thừa để cầu ra khỏi nhà lửa, vậy ta phải : 
- Dùng trí tuệ như dùng cái án, mà trao ngay cho hạng chúng sinh trung căn, khiến cho họ giác ngộ viên mãn.
- Dùng thần thông ví như vạt áo, mà cứu cho hạng chúng sinh hạ căn khỏi mọi nỗi khổ, thúc ép họ ra khỏi căn nhà tam giớicứu độ họ”.
Vì hạng thượng căn Bồ tát có khả năng tu hành cái nhân nhất thừa để ra khỏi tam giới, như người con lớn kia tự mình có thể từ cửa nhà mà ra ngoài, cho nên ở đây chẳng nói đến. Nay ở đây chỉ nói đến việc giáo hóa cho hạng nhị thừa bất định tính. 
Hạng trung căn Độc giác không có khả năng tu hành cái nhân nhất thừa, chẳng nhờ thần lực của Phật, thì chỉ nên cho dựa vào tác dụng của trí tuệ Phật. Ví như đứa con giữa kia chẳng biết từ cửa mà ra, chẳng nhờ tay người, thì chỉ đưa cho nó cái kỷ, cái án, bảo nó tự leo lên mà ra khỏi nhà lửa.
Hạng hạ căn Thanh văn chẳng thể tu hành cái nhân của đại thừa, cũng chẳng thể dùng lực của trí tuệ Phật, thì nên cho họ thần thông. Ví như đứa con nhỏ kia chẳng thể từ cửa mà ra, chẳng thể leo lên kỷ án, thì phải lấy vạt áo bọc lấy nó mà đưa nó ra ngoài.
Cho nên phần hợp thuyết ở đây nói rằng : “Như Lai cũng lại giống như vậy, thậm chí có đại thần lựctrí tuệ lực, có đầy đủ phương tiện trí tuệ Ba la mật”. 
Cho nên biết rằng : thần thông ví như lực của tay, vì là tác dụng riêng biệt ở bên ngoài. Còn trí tuệ ví như lực của thân, vì là tác dụng chung ở bên trong. Dựa vào thân mà có tay, cũng như dựa vào trí tuệ mới khởi được thần thông.
Cho nên hạ văn phải y vào đây mà phối hợp, không cần theo thứ tự. Đây nói phương tiệntác dụng của hai lực vạt áo và kỷ án. Họ đã chẳng thể tu hạnh đại thừa, thì ta dùng hai lực này mà trao ngay cho họ giáo pháp nhị thừa, khiến họ ra khỏi cảnh khổ mà thành Đại giác. Họ đã chẳng thể tu hạnh đại thừa, vậy ta chỉ cần dùng hai phương tiện này mà cứu vớt họ, phải chăng
Đây là việc đời trước cũng là việc đời nay của Phật. Sau khi thành đạo rồi, Phật ngắm cây kinh hànhngẫm nghĩ về sự này trong tuần (bảy ngày) thứ ba.
*
-Kinh văn : “Lại còn ngẫm nghĩ” tới “nhưng lại hẹp nhỏ”. 
Tán rằng : dưới đây là ý thứ hai, nghĩ tới đại thừa nhân hóa. 
Trên nghĩ quả hóa đã chẳng thể được, nên phải dùng nhân hóa. Nhân hóa có ba ý :
1. Nghĩ rằng thoạt đầu chẳng thể dựa vào đại thừa giáo hạnh.
2. Nếu nảy sinh ra sự phỉ báng thì sẽ bị chìm đắm vướng vít trong đường ác.
3. Nghĩ cách chỉ rõ các nỗi khổ, ngầm thuyết đại thừa.
Đây là ý đầu. 
Căn nhà tam giới có hai loại sinh tử này, chỉ có một cửa chính đại thừa nằm ở giữa là chỗ để ra. 
- Bồ tát là bậc đại tính, nên đều đi lọt.
- Còn hạng nhị thừa, thì tính chất của họ đã lộ bày ra là chẳng thể y vào đại thừa giáoxuất ly. Nếu thuyết cho họ, thì họ cũng chẳng thể thực hành
Vì họ đi không lọt, nên gọi là nhỏ hẹp. 
Hạng Độc giác đi không lọt, nên nói là hẹp. 
Hạng Thanh văn đi không lọt, nên nói là nhỏ. 
Cũng ví như biển cả tuy rộng vô lượng nhưng chẳng chứa xác chết lâu, nên cũng gọi là hẹp. Nhất thừa nhân hạnh tuy rộng vô biên, nhưng chẳng dung nhị thừa hạnh, nên gọi là hẹp nhỏ.
*
-Kinh văn : “Các con ấu trĩ” tới “bị lửa thỉêu đốt” .
Tán rằng : đây là ý “Nếu nảy ra sự phỉ báng thì phải chìm đắm vướng vít trong con đường ác”.
Chúng sinh tuy có chủng tử xuất thế, nhưng chưa khởi hiện hạnh, nên vẫn gọi là ấu tiểu.
Trĩ : tức là tiểu (nhỏ) vậy.
Chưa có sở thức : có nghĩa là chưa khởi hiện trí để thông đạt Phật pháp đại thừa thâm diệu.
Họ còn luyến chấp tam giới. Nếu thuyết cho họ ngay về đại thừa thì do họ còn luyến chấp tam giới, họ lại sinh ra phỉ báng, lại càng khởi Hoặc nghiệp, hoặc sẽ đoạ lạc, mãi mãi chìm đắm trong chốn hoạn nạn. Nếu thuận hành thì họ sẽ ra khỏi được cái cảnh vì phỉ báng nên bị chìm đắm mãi mãi.
Vì là Bất định, nên nói là “hoặc là sẽ”.
Bị tổn hạiphiền não nên gọi là “bị lửa thiêu”.
Ý này nói rằng : nếu thuyết cho họ về nhất thừa ngay, thì họ vì đam mê chấp trước sinh tử nên sẽ phá pháp, chẳng tin, lại đọa vào đường ác.
Đây là sự đời trước. Đời nay cũng thế.
Cho nên phẩm Phương Tiện nói rằng :
“Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sinh chìm nơi khổ,
Không thể tin pháp đó.
Do phá pháp, không tin,
Đọa vào ba đường ác”.
*
-Kinh văn : “Ta sẽ thuyết cho” tới “bị thiêu hại”. 
Tán rằng : đây là nghĩ cách chỉ rõ các nỗi khổ, ngầm thuyết đại thừa.
* Chữ [為] có âm đọc là Vi, có nghĩa là phô bày, là thi hành. Còn đọc là Vị, có nghĩa là vì, là giúp cho. Người phương nam thường đọc thanh bình. Phô bày đây là phô trần sự tai hại. Người ở phương đây thường đọc thanh khứ.
Trước chỉ nói tai hại về lửa, giờ nhân đó mà nói “Những việc đáng sợ” : chỉ cho các nạn côn trùng, quỷ phức tạp, nhà cháy v.v…
Ngầm thuyết đại thừa : định thử khiến mau chóng xuất ly. Dẫu biết loại đó chẳng thể tin học Lý Hạnh đại thừa, nhưng để cho họ ngày nay chứng được cái nhân (của đại thừa) nên định ngầm thuyết cho họ.
*
-Kinh văn : “Nghĩ như vậy rồi” tới “các con ra mau”. 
Tán rằng : đây là ý thứ ba : chỉ rõ đại thừa hành hóa
Tức là điều trên kia đã nói rằng : “đời đời đã từng theo Phật thụ hóa”.
Cũng tức là câu trước kia đã nói rằng : “Ta xưa dạy ngươi chí nguyện đạo Phật, ngươi nay đều quên”.
Cũng là câu nói ở dưới, rằng : “mười sáu vương tử mới kết nhân duyên”. 
Nay trình bày về sự sinh tử rất là đáng sợ, đại thừa đáng được ưa thích, nên gọi là bảo ban cặn kẽ.
*
-Kinh văn : “Cha tuy thương xót” tới “chẳng chịu tín thụ”. 
Tán rằng : dưới là ý thứ tư : không có hy vọng dùng đại thừa để giáo hóa
Có hai ý nhỏ : 
- Đầu là chẳng hy vọng tin tưởng.
- Sau là chẳng kinh chẳng chán.
Đây là ý đầu.
Do đắm trước sinh tử, chẳng chịu tin học Lý đại thừa. Đây nói thoạt đầu mới nghe ngôn giáo đại thừa, chẳng thể y theo Lý Hạnh mà tu học, ngược lại còn lùi về vòng sinh tử, vì thế gọi là chẳng tín thụ
Thụ : có nghĩa là lĩnh nạp
Tín : nghĩa là chứng nhập
Chẳng thể y vào thực hànhchứng nhậpđại thừa, thì gọi là chẳng tín thụ. Chẳng phải hoàn toàn ngu về pháp, mà là vì lúc ban đầu còn thuận theo tập quán vậy.
*
-Kinh văn : “Chẳng kinh chẳng sợ” tới “chỉ chạy giởn nhìn cha mà thôi”. 
Tán rằng : đây nói về chẳng kinh chẳng chán. 
Kinh : ở đây có nghĩa là kinh ngạc, quái lạ.
Sợ : là sợ hãi
Chẳng kinh nhà bị hủy hoại, năm uẩn bị nguy bị khổ. Chẳng sợ lửa cháy, phiền não thiêu đốt. Không hề có tâm muốn khỏi cảnh khổ, hoặc hy vọng được thành Phật. Cũng không biết phiền não là lửa đốt thân, chẳng biết năm uẩn chính là căn nhà sinh tử. Chẳng hiểu rõ các nỗi khổ sở bức bách v.v… sẽ làm tổn hại mãi mãi cho thánh đạo, đó là điều tổn thất đối với bản thân mình.
Tổn thất : có nghĩa là bị phiền não não hại, bị khổ sở bức bách, gây tổn hại cho tác dụng của thánh đạo. Như vì lửa thiêu, nhà cửa bị hủy hoại, rồi bị tổn hại phiền não do mất của cải, cho nên gọi là “tổn thất”.
Chạy rống đông tây : đông ví với nẻo thiện, tây ví với nẻo ác. Hơn kém khác nhau, nên gọi là đông tây. 
Luân hồi năm nẻo, chìm đắm tứ sinh, dẫu được thấy Phật, được nghe pháp, nhưng không có ý cầu được thành Phật, nên nói là “chạy giởn nhìn cha mà thôi”.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trưởng giả” tới “được khỏi khổ này”.
Tán rằng : từ dưới đây là mục thứ ba : dụ về phương tiện cứu vớt, tế độ.
Ta cùng các con nếu chẳng thoát ra kịp thời : có người giải thích rằng vì chúng sinh bệnh nên Bồ tát cũng bệnh. Chúng sinh ra, nên Bồ tát cũng ra. Thực ra thì Bồ tát đã ra từ lâu, chứ chẳng phải hôm nay mới ra đồng thời cùng với con.
Giải thích đúng ý câu này, thì phải nói là Thích Ca hóa thân xuất gia, thành đạo, nhập Niết bàn, nay thân mới thị hiện ra khỏi nhà lửa. Các Thanh văn v.v… nay gặp Phật cũng mới xuất ly sinh tử ở thời nay tại đời Thích Ca, cho nên nói là “thời xuất” (ra kịp thời). Phật thực ra đã ra trước, cho nên trước mới nói là “Ta tuy ở đây, được thoát ra yên ổn.”
*
-Kinh văn : “Cha biết các con” tới “ắt ham thích chấp trước”. 
Tán rằng : văn dưới là mục thứ tư : dụ về chính thuyết tam thừa
Có hai ý : đầu là tri cơ, sau là chính thuyết.
Đây là ý đầu : biết rõ các con, tâm ai nấy đều có thị hiếu trước kia. Chủng tính tam thừa, tùy theo căn cơ mỗi người mỗi khác, pháp mà mỗi người nên nghe, đó tức là Các các vị nhân tất đàn.
Biết tâm trước kia : đó là cái biết của Căn thắng liệt trí lực và Giải thoát trí lực.
Biết các thứ châu báu đồ chơi mà mỗi người ưa thích : tức là các pháp công đức tùy theo tự quả của họ, cũng tức là cái biết của Biến thú hành trí lực
* Chữ Trân : có nghĩa như bảo (đều chỉ châu báu). 
Chữ Ngoạn [玩] : có nghĩa là nghịch, chơi đùa. Có bản viết Ngoạn [ 翫] ] : có nghĩa là quen lờn, là ưa thích, đó là chép sai.
Vượt hẳn hữu lậu thì gọi là vật kỳ dị. Hễ được, ắt quý báu, nên nói là ưa thích chấp trước.
-Hỏi : cớ sao cho tòa thành thì chẳng nói là thị hiếu trước kia ? Nay đây cho xe, lại nói là thị hiếu trước kia ?
Đáp : xe là Biến thú hành cơ học (các vị hữu học tùy theo căn cơtâm hành chạy khắp các nẻo), nên có thể nói là thị hiếu. Thành, chỉ là dừng khổ chẳng sinh, nên chẳng gọi là thị hiếu. Xe là tu sinh. Thành là tu hiển. Nên xe thì nói thị hiếu, thành thì không nói thị hiếu.
Thêm nữa, ảnh nổi rõ đều thích không sai. Biết họ muốn thoái chuyển tức là hiếu thành (ưa thích hóa thành).
-Hỏi : cớ sao xe lại nói đến châu báu kỳ lạ, mà thành thì không ?
Đáp : các tướng của đức hữu vi thì có thể phân biệt để biết, cũng như nói về xe thì có các tướng lạ khác nhau để chơi. Còn đức vô vi thì chỉ có một tướng chung, nên chỉ nói về hóa thành.
Thêm nữa, hai ý ấy không khác gì nhau vì trong thành nói là có cổng, lầu, nhà cửa, đó cũng tức là các thứ trân ngoạn rồi.
*
-Kinh văn : “Mà bảo các con rằng” tới “đều sẽ cho các con”. 
Tán rằng : đây là chính thuyết. Có ba ý : 
• Đầu tiên là bảo chung khiến các con lấy xe.
• Thứ nữa là chỉ riêng từng loại một trong ba xe. 
Cuối cùng là khuyên thẳng các con ra khỏi nhà lửa thì sẽ cho. 
Nếu chẳng theo lời dạy ra khỏi nhà lửa để chọn lấy tam quả (quả tam thừa), thì sau ắt sẽ đời đời kiếp kiếp bị chìm đắm trong vòng sinh tử, nên gọi là ưu sầu hối hận.
Đây là văn chỉ ý đầu tiên. 
Ba xe ở ngoài cửa, có thể lấy để rong chơi, đó là văn chỉ ý thứ hai. 
Do hình thể lớn bé có sự khác nhau, ăn cơm sẽ có kẻ ăn nhiều người ăn ít. Vượt sông, sông có chỗ nông chỗ sâu. Dùng sức, phải có sự mạnh yếu khác nhau. Cứ theo như thứ tự mà ví dụ để nói rõ căn tính về bẩm giáo, chứng Lý và Hành năng, có ba loại.
Hành năng : tức là đoạn Hoặc v.v… dùng công năng của trí lực
Thêm nữa, Dê phần nhiều bám người. Hươu phần nhiều ở yên tĩnh. Trâu đã có đủ hai công năng : mang vác, chuyên chở. Mỗi thứ đều căn cứ vào chỗ sở trường của chúng mà dùng làm ví dụ. Đây là ý thứ ba. 
Chỗ y chỉ có nơi huyên náo, có nơi tĩnh mịch. Hai loại xe dê, hươu chỉ có là có danh đặt ra, vì chẳng thấy, chẳng trèo lên.
Đó là chính lấy chủng trí của tiểu trung nhị thừa làm thể. Nếu lấy Niết bàn làm thể, thì phải tới hóa thành. Ở đây nói : đã nhập rồi thì trừ được mọi nỗi khổ. Cớ sao chẳng thấy xe mà các con lại không đòi bố ? 
Nếu lấy Sinh không vô lậu trínhị thừa chứng được làm thể của xe, như thế thì họ cũng đã lên rồi, vì sao lại nói là chẳng được ? Cho nên biết rằng, đó chỉ là vờ chỉ hữu lậu Hậu đắc trí tam muội thế giannhị thừa chứng được, gọi tên là chủng trí, gọi đó là thể của hai xe (dê và hươu), vì có tên mà chẳng thấy, cũng chẳng trèo lên mà đi chơi, chẳng thể phân biệt chứng được các pháp.
Thêm nữa, để tỏ rõ là họ có Niết bàn giả, nên nói là “đã nhập”. Ẩn ý là họ có Sinh không Bồ đề trí, nhưng chẳng thể phân biệt pháp, nên chẳng cho danh hiệu là xe, chẳng cho cái danh là “lên” xe, vì Hoặc khổ đã diệt nhưng Trí chướng chưa đoạn. 
Thiền định thế gian mà họ chứng được vờ chỉ đó là xe và gọi là được ra khỏi cửa, để khiến họ dần dần nhập đại thừa nhân, chứng đại Niết bàn vị.
Cho nên luận này nói rằng : đối vói hạng người thứ nhất (chỉ hạng Thanh văn), thì lấy các thứ thiện căn công đức tam muội thế gian làm phương tiện để khiến họ rong chơi, sau đó sẽ khiến họ nhập Niết bàn. Cho nên Giáo của tam thừa được gọi chung là “Môn” (cửa).
Lý vượt ra ngoài Giáo, nên gọi là môn ngoại. Thêm nữa, môn này là Hạnh của tam thừa nhân, mà Quả có mặt từ trong nhân, nên gọi là môn ngoại. 
Ở đây, nhất định lấy Phân biệt chủng trí làm thể của xe. Bởi vì kinh nhiều lần nói rằng : “Cuối cùng khiến được Nhất thiết chủng trí”.
Vừa là thừa (xe), lại vừa đại (lớn), nên gọi đó là nghĩa đại thừa.
-Hỏi : cớ sao phẩm Phương Tiện thì nêu rõ cả đôi đường : quyền và thực, lý và trí, nhân và quả. Còn ở đây thì hai vòng lý và trí, nhân và quả đều thuyết riêng từng thứ ?
Đáp : vì thừa có quyền thực. Thực có nhân quả. Quả có lý trí. Ba loại đó khác nhau. Chẳng biết quyền thực thì việc lựa chọn lấy hay bỏ chẳng thành. Chẳng biết quả nhân thì các pháp năng thú, sở thú chẳng thể xác lập. Chẳng thông về lý trí thì làm sao mà có được Bồ đề Niết bàn. Trí, Đoạn, chẳng viên mãn thì làm sao mà thành đạo viên mãn !
Bởi vậy vòng đầu giáo hóa về lợi ích, bằng cả đôi đường nói hết tông chỉ huyền diệu
Hạng trung căn thoạt nghe đã dần dần biết rõ quyền và thực. Việc lựa chọn thủ (lấy) xả (bỏ) tuy đã phân biệt tách bạch, nhưng chưa biết thủ nhân (cái nhân của lấy). Cho nên thuyết về ba xe là để khiến họ biết được Hạnh của nhất thừa.
Ẩn giác tịch ở trong quả, thuyết xe trí ở trong nhân, giấu lý thừa của nhân vị, khiến tu sinhchủng trí, vì lý thì dần dần giải ngộ, nhưng trí thì chưa thông suốt
Hạng hạ căn tuy nghe lại lần nữa về quyền thực cùng với Nhân trí, Quả lý nhưng vẫn còn mê muội. Lại phải nói rõ Lý có giả có chân, thuyết cho họ cái gốc để họ lựa lọc lấy bỏ. Ẩn trí phẩm ở trong quả, giấu song nghiêm ở nhân vị. Ứng cơ chẳng giống nhau, ba vòng hơi khác nhau.
Về nhân quả nhất thừa, thì thuyết một phần, hoặc thuyết đầy đủ. Về giác tịch trong quả, thì chỉ rõ đâu là viên mãn, đâu là còn thiếu. Về đại tuệ pháp thân, thì nói rõ đâu là đầy đủ, đâu là còn thiếu. 
Địa Trì luận nói có bốn xe. Đó là ba xe ở đây cộng thêm voi nữa, để ví với tứ Niết bàn.
Thừa ở đại tính, nên gọi là đại thừa. Chẳng phải là ví với tam trí
Trong Kinh Niết Bàn thuyết có hai xe. Ví như quốc vương cưỡi xe bốn ngựa. Muốn khiến xe lừa theo kịp thì không bao giờ được. Đây là lấy bán, mãn mà so với nhau, chứ chẳng phải là ba loại căn cơ vận dụng có sự phân biệt. Cũng chẳng trái nhau.
Kinh Ưu Bà Tắc nói về ba loài thú sang sông để ví dụ với cái lẽ : Lý đồng Chứng dị.
Trí Độ luận nói về ba con thú bị vây là để ví với chúng tam thừatrong vòng vây sinh tử, dùng lực để ra khỏi vòng vây, có lực lớn lực nhỏ. Lại nói về ba người đắc đạo là để ví với ba thừa chứng quả có sự rộng hẹp khác nhau, nhưng mỗi thừa căn cứ vào một nghĩa, cũng chẳng trái nhau
Các con hãy ra mau, tùy nghi sẽ cho các con : đó là đoạn văn thứ ba.
Nay ở đây tóm lược nêu ra năm điều vấn đáp như sau : 
1- Hỏi : trong trí có loại hư loại thực, ba loại xe đều gọi là xe. Trong lý có loại giả loại chân, lấy thành làm tên chỉ khắp cả ba loại. Cớ sao đại Niết bàn chẳng gọi là thành mà gọi là bảo sở ?
Đáp : vì chỗ nghỉ chân với nơi đầy đủ mọi đức có sự khác nhau. Chân diệt mới gọi là bảo sở. Xe vốn là thứ để vận chuyển tới quả, các thứ có khả năng vận chuyển thì đều gọi là xe. Thêm nữa đã nghỉ rồi thì sẽ cầu thêm cái khác. Cái sẽ cầu thêm ấy chẳng gọi là thành. Mọi thứ để vận tải đều gọi chung là xe, dù xa hay gần cũng là xe cả.
2- Hỏi : trí, là quả của việc tu học nhị thừa, chia làm hai loại dê, hươu. Vậy Diệt, là quả của việc tu học nhị thừa, cũng nên chia làm hai hóa thành ư ? 
Đáp : nơi nghỉ nói hai, đó là có hai thành. Đối thực, thuyết giả, nên gọi gộp là một.
Kinh Niết Bàn nói : người tu Thanh văn coi tiểu Niết bànBát Niết bàn. Người tu Duyên giác coi trung Niết bànBát Niết bàn.
Cho nên biết rằng chỗ nghỉ cũng nói là có hai thành. Nay, vì chướng sở đoạn giống nhau, lý Sinh không giống nhau, Giả trạch diệt giống nhau, do ba nghĩa này giống nhau, nên Hóa thành chỉ gọi là một.
Nếu xe Bồ đề căn tính lợi hay độn khác nhau, y vào Phật hay tự mình xuất khác nha ; dựa vào giáo hay quán về lý khác nhau; quán đế hay duyên khởi khác nhau; tứ quả hay nhất quả khác nhau; luyện căn, thời tiết khác nhau ; thuyết pháp, thần thông khác nhau, thì do bảy nghĩa này mà thuyết tách bạch thành dê và hươu vậy.
Thêm nữa, Vô vi không có sự phân biệt nên thuyết một thành. Hữu vi có sự phân biệt nên thuyết dê, hươu. Thuyết riêng Vô vi, nên chỉ nói một thành. Dùng trí mà nói rõ Diệt, thì có thể thuyết hai thành. Cũng chẳng trái nhau.
3- Hỏi : cớ sao hóa thành thì đặt ở đường hiểm, còn xe dùng để dẫn dụ thì nói là ở ngoài cửa (môn ngoại) ? 
Đáp : nghỉ ngơi khỏi khổ thì gọi làø Thành, đi hết nửa đường thì đặt ra Thành, ở giữa chừng. Thể của xe vô lậu lìa hệ phược, thì nói là ở ngoài cửa. 
Thêm nữa, phân đoạn tử không còn nữa, biến dịch tại Hóa thành giai đoạn ban đầu đã hết, Hóa thành ở giữa đường. Đặt ra Lý xuất ra từ giáo, quả xuất phát từ nhân, là hai xe, nên ở ngoài cửa. 
Thêm nữa, nhị tử là để nhằm làm rõ cái việc Hóa thành đặt giữa đường; nhất tử là để nhận rõ hai xe tại ngoài cửa, lý thực giống nhau.
4- Hỏi : cớ sao lúc cho xe thì nói là để rong chơi. Tới khi cho Thành thì nói là an tọa ?
Đáp : Niết bàn có thể chứng, nên Thành nói là an toạ. Bồ đề có thể sinh, nên nói là rong chơi. Vì hai quả vô vi, hữu vi khác nhau. Hơn nữa tướng của Thành ắt phải trụ, nên nói là an toạ. Tướng của xe là vận động, nên nói là rong chơi.
5- Hỏi : cớ sao nơi Hóa thành thì khuyên hãy vào trước. Nay thuyết lấy xe làm ví dụ thì lại bảo là phải ra mau ?
Đáp : đây là ý thứ ba : “khuyên thẳng các con ra khỏi nhà lửa thì sẽ cho, nếu ở trong đó sẽ bị nạn”.
- Hóa Phật thì ở trong sinh tử, vì vậy khuyên hãy vào trước. Nói rằng Chân Phật thì ở tại Quả, cho nên nói phải ra mau.
- Thêm nữa, vì khuyên hành nhân để chứng quả, nên khuyên vào trước. Trước trụ ở quả để chiêu mệnh, nên bắt phải ra. 
- Thêm nữa, khuyên con trụ ở thành, nên nói là vào trước. Bảo con lấy quả của cha, nên nói là ra mau.
- Thêm nữa, khuyên chứng Niết bàn bởi vậy nói là vào. Khiến sinh giác trí, bởi vậy nói là ra.
Cũng như gọi là Như Lai và cũng gọi là Thiện Thệ
Trụ nhân và trụ quả, điều mong mỏi có sự khác nhau vậy.
*
-Kinh văn : “Bấây giờ các con” tới “tranh nhau ra khỏi nhà lửa”. 
Tán rằng : dưới đây là ý thứ tư : dụ về nghe theo lời thì tránh khỏi tai nạn
Có hai ý nhỏ : 
- Ý đầu là con tránh khỏi tai nạn.
- Ý sau là cha bèn an tâm
Đây là ý đầu.
- Thích : vui thích. Vui thíchtam thừa khiến lòng ưa thích, cho nên gọi là thích nguyện. Tâm ai nấy đều hăm hở, dũng nhuệ, đó là tââm tinh tiến.
- Dũng : là tiến. Nhuệ : là lợi, có nghĩa là giỏi tinh tiến vậy. 
- Thúc đẩy lẫn nhau : đó là Thân tinh tiến, cũng là Ngữ tinh tiến
* Chữ “Bài” có nghĩa như suy, như nhượng. Chữ [ 推 ] ở phương đây đọc là Suy, không đọc là Thôi. 
Thân nghiệp thúc đẩy lẫn nhau và Ngữ nghiệp khuyến khích cổ vũ lẫn nhau thì gọi là Thúc đẩy lẫn nhau.
Đua nhau tu hạnh nghiệp thì gọi là Đua nhau chạy nhanh. Cùng mong khỏi khổ thì gọi là tranh nhau ra khỏi nhà (lửa).
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trưởng giả” tới “vui mừng phấn khởi”. 
Tán rằng : đây là ý “cha được yên lòng”.
Lìa tai thoát nạn thì gọi là yên ổn mà ra.
- Bốn đường thông cù (ngã tư đường) : chỉ lý Tứ đế, vì ba thừa đều cùng quán lý Tứ đế, vì trong Đại Bát Nhã nói bốn đường thông cù (ngã tư đường) là Tứ đế
- Lìa phiền não chướng, xuất phân đoạn sinh, không úng tắc thì gọi là Lộ. 
- Mỗi hạng đều có ngôi vị sở y quả mãn. thì gọi là Địa.
- Ở yên mà chứng bằng trí thì gọi là Tọa (ngồi).
- Ở phân đoạn sinh tử : phải là Khổ, Hoặc, Nghiệp của năm uẩn đều hết, hoặc là bị đoạn trừ, hoặc là bị điều phục
- Lìa ba chướng nên gọi là không chướng ngại
- Đúng với bản ý của cha, nên thư thái.
- Thấy con vượt khỏi nỗi nguy hiểm, nên hoan hỉ
- Người nhị thừa đắc A la hán, đoạn các phiền não, trụ ở Hữu dư y Niết bàn. Người đại thừa đã nhập Sơ địa, đắc Vô trụ xứ Niết bàn, điều phục được các phiền não, lìa phân đoạn tử, gọi là ngồi chỗ đất trống, không còn chướng ngại.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ các …” tới “xin liền ban cho”. 
Tán rằng : trên dụ xưa quyền, dưới dụ nay thực. 
Có hai ý : 
- Đầu tiên ví với việc truyền thụ thực thừa.
- Sau đó giải thích những điều nghi vấn. Dưới là vấn đáp
Phần đầu có bốn ý : 
1. Các con xin ba thứ, 
2. Cha chỉ cho một, 
3. Giải thích chí cha đã thành,
4. Vượt bản tâm của con. 
Đây là phần đầu. 
* “Ngoạn”: là chơi đùa. Chữ [ 好] ở đây hoặc đọc là Hiếu, có nghĩa yêu thích, ưa chuộng, hoặc đọc là Hảo : tốt, đẹp. 
Tùy theo căn cơ của ba thừa, mỗi thừa đều ở nơi Phật, chuyên ý mong cầu Diệu trí của thừa mà mình đang theo, nghĩa giống như các con mỗi đứa đều xin cha cho một thứ xe. 
Người nhị thừa lìa phân đoạn tử, đã được giải thoát, chứng được Tứ đế, đã nhập hóa thành rồi, đó gọi là xuất trạch (ra khỏi nhà lửa). Chuyên ở nơi Phật, mà văn, tư, tu tập chủng trí, liễu đạt, cầu chứng các pháp, gọi là đòi (xe) dê, (xe) hươu.
Người tu hạnh Bồ tát, theo bản luận này thì từ Sơ địa trở lên tuy lìa phân đoạn (tử), nhưng chưa chứng giải thoát, nên chẳng gọi là Nhập thành (vào thành). Chẳng mệt mỏi, nên chẳng nhập Hữu dư Niết bàn. Bởi vậy chẳng nói Bồ tát nhập hóa thành.
Nhập Vô trụ Niết bàn cũng là diệt phân đoạn tử. Dẫu gọi là Nhập thành cũng chẳng trái với lẽ thông thường. Nếu thế thì cũng nên cho phép lên xe dê, xe hươu. 
Cho nên biết rằng : chỉ giải thích như cách đầu tiên mới là hay. Đã điều phục phiền não, xuất ly phân đoạn tử, lại cũng chứng được Tứ đế thì gọi là ra khỏi nhà (lửa), ngồi ở ngã tư đường. 
Cầu diệu trí Phật cũng gọi là đòi xin cha cho xe trâu kia.
1- Hỏi : ba con đều xuất ly phân đoạn tử, mà sao riêng nhị thừa gọi là “Nhập thành”, đại tử (vừa chỉ con lớn, vừa chỉ người tu đại thừa) cũng nói là “xuất khổ”, thế thì cũng được gọi là “Nhập thành” chứ ?
Đáp : không mệt mỏi ngán khổ, cho nên đại tử chẳng Nhập thành. Đoạn Hoặc, lìa phân đoạn tử cũng được gọi là “xuất trạch”. Nếu thích Nhập thành thì cũng chẳng khó gì.
2- Hỏi : nếu đại tử đó chẳng nhập thành, cớ sao đại tử lên xe chẳng nhập thành, hai con trung, tiểu (chỉ Duyên giác, Thanh văn) nhập thành chẳng lên 
xe ?
Đáp : ngán khổ, cầu được nghỉ ngơi, Trung Tiểu nhập thành. Đại tử chẳng ngán khổ, nên chẳng gọi là “nhập chỗ nghỉ”. Nói có hai loại con nhập thành, đó là để chứng tỏ Đại tử chẳng nhập thành.
3- Hỏi : ngoài cửa có xe, xe có ba loại, giữa đường đặt ra Hóa thành, vì nhân duyên gì mà chỉ nói có hai thành ? 
Đáp : hai xe đối với nhân duyên đại thừa, đặt ra ba xe ở ngoài cửa; thành Quyền đối với quả Thực, đặt ra Hóa thành ở giữa đường. Lý thì giống nhau, sở đối khác nhau. Thi thiết tuy chẳng giống nhau, nhưng thực ra là một.
Thêm nữa, vì họ không có chủng trí, nên khuyên họ học đại thừa, ngoài cửa đặt ba xe.
Hữu dư Niết bàn, đại thừa chẳng cầu, đặt ra hai thành ở giữa đường. Nếu nhập Vô trụ Niết bàn thì chẳng gọi là giả, vì chẳng phải là Hóa thành
4- Hỏi : ba xe đều đòi, thể hiện lòng mong muốn học được trí tuệ viên mãn. Chẳng mong Nhị diệt, hẳn là chẳng cầu diệt khổ ?
Đáp : đắc quả tự nhiên chứng diệt, nhập thành chẳng thích mong cầu. Diệu trí ắt phải nhờ vào sự tu luyện thêm để “xuất trạch”. Cho nên xe cần phải đòi.
Thêm nữa, ở địa vị Tiểu thừa, đến được hóa thành rồi nên chẳng cần đòi. Chưa được chủng trí, bởi vậy phải đòi xe. Nếu giải thích như thế, thì nhị thừa nhập hóa thành chưa được xe nên phải đòi, Bồ tát chẳng nhập thành thì cũng cần đòi Bảo sở. Nghĩa này có thể đúng. Đại thừa đi đến Bảo sở, lẽ ra cũng cần đòi. Đối hóa thành mà chẳng đòi, bởi vậy chẳng bàn vì mỗi loại có yêu cầu riêng, đó tức là đòi vậy.
Kinh văn chỉ nói cha khuyên bảo khiến rời bỏ, đủ biết là các chúng sinh chẳng mời bạn.
Xưa tương truyền rằng : thành là thực hóa diệt khổ, bởi vậy chẳng đòi, xe là chỉ vờ, bởi vậy phải đòi. 
Nếu giải thích như vậy thì xe tách rời thành mà có riêng. Đòi với không đòi, nghĩa khác thể xe. Cách giải thích xưa có nghĩa thì thành, hóa thành cũng giống như xe đều cần phải đòi hỏi tìm tòi
Lại có cách giải thích rằng : xe để phát sơ cơ, nên là chỉ vờ; thành để đề phòng nửa đường thoái chuyển, nên là thực hóa
Đây thì chẳng thế. 
Vì sao ? Vì lúc sơ cơ đòi xe thì đã “xuất trạch” rồi. Hơn nữa, thể chẳng khác nhau, thì hư hay thực có gì mà khác nhau ? Nên giải thích thể của xe của thành là pháp gì ? 
Lại có cách giải thích rằng : thành cũng nên tìm, hóa chẳng một đường, bởi vậy chẳng thuyết, cho rằng kinh phần sau nói rằng : “Bấy giờ đạo sư biết bọn người này đã được nghỉ ngơi, không còn mệt mỏi, đã có thể tiến lên phía trước”, tức là tìm thành. Đây chính là tìm bảo sở, chẳng phải tìm thành. Tuy dẫn đoạn văn này, nhưng rốt cuộc nghĩa vẫn khó hiểu, nên nghiên cứu kỹ.
Nên nói rằng : theo như đoạn văn dưới, biết họ mệt mỏi uể oải, nên vì họ mà biến ra hóa thành, đó tức là đòi hỏi tìm kiếm vậy.
Hoặc giải : xe là ví với vô dư Niết bàn, trụ quả chưa được, nên phải đòi hỏi. Thành ví với hữu dư Niết bàntrụ quả đã được, nên chẳng đòi. Nếu thế thì Bồ tát nay đã tìm xe, lẽ ra cũng là đã được hữu dư, chưa được vô dư
Cầu vô dư, cho nên gọi là đòi hỏi tìm kiếm (Sách). Vô dư của nhị thừa, tùy theo sự nhậm vận nhất định sẽ được, cần gì phải tu tập đòi hỏi. 
Cho nên chỉ nên như nghĩa trước. Niết bàn nói đây, nhị thừa không có gì khác biệt, cho nên xe dê, xe hươu lẽ ra là không có.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất” tới “một xe lớn”. 
Tán rằng : đoạn văn này nói chỉ cho một xe. 
Có bốn ý : 
1. Nêu việc cho xe.
2. Thuyết minh các thứ trang sức.
3. Nói rõ tướng trâu. 
4. Nói rõ về những thứ tùy tùng.
Đây là phần đầu. 
Quả Phật, được ví như xe trâu, lấy Nhất thiết chủng trí trong tứ trí làm tính, tức Hậu đắc trí. Vì xe lấy Chủng trí trong hai trí Diệu quan sát trí, Bình đẳng tính trí làm thể. 
Tuy năm trí tuệ, đều là nhất thừa, nay đây chỉ lấy Chủng trí trong Bồ đề tướng làm thể.
Nhất thiết trí rộng hẹp dẫu có sự khác nhau, nhưng ba thừa đều có loại đó của họ. Còn trí phân biệt Tứ đế, mỗi thừa đều có vô lượng tướng. 
Chẳng phải là điều mà nhị thừa biết được, thì gọi là Bất cộng đức. 
Cho nên kinh nhiều lần nói rằng “cuối cùng khiến được Nhất thiết chủng trí”. 
Vô phân biệt trí dẫn dắt loại xe Chủng trí này, nghĩa giống như xe trâu nói trên, chứ chẳng phải là thể chủ yếu của xe.
Như Biểu và Vô biểu, tuy đều là giới, nhưng tương tục từ lúc thụ giới theo Tăng cho đến lúc trì giới sau này, chỉ là Vô biểu giới. Biểu giới thì chẳng tương tục, mà chỉ xuất hiện lúc làm lễ, nhờ tác bạch Tứ yết ma hòa hợp mà được, vì lúc khất giới từ Tăng là đã được Biểu rồi. Biểu dẫu là gốc, nhưng chỉ lấy Vô biểu, gọi là Trì phạm giới.
Xe này cũng thế. Một đại sự trước tuy lấy Lý trí làm gốc, nhưng Bản trí, Hậu trí đều là nhất thừa. Nay chỉ lấy Hậu trí gọi là xe, Bản trí gọi là trâu, chẳng nói rằng coi Lý là thể của xe. 
Sau trong hóa thành lấy Chân đối đãi với Hóa, mới thuyết Giả trạch diệt, coi đó là hóa thành, thuyết đại Niết bàn chân như diệu lý mà gọi là bảo sở. Mỗi thứ đều chiếm một nghĩa gọi là nhất thừa, sự thừa, lý thừa, hữu vi thừa, vô vi thừa khác nhau, cho nên thể của xe dê, xe hươu đã phân tích như trên.
Thể xe đã vậy, thì muôn đức khác đều thuộc loại trang nghiêm
Nếu nói như Kinh Niết Bàn và Kinh Thắng Man: “Chỉ lấy chân như làm thể của xe”, thì cớ sao đều cho các con một xe, hơn nữa làm sao lại nói là có tướng trang nghiêm, công đức khác nhau ? Làm sao xe trâu lại phóng nhanh như gió ? Làm sao lại có thể nói rằng “Ta có xe lớn thất bảo như vầy, số xe vô lượng, nên dụng tâm bình đẳng mà đều cho chúng nó, con nào cũng được cho cả”.
Song tiểu tử, trung tử cũng đã ra khỏi cửa rồi, tuy chưa được xe trâu, nhưng thuyết đại giáo cho chúng, có người nhất định sẽ được, nên gọi đó là “cho”. Chẳng phải là ngay lúc đó đã được cái thể của trí sở thuyên, ví như cho minh châu chưa đắc thể. Cho nên ba loại Ý sinh thân trong Kinh Thắng Man v.v… tức là ba (loại) con vậy. 
Kinh này thuyết Sơ địa gọi là Bất thoái địa, còn thuyết về đốn ngộ, về nhân hành đại thừa từ lúc sơ phát tâm tuy cũng là xe, nay lấy nhân hành Bất thoái từ Bát địa trở đi, còn Thất địa trở về trước vẫn còn có phân đoạn (sinh tử). 
Cho nên kinh phần sau nói : Thanh văn, Duyên giácBồ tát bất thoái nhờ bảo thừa này thẳng tới đạo tràng
Phẩm Phương Tiện giải thích “Nhập” tức là Bất thoái chuyển địa. 
Nay theo cách giải thích trước từ Sơ địa trở lên lìa phân đoạn tử thì gọi là Bất thoái địa cưỡi nhất thừa.
Kinh Lăng Già gọi từ Sơ địa này trở lên là “ba loại Ý sinh thân”.
*
-Kinh văn : “Xe ấy cao rộng” tới “bốn mặt treo chuông nhỏ”. 
Tán rằng : dưới là thuyết minh về các thứ tu sức trang nghiêm
Có mười thứ. Ở đoạn này có bốn : 
1. Hình lượng. 3. Nhiếp ngự. 
2. Nghiêm sức. 4. Chuông đeo.
- Cao rộng : là chỉ hình lượng. Ví với Phật chủng trí, thể thì cao tột ba cõi, dụng thì rộng khắp mười phương, chiếu hóa được khắp cả pháp giới.
- Các báu trang nghiêm : đó là chỉ nghiêm sức, vì do phương đức tạo thành mà trí là gốc.
- Lan can bao quanh : đó là chỉ sự nhiếp ngự : phòng ngự ở ngoài chẳng cho vào, nhiếp thu ở trong chẳng cho ra. Đó tức là Bốn tổng trì, phòng ngự các điều ác chẳng cho nảy sinh, nhiếp thu các điều thiện chẳng để tan mất.
- Bốn mặt treo chuông : chỉ lục lạc treo. Ý nói dùng Thất biện để rộng độ khắp cả tứ sinh.
*
-Kinh văn : “Thêm nữa ở trên” tới “mà nghiêm sức nó”. 
Tán rằng : đây có hai thứ nghiêm sức
5. Che cao. 6. Các thứ trang trí.
Giương mui căng màn, đó là che cao vậy.
Các thứ nghiêm sức hợp lại, đó là chỉ các thứ trang trí. Dùng Tứ vô lượng tâmche chở khắp quần sinh, ví như mui xe, màn treo ở cửa xe. Từ, Bi, Hỉ, Xả mỗi thứ Vô lượng tâm này có đủ các thứ tâm hành thuộc về Hữu tình duyên, Pháp duyênVô duyên, giúp cho việc nghiêm sức.
*
-Kinh văn : “Thừng báu dây chằng” tới “gối đỏ đặt êm”. 
Tán rằng : đây có bốn loại nghiêm sức, đó là các loại
7. Dây chằng. 9. Đệm trải. 
8. Tua rủ. 10. Gối êm. 
- Dây chằng, đó là bốn nguyện lớn. 
Mọi việc tu hành đều phát bốn nguyện lớn :
1) Nguyện đem thiện căn này cùng chung với chúng sinh, kẻ chưa lìa khổ, nguyẹân khiến lìa khổ.
2) Kẻ chưa được sướng, nguyện khiến được sướng. 
3) Kẻ chưa phát tâm Bồ đề bỏ ác tu thiện, nguyện khiến phát tâm Bồ đề bỏ ác tu thiện
4) Kẻ chưa thành Phật, nguyện cho sớm thành Phật.
- Nguyện, ví như thừng báu dây chằng, hướng dẫn các hành khiến sẽ đắc quả, được tâm quyết định thù thắng, nên tà kiến bạo phong chẳng thể khuynh tổn. 
Thêm nữa, Kinh Thắng Man nói : “Nhiếp thụ chính phápnhiếp thụ mọi nguyện”. 
Kinh Du Già v.v… nói : “Nói chung có hai nguyện : nguyện cầu Bồ đề, nguyện lợi lạc cho người khác”. 
- Rủ các tua hoa : đó là tua rủ, tức là Tứ nhiếp rủ lòng nhiếp thụ bốn loại chúng sinh :
1. Bố thí. 3. Lợi hành. 
2. Ái ngữ. 4. Đồng sự
* Chữ [ 華 ] có hai âm Hoa và Họa. Dùng hoa để làm giây tua. Hoặc giây tua trang trí hoa mỹ.
- Trải nhiều đệm trải đẹp, đó là nói về đệm trải.
* “Phô” : có nghĩa là trần thiết, ở đây nghĩa là “trải”.
[ 婉 筵 ] Uyển diên (chiếu đẹp), có bản viết là [ ] . 
Theo Tự Lâm, chữ [ ] đọc là phiên thiết của Nhất Viễn. Theo Ngọc Thiên : nghĩa như chữ [ 紘] Hoành. Chữ Hoành này có nghĩa là mũ. Nay chữ này phải là chữ [ 婉 ] có nghĩa là văn vẻ đẹp đẽ. Chữ [ ] nếu chỉ có chiếu nệm thì phải viết là [ 筵 ] (Diên). Sách Thiết Vận nói chữ [ ] (Diên): chỉ bộ phận che đỉnh mũ. Theo sách Ngọc Thiên : bộ phận rủ xuống ở phía trước phía sau mũ thì gọi là [ ] (Diên). Nay có nghĩa là nệm đẹp có hoa văn, như các loại chiếu hoa đẹp đẽ dùng làm nệm. Chẳng biết lấy từ đâu. Cho nên về tự diện, nên viết là [ 婉 筵]. 
Xưa kia có cách giải thích nói : Tĩnh lự là nệm đẹp, vì tâm thường an xử, vì Tứ thiền trên dưới khác nhau, nên (ví với nệm trải mà) nói là “Trùng phô” (trải nhiều lớp). Lý này chẳng đúng.
Kinh Vô Cấu Xưng nói : “Tứ tĩnh lự là giường, tịnh mệnh là nệm”. Thân ngữ ý nghiệp đều không tham, phát tâm hằng du xử, thường hành tịnh mệnh, lìa năm tà mệnh, ba nghiệp đều như thế thì gọi là “Trùng phô”.
- Đặt gối đỏ êm, đó là gối êm. Xưa giải thích đó là Niết bàn có thể dứt được sinh tử. Nay giải thích Diệt định có thể dứt được phan duyên, nhờ vậy mà khỏi mệt nên gọi là “gối êm”. Gối đã đặt trên xe, chứng tỏ chẳng phải là Niết bàn, chỉ lấy nghĩa Diệt định
Gối có tiên đan, gối vào sẽ tăng tuổi thọ nên gọi là Đan Chẩm. Vô lậu Diệt định cũng giống như thế, vì tăng thánh đạo. Lý này chẳng đúng, vì Tây vực không có loại này.
- Đan Chẩm : ở đây chỉ gối màu đỏ, ruột gối làm bằng bông nhồi, ngoài là áo gối màu đỏ, nên gọi là Đan Chẩm. 
Còn có cách giải thích nói rằng : Thể (gối) tức là ngũ căn gồm Vô lậu, Tín v.v… , phù trì thánh đạo, giống như gối vậy.
*
-Kinh văn : “Kéo bằng trâu trắng” tới “chạy nhanh như gió”. 
Tán rằng : đây là nói rõ trâu có bảy đức tướng : 
(1) Trâu trắng, vì thể tức là Căn bản Vô phân biệt trí dẫn dắt xe Chủng trí, ví như trâu kéo xe. Trắng là gốc của các màu, như hoa sen trắng tiêu biểu cho gốc của các thừa trong kinh, vì là chủ của muôn đức. 
Trâu chúa có ba đức :
1. Đức hàng oán, vì có thể trừ được hai chướng. 
2. Đức đoan nghiêm, vì nhiều đức trang nghiêm.
3. Đức vận tải, vì tế độ tự tha.
Cho nên ví với trâu mà chẳng ví với ngựa, voi. 
Xe ngựa như đại thừa hay tốt, chẳng như xe lừa tiểu thừa trì đọân.
Kinh Niết Bàn nói : Dùng ngựa kéo xe là để tượng trưng cho hình đức lớn so với trâu, hươu, dê hình đức nhỏ, vì vô trụ Niết bàntối thắng. Do đó, Kinh Thiện Giới nói : “dùng voi kéo xe”. 
Nay dùng trâu, vì trâu có ba đức, nên xe đại thừa kéo bằng trâu trắng. 
(2) Đẫy đà, vì trong Chính trí thì nội đức viên mãn.
(3) Sắc sạch, vì ba chướng hết hẳn, giới đức đầy đủ
(4) Hình thể thù hảo : thân hình đẹp đẽ.
* Theo Tự Lâm, chữ Thù nghĩa như Hảo (đẹp) Tiếng địa phương ở vùng Triệu, Ngụy, Yên, Đại gọi Hảo là Thù (đều có nghĩa là đẹp).
Kinh Thi có câu : “Tĩnh nữ kỳ thu”ø (người con gái dịu dàng mới xinh đẹp làm sao). 
Chữ [ 好] ở đây đọc là Hảo, có nghĩa là xinh đẹp, tốt. Vì tướng hảo đầy đặn sáng sủa, người và trời đều yêu kính.
(5) Có cân lực lớn :
1/ Dong ruổi khắp mọi nơi. Trí lực viên mãn thâu khắp hết cả mọi lẽ.
2/ Xông pha vào chốn nguy hiểm chẳng biết mệt mỏi, có khả năng hóa độ được mười phương, vào chốn nguy hiểm sinh tử, không biết mệt mỏi
3/ Gặp kẻ thù oán, ắt thắng, vì phá được mọi chướng, hàng phục được sinh tử
Có ba nghĩa ấy, nên gọi là đại cân lực. 
(6) Bước đi chững chạc, vì hai lý đều chứng, dẫn đến được Hậu trí, oán thân không hai (đều coi như nhau, không phân biệt). 
(7) Phóng nhanh như gió, vì chính trí thể tính trong một sát na duyên khắp pháp giới, do đức đại bi, trong thì mọi đức viên mãn, ngoài thì hóa độ chúng sinh, không chậm trễ trì trệ. Vì từ Sơ địa trở lên có thể tiến nhanh tu quán Không, quán Hữu chẳng nấn ná. Tính tuy nhanh nhẹn lanh lợi, nhưng sự tướng thì ung dung.
Bảy đức trên không phải là cái dụng căn bản của chính trí, nhưng do nó mà có, nên được gọi tên đó.
*
-Kinh văn : “Lại có nhiều tôi tớ tùy tùng để hầu hạ bảo vệ”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về tôi tớ theo hầu.
Lấy hai trí làm đầu muôn hạnh, thần thông, lục độ, tứ nhiếp, giác phần, giải thoát khỏi phiền não, các pháp lợi sinh đều theo đó mà khởi lên, gọi là “nhiều tôi tớ tùy tòng”.
Kinh Phật Địa nói : ‘Phật có vô lượng Trời, Rồng, Dược xoa, Người, loài Phi nhân v.v… thường theo bảo vệ, cũng gọi là bộc tòng”. 
Có chỗ giải thích thể của xe chỉ là Đại bát Niết bàn. Ngoài ra các thứ khác chỉ là đồ trang sức như là Tính công đức, hoặc là Tướng công đức. Bởi vì thể của xe trâu là hai Trí kéo xe, cho nên cách giải thích này như trên đã nói, là sai.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao?” tới “thảy đều dồi dào”. 
Tán rằng : dưới đây là phần thứ ba, là giải thích sự hoàn thành chí hướng của cha. Có ba ý :
1. Nêu sự giầu có.
2. Ý niệm bình quân. 
3. Giải thích nguyên nhân
Đây là phần đầu. 
Sung mãn : có nghĩa là tràn trề, dồi dào. Đủ các tạng hữu vi, vô vi. Thể có khả năng chứa đựng nghĩa, hoặc là hai tạng, ba tạng giáo có thể chứa được Lý. 
Nay lấy sở tàng để cấp cho các con.
*
-Kinh văn : “Mà nghĩ như vầy” tới “chẳng nên khác biệt” 
Tán rằng : đây là ý niệm bình quân. 
Có hai ý : đầu tiên chẳng nên cho Tiểu, sau là đều nên cho Đại. 
- Nay đứa nhỏ này : là giả tưởng niệm. 
- Vô cực : có nghĩa là vô cùng cực.
- Thuyết hai loại trí gọi là xe tồi. 
- Do có chủng tính, phát đại tâm trước, gọi là trẻ nhỏ. 
- Có thể làm Phật được nên gọi là con ta.
- Bi tâm bất nhị, gọi là yêu không thiên lệch
- Nghiêm sức bằng thất thánh tài, gọi là xe thất bảo
- Mỗi người tự tu trí tuệ viên mãn, Hữu vi trí chẳng phải chỉ có một, gọi là số đó vô lượng.
- Ý muốn bình đẳng, tùy theo căn cơ mà trao cho, gọi là ai nấy đều cho. 
Cho khắp đại thừa, chẳng nên khác biệt.
* Chữ [ 童 ] đọc là Đồng, nay gọi là Đồng tử. Xưa gọi là Bộc. Xưa viết là [ 僮 ] . Nay gọi là Bộc Lệ (tôi tớ). Sách Ngọc Thiên nói: “Ấu đồng” là từ để gọi kẻ còn u mê và chưa tới tuổi đội mũ (tức chưa tới 20 tuổi).
*
-Kinh văn : “Nguyên nhân vì sao ?” tới “huống chi các con”.
Tán rằng : đây là giải thích nguyên nhân.
Quỹ phạp : có nghĩa như “tận”, tức là hết, cạn kiệt.
Đem nhất thừa này giả sử cho khắp tất cả chúng sinh năm đường, gồm cả hữu tính lẫn vô tính, định tính lẫn bất định tính của một nước Phật cũng vẫn chẳng hết, huống chi là chỉ cho loại có đại thừa tính và loại Bất định chủng tính là con thật của Phật mà lại sợ chẳng đủ ư ?
*
-Kinh văn : “Bấy giờ các con” tới “chẳng phải là điều vốán mong ước”.
Tán rằng : đây là phần thứ tư : vượt mong muốn xưa nay của con. 
Đã nói các thừa thì biết rõ là ai nấy tự được chủng trí, chẳng giống với hóa thành, mọi người cùng vào.
*
Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “hư vọng 
chăng ? ”. 
Tán rằng : dụ trên thuyết thực, dụ dưới giải thích những điều nghi vấn
Tức là quyển trên nói rằng : “Các ngươi nên tín giải những điều Phật thuyết, lời chẳng hư vọng.” 
Chỉ vì chúng nhân ngờ rằng : “đầu tiên Phật thuyết tam (thừa), sau chỉ thuyết nhất (thừa), trước sau khác nhau, thế thì tại sao Phật lại chẳng thành người vọng ngữ ?”. Cho nên ở đây phải giải thích điều đó. 
Trong văn có ba ý : 1. Hỏi, 2. Đáp, 3. Ấn chứng
Đây tức là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “chẳng phải là hư vọng”.
Tán rằng : dưới là phần giải đáp, có hai ý : đầu tiên là nêu lên, sau đó là giải thích
Đây là phần nêu.
- Phàm phu lìa dục, điều phục được phiền não thì gọi là tránh khỏi nạn lửa. 
- Lìa nạn cực khổ bức bách của các nẻo trong tam giới thì gọi là bảo toàn thân mệnh. 
Vì chưa tránh khỏi cõi người cõi trời, như đang ở nhà lửa, mà toàn được thân mệnh.
* “Miễn” âm đọc là Miễn, có nghĩa là truất bỏ. Sách Ngọc Thiên giải thích là “Xá”, “Thoát”, “Giải”, “Khử”. Nay theo Ngọc Thiên.
*
-Kinh văn : “Vì sao ?” tới “mà cứu giúp họ”. 
Tán rằng : dưới là giải thích, có hai ý : 
1) Tránh được tai nạn, đó chẳng phải là hư vọng
2) Huống hồ lại còn cho đại thừa
Đây là phần đầu : chỉ riêng việc bảo toàn được thân mệnh, thoát ra khỏi ba đường ác, sinh trong cõi người, cõi trời, đã (là) gặp châu báu rồi, huống hồ lại tránh khỏi hoạn nạn, được cứu vớt ra khỏi ngôi nhà lửa tam giới của người, trời.
*
-Kinh văn : “Thế tôn” tới “không hư vọng này”. 
Tán rằng : dưới đây là huống hồ còn cho đại thừa
Có hai ý : 
- Ý đầu là chẳng đắc Tiểu, cũng chẳng phải là hư vọng, vì chẳng trái với ý trước. 
- Ý sau là huống hồ lại được đại thừa mà thành lỗi hư vọng sao ? 
Đây là phần đầu. 
Thoạt đầu nêu lên, sau đó giải thích. Ý trước là giả thiết, hứa cho ba xe, nay tuy chẳng được tiểu (thừa), cũng chẳng trái với ý giả thiết lúc trước, vì tâm cảnh chẳng trái ngược nhau nên chẳng phải là hư vọng.
*
-Kinh văn : “Huống hồ trưởng giả” tới “cho xe lớn như nhau”. 
Tán rằng : huống hồ được đại thừa mà lại thành hư vọng ư !
*
-Kinh văn : “Phật bảo Xá Lợi Phất” tới “như lời ông nói”. 
Tán rằng : đây là ấn khả.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “cha của hết thảy thế gian”.
Tán rằng : dưới đây là đoạn lớn thứ hai : hợp thuyết. Có hai phần : 
- Đầu là hợp thuyết xưa là quyền (thừa).
- Sau là hợp thuyết nay là thực (thừa). 
Đó là đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Như vị trưởng giả đó thấy các con được thoát ra khỏi một cách yên ổn” trở xuống. 
Phần đầu có bốn ý : 
1. Hợp thuyết tam giới có Phật. 
2. Hợp thuyết năm nẻo nguy vong, đó là đoạn từ “để độ chúng sinh (khỏi vòng) sinh lão” trở xuống. 
3. Hợp thuyết về việc đặt ra phương tiện quyền nghi. Đó là đoạn từ “thấy các chúng sinh bị sinh lão bệnh tử” trở xuống.
4. Hợp thuyết về nếu theo lời (Phật) thì tránh khỏi hoạn nạn. Đó là đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Nếu có chúng sinh trong có trí tính” trở xuống.
Dụ đầu có sáu ý : 
1. Xứ sở. 2. Gia chủ
3. Của cải . 4. Già trẻ. 
5. Tướng nhà. 6. Cửa rả. 
Nay hợp thuyết 5 thứ, chẳng hợp thuyết cửa rả. 
Đoạn văn này có 2 ý : 
1) Hết thảy thế gian : là nói về xứ sở.
2) Cha : là nói về gia chủ
Thế gian : chỉ hữu tình thế giankhí thế gian
Kinh Vô Cấu Xưng nói : “Cõi đất của các hữu tìnhcõi Phật nghiêm tịnh của Bồ tát”. Cho nên lấy hai loại thế gian này gọi là đất nước Phật, vì con người là gốc của nước, gốc bền thì nước yên và làm cho thiên hạ thành ngôi nhà sáng sủa. 
Cha : có nghĩa là sinh thành dưỡng dục, khiến các chúng sinh, sinh trưởng thiện căn, nối ngôi của cha là Phật, nên gọi là cha.
*
-Kinh văn : “Đối với các nỗi sợ hãi” tới “vô lượng tri kiến”. 
Tán rằng : dưới đây là ý thứ ba, nói về của cải
Đây là hợp thuyết về đa điền (nhiều ruộng). Dứt hết các nỗi sợ hãi v.v… , hợp thành Đoạn điền. Vô lượng tri kiến hợp thành Trí điền.
Sợ hãi có năm thứ : 
1. Bất hoạt úy (sợ về sinh kế : sợ chẳng đủ sống) do phân biệt (chấp) ngã, nên khởi lên lòng tham ái đối với của cải, với đời sống.
2. Ác danh úy (sợ tiếng xấu) : vì làm những điều chẳng lợi ích gì, nên có ý sợ sẽ bị oán vọng. 
3. Tử úy (sợ chết) : do có ngã kiến, nên nảy ra ý nghĩ lo sợ mình sẽ bị mất mát hủy hoại.
4. Ác thú úy (sợ nẻo ác) : chẳng gặp chư Phật, sợ nảy ra nghiệp ác
5. Khiếp chúng úy (sợ uy đức đại chúng) : thấy quả mình chứng được kém cỏi, người khác hơn mình, nảy ra nỗi lo sợ sẽ bị suy não ưu hoạn, cho rằng mình sẽ bị tan cửa nát nhà, sẽ bị diệt vong, đủ mọi thứ khổ.
Trên đây là hợp thuyết về khổ quả sinh tử. Vô minh ám tế ngu si tăng nhiều, bởi vì Hoặc nghiệp là gốc. Đó là khổ nhân chẳng hết, qua lại chẳng cùng. Nay theo thứ tự phối với vô minh ám tế. Hoặc theo như thứ tự mà phối với mê muội về Tam bảo. Do chứng lý, đoạn Hoặc, dứt hẳn không sót, nên các Đoạn đức vô vi viên mãn, thành tựu tri kiến Trí đức viên mãn.
*
-Kinh văn : “Lực, Vô sở úy” tới “Ba la mật”. 
Tán rằng : đây là hợp thuyết về của cải vô lượng, về nội đức trí tuệ cùng phương tiện thiện xảo, đều đã đầy đủ để sang tới bờ bên kia.
Trên đây tất cả là hợp thuyết về của cải. Nếu theo Kinh Vô Cấu Xưng thì phiền não là tôi tớ, hoặc là theo văn này thì thần thông ngoại hóa là tôi tớ, do trí tuệ sai khiến nên dựa vào đó mà thuyết.
*
-Kinh văn : “Đại từ đại bi” tới “hằng cầu việc thiện”. 
Tán rằng : đây là ý thứ tư : hợp thuyết về tuổi tác già yếu.
Người già lại càng thương xót lớp trẻ, cho nên đại từ đại bi
Việc làm không bỏ, cho nên thường không uể oải mệt mỏi
Phàm làm việc gì đều suy nghĩ quan sát kỹ lưỡng, có đầu có cuối, không bỏ giữa chừng, nên ắt phải đặt pháp hay, hằng cầu việc thiện.
Trong này tức là nói về ba đức : Ân, Đoạn và Trí đức, cứ theo như thứ tự mà phối với ba loại trưởng giả nói trên, vì tự tha đều lợi, thể hiện sự tu lâu nhờ bi mà trí mãn.
*
-Kinh văn : “Lợi ích hết thảy” tới “ngôi nhà bị cháy cũ nát”. 
Tán rằng : đây là ý thứ năm : hợp thuyết về tướng nhà, cũng là nơi hợp thuyết về tướng nhiều nhà, vì là phổ biến khắp cả ba cõi.
Để làm lợi cho năm nẻo, cho nên Phật đã thị hiện sinh ra trong đó. Cho nên dụ trước nói rằng “nếu ta cùng các con chẳng kịp thời ra khỏi nhà lửa”, tức là vì chúng sinhPhật thị hiện ở trong sinh tử. Phật thị hiện ở thân đời nay mới từ nhà lửa mà ra, điều này giải thích lý do việc Phật nhập trạch. 
Cũng có chỗ giải thích rằng : lợi ích đây, là chỉ cửa rả. Vì Phật vì muốn lợi ích cho chúng sinh, cho nên nhập trạch, chúng sinh y theo lợi ích ấy mà xuất trạch. Đó tức là Giáo Hạnh nhất thừa.
*
-Kinh văn : “Để độ chúng sinh” tới “Tam miệu Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ hai, là hợp thuyết dụ năm nẻo nguy vong. 
Thí dụ này có bốn ý : 
1. Người đông. 2. Nhà nát. 
3. Lửa cháy. 4. Các con vẫn ở trong nhà. 
Nay hợp thuyết có bốn : 
1. Để độ chúng sinh, hợp thuyết về số người rất đông.
2. Sinh lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não, hợp thuyết ví với nhà cửa mục nát nguy hiểm. 
3. Ngu si, tối tăm, lửa ba độc bao trùm, hợp thuyết ví với tai họa cháy nhà khởi lên ở khắp nơi. 
4. Giáo hóa khiến được quả Bồ đề, hợp thuyết ví với việc chúng sinh chơi ở trong nhà lửa.
- Sinh lão bệnh tử, ưu bi khổ não : ví với nhà cửa mục nát nguy hiểm, là vô thường và khổ trong tứ uẩn, nhất nhất đều có sinh lão bệnh tử
Nếu cứ theo thứ tự mà lần lượt ví với nhà cửa mục nát nguy hiểm thì nghĩa hơi khó hiểu. Có khi đây là chỉ tất cả tác hại của việc nhà hư hoại. 
Cứ thực mà xét thì lý nhà cửa mục nát là chung cho cả ba cõi, cho nên ví với nghĩa tứ uẩn như trên đã nói. Nay lấy pháp biến đổi của tứ tướng trong Dục giới để nêu lên tác hại ở đó, gọi là nói rõ nỗi khổ của ba cõi. Để khiến cho lòng chúng sinh chán ghét cảnh sinh lão bệnh tử thật sâu sắc, cho nên đã thuyết về tác hại của ngôi nhà sinh lão bệnh tử bị hư hoại. Chẳng thế thì cớ gì mà tai họa cháy nhà lại nổi lên từ khắp nơi ? 
Phiền não trong tất cả ba cõi đều ví với nhà cửa mục nát nguy ngập. Nhưng chỉ thuyết minh về quả khổ của cõi Dục giới. Các con chơi ở trong đó có kẻ là đại thừa tính, ví như trưởng tử, như chân tử (con đẻ) do vợ sinh ra. Còn những kẻ chưa phát tâm thì gọi là tam giới tử, sau khi phát tâm rồi dần dần mói chứng được Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Thấy các chúng sinh” tới “bị đủ loại khổ”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba hợp thuyết về việc Phật thấy cảnh khổ của chúng sinh bèn đặt ra phương tiện quyền nghi để cứu khổ
Hợp dụ trên có bốn ý : 
1. Thấy cảnh khổ thì bi mẫn chúng sinh.
2. Tỏ rõ chẳng hy vọng đại thừa.
3. Nghĩ phương tiện cứu giúp. 
4. Chính thuyết tam thừa.
Ở đây hợp thuyết cũng có bốn : 
• Đầu tiên là hợp thuyết về lòng bi mẫn chúng sinh.
• Thứ hai là đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Thấy chuyện này rồi, ta liền nghĩ như vầy : ta là cha của chúng sinh” trở xuống, đó là hợp thuyết về sự tỏ rõ chẳng có hy vọng đại thừa.
• Thứ ba là đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Giống như vị trưởng giả kia tuy thân và tay có sức lực mà chẳng dùng đến” trở xuống, đó là hợp thuyết về nghĩ phương tiện cứu giúp.
• Thứ tư là đoạn từ “Mà nói rằng : các ngươi không được thích trụ ở ba cõi” trở xuống, đó là hợp thuyết về chính thuyết tam thừa.
Trong hợp thuyết về sơ dụ có hai ý : 
1/ Bi mẫn chúng sinh.
2/ Sự đáng bi mẫn. 
Trong đoạn này : 
“Thấy các chúng sinh” là hợp thuyết về lòng bi mẫn chúng sinh.
Từ “bị sinh, lão, bệnh, tử” trở xuống : đó là các sự đáng bi mẫn. 
Trong các sự đáng bi mẫn, đầu tiên là hợp thuyết về khổ tướng, sau đó hợp thuyết về lạc trước (ham vui). 
“Chúng sinh chìm đắm ở trong đó”: đó là hợp thuyết về khổ tướng. 
Trong này đầu tiên nói rõ bảy nỗi khổ ở Dục giới, sau đó đoạn “biết bao nỗi khổ như vậy” là nói rõ về Sắc giới, Vô sắc giới.
Sắc giới, Vô sắc giới đều có nỗi khổ thứ tám tóm thâu mọi thứ khổ do ngũ thủ uẩn gây ra.
Thuyết minh về nỗi khổ của Dục giới có bốn ý : 
1. Bốn tướng giao xâm. 
2. Năm dục tranh đua
3. Bủn xỉn tham lam đốt thiêu bức bách
4. Các nẻo luân hồi
- Ba thứ đầu là nỗi khổ đời này, một thứ sau là nỗi khổ đời sau
- Bốn tướng giao xâm tức là tứ khổ
- Năm dục tranh đua, và bủn xỉn tham lam thiêu đốt bức bách, đó là Cầu bất đắc khổ.
- Trong năm nẻo luân hồi, mới thể hiệnÁi biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ cùng biết bao nỗi khổ khác, tức là thâu tóm hết thảy mọi nỗi khổ do ngũ thủ uẩn gây ra. Như vậy là thâu tóm hết cả tám nỗi khổ rồi.
Đoạn văn này chính là nói về bốn tướng giao xâm, năm dục tranh đua. Trong thí dụ trước đã nói về việc nhìn thấy nhân hỏa (lửa) mà sợ hãi. Đây hợp thuyết về việc nhìn thấy quả khổ mà nảy ra ý bi mẫn. Nhân quả chứng minh cho nhau, đều đáng ta thán, nhân trước quả sau đều bức bách nhau, đều đáng bi mẫn, đều đáng chán ghét.
Đối Pháp luận nói rằng : 
- Sinh khổ là chỗ dựa của mọi nỗi khổ, bị mọi nỗi khổ bức bách, chín tháng mười tháng ở trong thai tạng như ở trong hố phân bẩn thỉu, phải chịu đựng lâu dài đủ mọi thứ khổ như nóng lạnh v.v… ; ở giữa sinh thực tạng như bị hai trái núi chèn ép phải đi thẳng ra sản môn (lỗ đẻ), nỗi khổ khó mà chịu đựng nổi, thình lình ra ngoài bị gió thổi như dao cắt dùi đâm, bất giác kêu thất thanh, quên bẵng cả sự nghiệp trước kia. Đó gọi là sinh khổ.
- Lão khổ có nghĩa là do thời gian biến đổi cho nên khổ. Thân phần nặng nề, các căn nẫu tối, da dẻ nhẽo nhăn, đi đứng lom khom, ăn ngủ chẳng yên, đứng ngồi rên rỉ, hen xuyễn ợ hơi, làm lụng chậm chạp, bị người khinh rẻ, càng nặng thế tình, sự đời đều hết. Đó gọi là lão khổ.
- Bệnh khổ có nghĩa là tứ đại biến dị, chẳng được thích nghi, cho nên khổ. Trăm đốt nhức nhối, chân tay đau đớn, có thể hủy hoại mọi sự an ổn sung sướng, như mưa đá bỗng trút xuống làm tổn hại cho lúa mạ tươi tốt. 
Do đó, trong kinh nói rằng : như có người trẻ khoẻ đẹp trai, vương phi yêu trộm dấu thầm sai người đưa thư hẹn cùng tư thông, người ấy bị vua bắt được liền móc mắt, xẻo tai xẻo mũi, chặt cả chân tay, hình dung bỗng đổi bị người ghét bỏ khinh rẻ, đã bị bệnh khổ bức bách khó mà chịu nổi như vậy, lại bị người ta ghét bỏ như vậy. Đó là bệnh khổ
- Tử khổ có nghĩa là thọ mệnh biến hoại cho nên khổ. Dao gió mổ xẻ chân tay tách tháo đốt khớp, không chỗ nào không đau đớn, mở miệng than dài, chân tay quờ quạng trợn mắt sùi bọt, sờ mó hư không, mồ hôi vã ra, cứt đái dầm dề. 
Kinh Niết Bàn nói : người chết ở chỗ hiểm nạn mà không có tiền lương gạo bị, chỗ đến thì xa xôi mà không có bầu bạn, muốn vào mà không có cửa ngõ, không có nơi chốn, dẫu không có chỗ nào đau chẳng thể chữa trị, cứ đi mà không gì ngăn cản cho đến (chỗ chết) chẳng được giải thoát. Không hủy hoại gì mà người nhìn thấy đều buồn rầu đau đớn, chẳng phải là do vẻ xấu xí khiến người ta phải sợ. Tiếng gọi bên tai mà chẳng thể biết. Đó gọi là tử khổ.
Xưa dẫu mượn sự tắm gội, chung quy ắt thành bất tịnh; xưa kia dẫu mượn sự trát phấn tô son xông sức hương thơm, chung quy ắt trở thành thối bẩn; thời xưa thì là ngôi vua nhiều của cải châu báu vinh hoa thịnh vượng, họ hàng thân thích vợ lớn vợ nhỏ nhiều hàng vạn ức, lúc này thì phút chốc bỏ hết, một mình đi đến đời sau, không một ai theo. Thây xác nằm ngửa đặt trên giường gối, cha mẹ vợ con đấm ngực nức nở, mọi người hờ khóc xõa tóc vỗ đầu, dẫu trong lòng họ buồn thương lưu luyến, nhưng cuối cùng vẫn phải đau xót mà chia lìa mãi mãi
Hoặc chôn quàn ở nơi lăng mộ, xương mục thịt tiêu; hoặc phơi thây để thí bỏ thịt trên thân cho chim muông kiến mối đua nhau xé rỉa; hoặc hỏa thiêu khói tỏa khét um, khiến mọi người xúm xít xung quanh phải thở than thương cảm, buồn thương gào khóc khản hết cả tiếng, cùng trở về quê. Chỉ còn sót đống tro tàn một mình riêng theo gió bụi. Bình sinh ý khí riêng lướt mây cao, một sớm lìa đời dãi dầu sương nguyệt. Vì vợ contranh đấu, bon chen tiền tài lợi lộc để đến nỗi rối loạn tơi bời, đấu cùng danh gia vọng tộc để đến nỗi gây thù kết oán. Tranh vinh hoa hại mệnh người khác. Bỗng nhiên lìa đời đi hẳn, rơi mãi vào đường tối tăm, một mình chịu họa vì đã gây tội ác, còn vợ con vẫn yên ổn phè phỡn nhởn nhơ. Khi xưa làm điều ác chỉ vì vợ con, tới lúc sa vào ba đường nào ngờ riêng mình bị khổ. Thật đáng buồn thương ! Thật đáng buồn thương ! Chẳng đáng răn sao ! Đó gọi là tử khổ
- Ưu bi khổ não : Kinh Đạo Vu nói rằng : “Cảm nhớ việc xưa, nói năng buồn bã thì gọi là ưu. Nghĩ nhớ liên tục thì gọi là bi. Sự khổ bức bách thì gọi là khổ. Phiền não trói buộc thì gọi là não”.
Kinh Thập Địa nói : “Lúc tử biệt ly, người ngu thì tâm tham chấp xốn xang đó gọi là ưu, phát ra tiếng hờ khóc đó gọi là bi, ngũ căn đối nhau đó gọi là khổ, ý căn đối nhau đó gọi là ưu, ưu khổ nhiều mãi đó gọi là não. Cũng vì ngũ dục tài lợi cho nên bị đủ thứ khổ. Chim vì ăn mà quên thân, người vì của mà mất mạng”.
Kinh Vô Lượng Thọ nói : “Người thế gian vì không có ruộng nương nhà cửa mà sinh lòng ham muốn thì cũng ưu lo, có ruộng nương nhà cửa mà bủn xỉn giữ bo bo thì cũng ưu lo. Ngũ dục tài lợi thảy đều như vậy. Sợ năm nhà xâm lấn, ngại bị láng giềng cướp đoạt, bởi vậy mà sinh ra khổ”.
*
-Kinh văn : “Lại vì tham trước” tới “Oán tắng hội khổ”. 
Tán rằng : đây là chỉ xan tham thiêu bức, các nẻo luân hồi vậy. 
Của đã được rồi thì tham trước, vật vẫn chưa được thì truy cầu, cho nên sinh ra nhiều nỗi khổ. Ngũ dục nói trên cũng tức là loại Cầu bất đắc khổ này. 
Trong Kim Cương Bát Nhã luận khi giải thích câu kinh : “bố thí châu báu đầy khắp hằng hà sa số thế giới chẳng bằng trì niệm một bài kệ bốn câu”, thì nói rằng : “vì của cải sinh ra phiền não nhiều như vi trần thế giới, lại chính là nhờ trì kinh mà diệt được các phiền não đó, cho nên thí của phúc nhỏ, trì kinh phúc nhiều”. 
Nỗi khổ của năm nẻo luân hồi, tới phần tụng sẽ giải thích.
- Bần cùng khốn khổ : chỉ trong cõi người.
- Ái biệt ly, Oán tắng hội : chung cho người trời. Đó là như việc có vị con trời có sức mạnh, vào trong cung trời cướp vợ con trời đuổi ra khỏi cung trời v.v… 
Như Du Già quyển đệ tứ thuyết minh đầy đủ về nỗi khổ của chư thiên, ngũ thú v.v… 
Tướng địa ngục v.v… trong tụng sẽ nói. 
Vì trong cõi người cõi trời, cảnh cõi thù diệu, có nhiều nỗi Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, bởi vậy thuyết minh thiên về các cõi đó. Cần nói rộng thì dẫn Du Già để chú thích chỗ này và sự tranh đấu của loài phi thiên v.v…
*
-Kinh văn : “Đủ mọi thứ khổ như vậy”. 
Tán rằng : trên kia nói Dục giới có bảy nổi khổ: hiện tại, hậu thế, ngũ thú khổ v.v… đủ ba loại khổ
Sắc giới chỉ có hoại khổ, hành khổ vì có lạc, xả. 
Đối Pháp khi dẫn câu kinh : “Sắc giới có hoại khổ”, thì nói rằng “Nhập biến hoại tâm”. 
Vô sắc giới chỉ có một loại khổ là hành khổ, vì không có lạc thụ
Cõi Dục giới có đủ tám loại khổ, các cõi trên không có bảy loại đầu.
*
-Kinh văn : “Chúng sinh chìm đắm ở trong” tới “chẳng cho là họa”. 
Tán rằng : dưới là hợp thuyết về đắm chấp các lạc.
Chẳng dùng tỷ trí để mà thấy, chẳng dùng hiện trí để mà biết, chẳng kinh quả khổ, chẳng sợ nhân khổ, chẳng chán chung mọi khổ, chẳng cầu giải thoát, do đó rong ruổi trong nẻo thiện nẻo ác mà chẳng hề coi đó là tai họa đáng lo. 
Ví như kẻ ngu si nghịch phân tro đất cát, ví như kẻ si ngốc rơi vào trong lò nóng, chưa coi bụi bẩn lấm lem là điều xấu hổ, há cho lửa đốt là đau !
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất” tới “khiến chúng rong chơi”. 
Tán rằng : dưới là hợp thuyết về tỏ rõ chẳng hy vọng dùng đại thừa để giáo hóa
Dụ trên có bốn ý : 
1. Nghĩ tới đại thừa Quả hóa (giáo hóa bằng quả đại thừa). 
2. Nghĩ tới đại thừa Nhân hóa (giáo hóa bằng nhân đại thừa). 
3. Ba là Tùy thị đại thừa Hành hóa (tùy nghi thị hiện giáo hóa về hạnh đại thừa). 
4. Không hy vọng dùng đại thừa để giáo hóa.
Ở đây hợp thuyết có ba, chẳng hợp thuyết về Tùy thị đại thừa hành hóa
Đoạn này là hợp thuyết đầu tiên về sơ dụ. 
Đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai nghĩ” trở xuống, là hợp thuyết về dụ thứ hai. 
Đoạn từ “Sở dĩ như vậy là vì sao” trở xuống, là hợp thuyết về dụ thứ tư. 
“Niềm vui vì được trí tuệ Phật” là hợp thuyết về thân Phật có lực. 
“Dùng kỷ án” (bàn ghế) : là để cứu ngay các nỗi khổ của hạng Độc giác.
“Khiến chúng rong chơi” là hợp thuyết về tay Phật có lực. 
Dùng áo xiêm là để cứu ngay các nỗi khổ của hạng Thanh văn
Ở đây ý nói “Hay là dùng hai thứ có tác dụng mầu nhiệmtrí tuệ cùng đại thần thông của Phật mà cứu ngay nhị thừa ra khỏi cảnh khổ chăng ?”.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất” tới “nhờ vậy mà được độ”. 
Tán rằng : đây là hợp thuyết về việc nghĩ tới đại thừa nhân hóa. 
Nhà chỉ có một cửa, chỉ có Bồ tát (đứa con lớn) mới ra lọt. Nếu ta truyền thụ cho trí tuệ, thần thông ngay, thuyết về nhân đại thừa để giáo hóa nhị tử (đứa con giữa và đứa con nhỏ, tức là nhị thừa), bỏ chẳng thuyết về phương tiện ba thừa, thì nhị thừa khí lượng nhỏ hẹp chẳng thể y theotu hành để thoát khỏi các thứ khổ. Cửa đã nhỏ hẹp, có khi họ sẽ bị sa sảy rơi rớt. 
Ý này cũng là hợp thuyết về việc mật thuyết các sự đáng sợ, không để cho họ bị lửa đốt hại.
*
-Kinh văn : “Vì sao như vậy ?” tới “trí tuệ của Phật”. 
Tán rằng : đây là hợp thuyết về không hy vọng dùng đại thừa để giáo hóa
Phật tuệ sâu sắc, sao mà hiểu được ? 
Nhị thừa trí nông, nên chẳng hy vọng tranh thủ được.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất” tới “xe lớn châu báu”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba, hợp thuyết về việc Phật nghĩ phương tiện để cứu vớt. 
Có hai phần : phần đầu là dụ, phần sau là hợp thuyết.
Đây là phần đầu.
Chẳng dùng trí tuệ thân lực, cũng chẳng dùng thần thông thủ lực, chỉ dùng phương tiện ngôn thuyết khuyên bảo động viên, độ cho các con ra khỏi nhà lửa rồi sau mới cho xe lớn (ví với đại thừa). Điều này chứng tỏ Phật là trợ duyên, còn chúng sinh phải tự mình tu hành diệu hạnh mới ra khỏi được vòng sinh tử. Cho nên Phật tỏ lời khuyến khích, răn bảo, chứ chẳng phải là do Phật lực, còn chúng sinh tự mình chẳng tu nhân mà có thể được thành Phật
* “Miễn”: giúp đỡ khuyến khích, có bản viết thành [免], chẳng đúng với nghĩa ở đây.
*
-Kinh văn : “Như Lai cũng lại” tới “Phật thừa” 
Tán rằng : đây là hợp thuyết thu nhiếp trí tuệthần thông lại, chỉ làm phương tiện khuyên chúng sinh hãy thoát khỏi ba cõi
Phật như thầy thuốc giỏi căn cứ vào bệnh mà cho thuốc, chỉ làm phương tiện giáo hóa cho họ biết muốn như thế nào. Thầy thuốc giỏi há có thể dùng dao dùng tay cắt bỏ bệnh ở trong bụng, chẳng cho thuốc thang mà được sao !
*
-Kinh văn : “Mà nói như vầy” tới “thì bị đốt cháy”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ tư : hợp thuyết về chính thuyết ba thừa. Có bốn phần : 
• Phần đầu khuyên nên chán ba cõi.
• Phần hai là khuyên nên lấy tam thừa
• Phần ba là lấy mình làm dẫn chứng
• Phần bốn là tán thán đức tốt trội của thừa.
Đây là phần đầu.
Nhà lửa tam giới là nội thể, ngũ trần thô tệ là ngoại cảnh. Khuyên lìa nội ngoại khổ quả thể, chớ sinh tham trước. Do tham trước, nên phiền não thiêu đốt càng thêm khổ đau. Khuyên bỏ nhân ác, dẫu có Diệu quả, thể trong là thân kim cương, ngoài là ngũ trần vi tế, cũng nên ưa thích cầu mong các tướng tịnh độ, mà chưa nói rõ.
*
-Kinh văn : “Ngươi mau mau ra khỏi ba cõi” tới “Phật thừa”. 
Tán rằng : khuyên lấy ba thừa.
*
-Kinh văn : “Ta nay vì ngươi” tới “dẫn dụ chúng sinh tiến tới”. 
Tán rằng : đây là lấy bản thân mình làm dẫn chứng.
Bảo : nghĩa như đáng, tín, chứng.
Nhậm : nghĩa như bảo, an, khả, trì. 
Ta có thể bảo đảm với ngươi : ý nói có thể bảo đảm là nói chẳng bao giờ sai. Các ngươi hãy tranh thủ, chớ sinh nghi hoặc.
Pháp tam thừa thực sự là pháp hay. Ta bảo đảm với ngươi. Ngươi cứ lấy pháp đó, siêng năng tinh tiến. Như thế gian mua sắm đồ vật, nếu không có người bảo đảm tin cậy thì biết vật đó chẳng phải của thật. Có người bảo đảm thì biết đó là của tốt. Tam thừa cũng thế, ta có thể bảo đảm chắc chắn. Còn sinh tử chẳng phải thật, ta chẳng thể bảo đảm.
*
-Kinh văn : “Lại nói như vầy” tới “không y cầu gì”. 
Tán rằng : đây là tán thán đức thắng trội của thừa. Có hai phần :
- Phần đầu nói rõ tam thừa chẳng giống sinh tử
- Phần sau thuyết minh về đức thắng trội của thừa. 
Đây là phần đầu.
Sinh tử bị thánh quở, tam thừa được thánh khen. Sinh tử trói buộc, phiền não tăng mãi, chẳng được tự tại
Tam thừa vô lậu, nên chẳng bị trói buộc, mới gọi là tự tại
Pháp hữu lậu gọi là hữu y (có sự dựa dẫm). Quả dị thục y vào Nhân dị thục mà thành ra quả. Hạng thắng trội trong vòng sinh tử hữu lậu là người và trời, còn có ba điều cầu. 
Tam thừa chẳng thế, chẳng phải là thứ sở cầu mà lấy được. Đó là thứ không có lỗi lầm mà vẫn cầu, chứ chẳng phải là thứ không có lỗi lầm nên chẳng cầu. 
Ba thứ cầu là : 1. Dục cầu 
2. Hữu cầu 
3. Tà phạm hạnh cầu.
Dục cầu : Du Già luận nói : “Kẻ bị đọa vào Dục cầu thì hết thảy đều là ba loại dục sinh, không thêm không bớt”. 
Ba loại dục sinh là : 
1/ Hiện trụ dục trần sinh, chỉ người và trời từ Tri Túc thiên trở xuống. 
2/ Tự biến dục trần sinh, chỉ cõi Dục thiên thứ năm. 
3/ Tha biến dục trần sinh, chỉ cõi Dục thiên thứ sáu. 
• Hữu cầu : Kẻ đọa vào hữu cầu thì hết thảy đều là ba loại lạc sinh :
1) Ly sinh hỷ lạc, tưới gội thân nó. 
2) Định sinh hỷ lạc, tưới gội thân nó. 
3) Dĩ ly hỷ lạc, tưới gội thân nó.
Sơ định, nhị định, tam định cứ theo thứ tự mà phối với các lạc sinh này. Vì ở Bất khổ bất lạc tịch tĩnh sinh xứ, kẻ khởi thoái cầu rất ít, cho nên Đệ tứ định không lập thành Sinh. 
• Tà phạm hạnh cầu : chỉ các ngoại đạo cầu Tứ vô sắc, coi đó là Niết bàn giải thoát xứ.
Nay chẳng phải là ba thứ cầu ấy, nên gọi là vô cầu, dẫu có Phạm hạnh cầu nhưng vì vô lậu, nên đó tức là Vô thượng chính phạm hạnh cầu, chẳng phải là Tà phạm hạnh cầu.
*
-Kinh văn : “Dùng ba thừa này” tới “yên ổn khoái lạc”. 
Tán rằng : dưới đây là thuyết minh về đức thắng trội của tam thừa.
Chính thức dùng tam thừa rồi, thì cứ tự mình vui sướng với Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác, Bát thánh đạo, Tứ thiền, Cửu định, Bát giải thoát, Tam tam muội v.v… liền được vô lượng yên ổn khoái lạc, đâu còn như vòng sinh tử nhiều nỗi khổ sở.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất” tới “ra khỏi nhà lửa”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn lớn thứ tư : hợp thuyết về y theo lời Phật tránh khỏi hoạn nạn
Ba thừa chia làm ba. Mỗi thứ đều có hai : đầu là pháp thuyết, sau là hợp thuyết.
Đây là phần đầu.
Mỗi thứ đều có bốn lực : 
1. Nội trí tínhNhân lực, vì là tính chủng tính.
2. Theo Phật Thế tôn, đó là Thiện hữu lực. Phật làm duyên cho, nên gặp Phật; nếu chẳng gặp Phật, lúc ban đầu ắt phải y theo Phật pháp mới được phát tâm, đó gọi là Thiện hữu lực.
3. Nghe pháptín thụ, đó gọi là Tác ý lực, vì là Tập chủng tính.
4. Chăm chỉ tinh tiến, đó là Tư lương lực.
Lấy cần cù tinh tiến làm đầu thu nhiếp mọi hành, y vào bốn thắng lực là : Nhân lực, Thiện hữu lực, Tác ý lực, Tư lương lực; chuyên tự tu hành để cầu Niết bàn, đó gọi là Thanh văn thừa.
Nghe pháp tự hành, chẳng thể hoá tha, gọi là tự cầu, chứ chẳng phải là chẳng cầu Phật dạy cho đệ tử.
Du Già giải thích rằng : “chư Phật thánh lấy giáo thanh làm đầu. Theo thầy theo bạn được nghe giáo thanh ấy mà chứng thánh quả, nên gọi là Thanh văn”. Vì là do được nghe âm thanh, đó là Y chủ thích.
Phẩm Tín Giải ở dưới giải thích rằng : “nhờ giáo thanh của Phật khiến hết thảy được nghe, cho nên gọi là Thanh văn”, đây cũng là Y chủ thích hoặc Hữu tài thích. Cách trước thông với Định tính, cách sau thông với Bất định tính.
Cầu Niết bàn ở đây, là lấy Chủng trí sở học làm xa thể (thể của xe), chẳng phải lấy Niết bàn làm xa thể. Trong đoạn văn này, điều ấy lược đi, cho nên tới phần sau ắt hẳn sẽ biết.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh” tới “ra khỏi nhà lửa”. 
Tán rằng : đây chỉ có ba lực, lược bỏ không nói Nhân lực
Kẻ cầu Tự nhiên tuệ thì chẳng cầu cùng Phật đồng thời xuất thế, vì chẳng phải là thấy Phật rồi mới đắc quả.
Như có kinh nói Phật Thích Ca xuất thế, năm trăm vị Độc giác từ trong núi ra tới chỗ Phật. Cho nên trong Kinh Nhân VươngĐộc giác chúng, đã thành đạo từ trước rồi sau mới gặp đức Thế tôn.Chẳng giống như Thanh văn đắc đạo ở chỗ Phật. Cho nên gọi là tinh tiến cầu Tự nhiên tuệ, có thể chứng đạo được. 
Thích một mình hoàn thiện chứng lý tịch diệt, đó là nghĩa Độc giác (một mình giác ngộ), vì xuất hiện ở đời không Phật, có khả năng chứng được đạo, một mình tự hoàn thiện chứng lý tịch diệt.
Thêm nữa, nhờ tuệ này mà biết sâu nhân duyên các pháp, đó là nghĩa của Duyên giác. Cho nên Du Già nói rằng : “Hoặc quán đãi duyên mà chứng thánh quả, cho nên gọi là Duyên giác, vì quán mười hai Duyên khởi mà chứng quả”û.
Bích Chi Phật, phương đây gọi là Độc giác. Độc giác có hai loại : 
1) Bộ hành. 2) Lân giác
Loại đầu có thể được thấy Phật, loại sau ắt chẳng được thấy. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Bồ tát ở cõi trời Đâu Suất lúc sắp hạ sinhmười tướng hiện. Tướng thứ ba là ở bàn tay phải phóng đại quang minh gọi là Nghiêm tịnh thế giới. Trong tam thiên giới nếu có Độc giác gặp ánh sáng này rồi thì mau chóng nhập Niết bàn. Nếu chẳng nhập thì lực Phật quang sẽ dời đi đặt ở nước các Phật ở phương khác, chẳng được thấy Phật”.
Biết rõ Độc giác mãn trăm kiếp thì thành Lân Giác, chẳng thế thì là Bộ Hành. Nếu từ Thanh văn giải thoát phần vị mà làm Độc giác, thì thành Lân Giác dụ, vì có thể được một trăm kiếp, thời gian còn dài. Nhập tứ thiện căn làm Độc giác thì thành Bộ hành, vì thời gian còn lại ngắn. Độc chứng mà giác, đãi duyên mà giác, đều là Y chủ thích.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh” tới “đó gọi là đại thừa”. 
Tán rằng : trong phần đầu Pháp thuyết có hai phần : đầu tiên giải thích đại thừa, sau đó giải thích Bồ tát thừa.
Đây là phần đầu.
- Nhất thiết trí, nghĩa là trí quán Không, ba thừa cùng có. 
- Phật trí, là trí quán Hữu sự, riêng mình Phật thành. 
- Do tự giác mà sinh hai trí này, thì gọi là Tự nhiên trí
- Chẳng đợi tha duyên, đó gọi là Vô sư trí.
Hoặc là Trí tính gọi là Tự nhiên trí, Trí tướng gọi là Vô sư trí
Cầu lực, Vô úy v.v… quyến thuộc của tri kiến này lấy đó làm đức bên trong, ngoài thì có thể làm lợi được cho chúng sinh, xót thương họ khiến cho họ được vui, làm lợi ích cho họ cứu họ khỏi khổ, trước Từ sau Bi. Hạnh, Giải to rộng, đó gọi là đại thừa. Tên gọi đại thừa đã giải thích như trên.
*
-Kinh văn : “Vì Bồ tát cầu thừa này” tới “ra khỏi nhà lửa”. 
Tán rằng : đây là giải thích về Bồ tát thừa và dụ. 
Bồ tát là gọi chung cả tam thừa. Nếu cầu đặng thừa này thì cộng thêm danh hiệu Ma ha tát, đó là đại hữu tình, ngoài ra những loại khác chẳng được danh hiệu ấy. 
Bát Nhã luận của ngài Vô Trước nói rằng : do tương ứng với bảy loại đại tính, nên thêm danh hiệu Ma ha tát. Cầu trí là Bồ, mẫn niệm là Tát. Trong tam thừa này, mỗi thừa đều có một chủng một tính, ba chủng hai tính, một chủng ba tính, vì Định tínhBất định tính chủng loại khác nhau. 
Sơ hậu phát tâm, đắc quả bất định, như Đại Ca Diếp nếu chẳng gặp Phật, hẳn thành Độc giác, nhưng do gặp Phật nên nay làm Thanh văn. Còn bọn các ngài Xá Lợi Phất, cứ suy ra cũng có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “mà cho các con” 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba : hợp thuyết về nay thuyết thực thừa.
Trong có hai phần : 
- Phần đầu hợp thuyết về thực thừa.
- Phần sau giải thích điều nghi vấn
Dụ trước có bốn, nay chỉ hợp thuyết hai :
• Phần đầu hợp thuyết nhằm giải thích về sự hoàn thành cái chí của cha, đó là đoạn từ “các chúng sinh này” trở xuống. 
• Phần sau hợp thuyết về việc cha chỉ cho một. Trong văn chẳng hợp thuyết các con đòi ba, vượt quá điều mong ước xưa nay của con. 
Phần đầu lại chia làm hai : đầu tiên nêu thí dụ trước, sau đó dùng pháp mà hợp thuyết. 
Trong dụ lại có hai : phần đầu là đoạn từ “Thấy con được ra khỏi, lòng cha thanh thản tự nghĩ” trở xuống, là hợp thuyết về sự hoàn thành cái chí của cha. Ý này có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Như Lai cũng lại như thế” tới “được niềm vui Niết bàn”. 
Tán rằng : dưới đây là hợp thuyết về chí cha. Cũng có hai phần :
• Đầu là hợp thuyết về “thấy con ra được, lòng cha thanh thản”.
• Sau là hợp thuyết giải thích việc hoàn thành chí cha.
Đây là phần đầu.
Lấy Giáo làm cửa mà ra khỏi nhà lửa “đường hiểm tam giới”, lấy Hạnh làm cửa mà nhập quả Niết bàn. Trong này chỉ có Giáo môn xuất trạch, chẳng thuyết Hạnh môn, vì Giáo cũng có thể nhập Quả Niết bàn, có thể nhập Lý được vậy. 
Đây chỉ thuyết về xuất, chẳng thuyết về nhập. Cũng có thể nói rằng : “được niềm vui Niết bàn” thì gọi là nhập.
*
-Kinh văn : “Như Lai bấy giờ” tới “mà khiến họ được diệt độ”. 
Tán rằng : dưới đây là hợp thuyết giải thích việc hoàn thành chí cha. 
Các con đã không có sự sai biệt thì nên đều cho đại thừa, đâu có chuyện chỉ khiến Bồ tát được Phật diệt độ, chẳng cho nhị thừa. Cần phải đối xử bình đẳng, dùng đại bát Niết bàn của Phật mà giúp họ diệt độ.
Bất linh : có nghĩa là “vô linh” : chớ để cho một mình Bồ tát được, còn người nhị thừa thì chẳng được.
*
-Kinh văn : “Các chúng sinh này” tới “đầy đủ các món để vui chơi”. 
Tán rằng : dưới là hợp thuyết về việc cha chỉ cho một. Có hai phần : 
• Phần đầu thuyết minh về thể của xe. 
• Phần sau thuyết minh về đức của xe. 
Đây là phần đầu. 
“Tất cả những người mà được Phật cho đó” (tất dữ chư Phật) : là hạng nhị thừa Bất định tính và hạng Bồ tát tính “đã thoát tam giới”, thì đều được cho “thiền định, giải thoát v.v…” của Phật thừa như nhau, vì nhất thừa trang nghiêm muôn thiện đầy đủ. Nêu qua “các món để vui chơi” như thế.
*
-Kinh văn : “Đều là một tướng” tới “niềm vui đệ nhất”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về đức của xe. Tất cả dụng cụ để vui chơi, trang nghiêm của xe nhất thừa này đều là :
1. “Một tướng” : lìa tạp nhiễm.
2. “Một loại” : chủng loại vô lậu.
Dù nhân hay quả đều “được thánh khen, có thể sinh ra niềm vui tịnh diệu bậc nhất” vô lậâu cho chúng sinh, vì là gốc của các đức, là Vô não hại lạc trong Ngũ lạc, bao gồm hai lạc thứ ba, thứ tư trong Tứ vô não, tức là Giác pháp lạc và Tịch tĩnh lạc. 
Khác với mọi công đức của xe dê xe hươu nhị thừa, vì các xe này chẳng phải đều lìa tạp nhiễm, cũng chẳng phải là thuần vô lậu. Các thánh tuy có nhưng chẳng khen là chúng sinh lạc, vì chẳng phải là đệ nhất. Đấy gọi là đại thừa.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất” tới “không mắc lỗi hư vọng”. 
Tán rằng : dưới là hợp thuyết, giải thích điều nghi vấn
Có hai phần : đầu tiên nêu thí dụ, sau đó giải đáp nghi vấn.
Đây là phần đầu.
Dụ trước có ba. Đó là Hỏi, Đáp, Ấn. Nay chỉ thuyết chung về Ấn khả không sót.
“Vật báu trang nghiêm” : muôn đức đầy đủ.
“Yên ổn đệ nhất” : lìa các tai chướng.
*
-Kinh văn : “Như Lai cũng lại” tới “mà độ thoát cho họ”. 
Tán rằng : phần hợp thuyết ở dưới có hai : đầu tiên là nêu, sau là giải thích
Đây là phần nêu.
*
-Kinh văn : “Vì sao vậy ?” tới “chỉ chẳng thể thụ dụng hết”. 

Tán rằng : đây là giải thích : nhất thừa của ta công đức vô lượng, có thể cho chúng sinh thụ dụng không hết. 
Các chúng sinh hoặc Hữu tính, hoặc Vô tính, hoặc Định tính, hoặc Bất định tính, hoặc thoạt đầu thì thích tiểu thừa, cuối cùng mới thích đại thừa, do đó bất tận chúng sinh đều lĩnh thụ được nhất thừa này.
Bởi thế cho nên xưa kia đầu tiên ta thuyết tam thừa mà nay thuyết nhất thừa mới là thực thừa. Đó chẳng phải là hư vọng, mà là phương pháp để dẫn dụ dần dần.
*
-Kinh Văn : “Xá Lợi Phất” tới “phân biệt thuyết ba”.
Tán rằng : đây là phần thứ ba trong đoạn văn lớn : kết luận giải đáp.
Do “nhân duyên” đạo lý đã nói ở trên cho nên :
- Về thể của nhất thừa, thì phân biệt thuyết có ba giáo. 
- Về nhất thừa cực quả, thì thuyết có ba nhân.
Chứ thực ra không phải có ba thể, hay ba cực quả.

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN 
QUYỂN THỨ NĂM - PHẦN SAU
ĐÃ XONG

Niên hiệu Bảo An năm thứ ba, ngày 12 tháng 5 viết xong. Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in.
Ngày 4 tháng 11 cùng năm đó, dùng bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc mà di điểm. Bản in của sư Tăng Giác đều là điểm bản. Có chỗ nào trái ngược nhau thì đều dùng mực son mà nêu ra. Bản có chữ son có thể dùng làm kim chỉ nam chăng ?
Đây là chính bản viết bằng mực đen, không chua chữ son, vì tự nó đã đúng. Cho nên đểm bản này là bản tốt nổi tiếng, có thể cất kỹ, sao làm 5 bản mà bàn giao.
Ấn bản
“để pháp được thường trụ lâu dài”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11881)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13020)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant