Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển X

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7588)
Quyển X

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
 Đại Sư Khuy Cơ biên soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường 
Biên soạn: Giáo sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2005

 

QUYỂN THỨ MƯỜI (PHẦN TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.

PHẨM TÙY HỈ CÔNG ĐỨC

Ba môn phân biệt :

I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.

I. NÓI RÕ DỤNG Ý

Có ba ý :

1. Trong bảy phẩm học hành lưu thông, sáu phẩm cuối thuyết minh về người năng hành. Chia làm bốn phần. Từ phần thứ ba trở xuống có hai phẩm thuyết minh về công đức của Bàng tu hànhChính y hành nhiều ít bao nhiêu. Phẩm này thuyết minh về phúc của Bàng tu hành. Cho nên mới có phẩm này.

2. Trong quả nhất thừa, hai phẩm trên thuyết minh về quả đã mãn. Còn ba phẩm dưới thuyết minh về quả chưa mãn, chia làm hai. Phẩm này thuyết minh về phúc quả Bàng tu hành tùy hỉ nhiều ít bao nhiêu. Hai phẩm sau thuyết minh về phúc quả Chính y hành nhiều ít bao nhiêu. Cho nên mới có phẩm này.

3. Luận nói rằng : pháp lực có 5 môn, trước đã thuyết minh 3 môn. Đây là môn thứ tư : nghe pháp, ý như trong phẩm Tùy Hỉ Công Đức đã nói. Do nghe người khác nói, rồi có thể sinh ra tùy hỉ cho nên gọi là nghe pháp. Phẩm này thuyết minh về ý ấy, cho nên phải có phẩm này.

II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.

“Tùy” : có nghĩa là thuận theo
“Hỉ” : có nghĩa là vui thích
Thân tâm thuận theo, rất là vui thích, lấy đó làm nhân sinh quả “Công Đức”. 
Phẩm này thuyết minh rộng về ý ấy, cho nên đặt tên phẩm như thế. Có nghĩa là tùy theo các điều sở Văn, sở Tư, sở Tu mà sinh tâm tùy hỉ.
Luận theo kinh cho nên lúc đầu chỉ nói về Văn (nghe pháp).

III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 

-Hỏi : phẩm này chẳng những (nói về) tự mình sinh ra tùy hỉ, mà còn giáo dục khuyến khích người khác (tùy hỉ). Vậy cớ sao chẳng đặt tên phẩm này là phẩm Khuyến Nhân ?

Đáp : đó là vì đặt tên theo cái gốc : nhân tự tùy hỉ rồi mới khuyên người khác.Ngoài ra, cả hai (tự mình và khuyên người) đều bao gồm trong Tùy Hỉ, cho nên hợp lại làm tên Tùy Hỉ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Di Lặc” tới “thì được bao nhiêu phúc ?”. 
Tán rằng : phẩm văn chia làm hai phần :
- Phần đầu là Di Lặc thỉnh.
- Phần sau là Thế tôn đáp. 
Đây là phần đầu, gồm 2 mục : trường hàngkệ tụng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “ngươi hãy lắng nghe”. 
Tán rằng : dưới là Thế tôn đáp. Chia làm ba phần :
1. Phần đầu : dùng hình thức so sánh để mà hỏi.
2. Phần hai : Di Lặc đáp.
3. Phần cuối : Phật mách bảo để thành tựu cho. 
Văn phần đầu lại chia làm ba mục :
1) Mục đầu : thuyết minh về người hay tùy hỉ.
2) Mục hai : thuyết minh về cảnh được so sánh.
3) Mục ba : là đoạn từ “ý ngươi thế nào” trở xuống : chính thức đặt ra câu hỏi. 
Văn mục đầu này có hai phần :
- Phần đầu : thuyết minh về người đầu tiên tùy hỉ.
- Phần hai : chỉ người tùy hỉ sau khi đã so đọ. 
Văn phần đầu lại chia làm ba mục :
a) Mục đầu thuyết minh về lúc ban đầu.
b) Mục hai thuyết minh về chốn đi tới (vãng xứ).
c) Mục cuối thuyết minh về việc lần lượt đi tới các ngõ ngách. 
* Chữ [陌] Mạch, theo sách Ngọc Thiên là chỉ đường ruộng theo hướng Đông Tây. Vậy Mạch có nghĩa như Đạo, tức là đường vậy.
*
-Kinh văn : “Nếu bốn trăm vạn ức” tới “đủ tám mươi năm rồi”. 
Tán rằng : dưới là cảnh được so sánh. Trong có bốn phần : 
1. Chủng loại số lượng chúng sinh.
2. Các dụng cụ được bố thí.
3. Tuổi tác.
4. Đắc đạo
Đây là ba phần đầu. 
Trong phần nói về chủng loại chúng sinh có hai phần :
- Phần 1 : tách riêng ra mà bảo thì có năm môn :
a) Lục thú (sáu nẻo chúng sinh).
b) Tứ sinh (bốn loại chúng sinh, sinh ra theo bốn cách khác nhau).
c) Hình loại.
d) Tư tưởng khác nhau (tưởng thù).
e) Số lượng chân khác nhau (túc dị). 
Nghĩa của các môn này như chương khác đã nói.
“Vàng Diêm phù đề” : Diêm phù đề là tên loại cây ở Thiệm bộ châu, ở dưới nước gần cây này tại bờ bắc châu này có loại tử kim ánh sáng át cả ánh mặt trời, mặt trăng cho nên lấy tên cây ấy mà đặt tên cho loại vàng đó.
- Phần 2 : đoạn từ “Các loại chúng sinh như vậy” trở xuống : kết luận.
*
-Kinh văn : “Mà nghĩ như vầy” tới “đủ tám giải thoát”. 
Tán rằng : đây là khiến cho đắc đạo. Trong có hai mục :
1) Khởi niệm.
2) Hóa đạo.
*
-Kinh văn : “Ý ngươi thế nào ?” tới “há phải là nhiều chăng ?”. 
Tán rằng : đây là chính thức đặt câu hỏi.
*
-Kinh văn : “Di Lặc bạch Phật” tới “quả A la hán”. 
Tán rằng : đây là Di Lặc đáp. Thế quả đã nhiều, huống hồ lại còn khiến đắc thánh (quả).
*
-Kinh văn : “Phật bảo Di Lặc” tới “điều chẳng thể biết”. 
Tán rằng : dưới là Phật dạy về thành tựu. Có hai phần :
1) Đầu tiên : thành tựu của người thứ năm mươi.
2) Sau đó : thành tựu của người thứ nhất. 
Đây là phần đầu.
Một niệm tùy hỉ, khiến sẽ chứng được Bồ đề. Số chúng sinh được giáo hóa sẽ gấp bội số trên. Cho nên sẽ được nhiều phúc. 
Khiến đắc quả A la hán, thì chẳng thể thành Phật để tế độ rộng rãi cho chúng sinh, cho nên phúc sẽ kém. 
Cũng như so sánh tướng Phạm âm của Phật với tướng âm thanh của phàm phu.
*
-Kinh văn : “A Dật Đa” tới “chẳng thể so sánh được”. 
Tán rằng : dưới là thành thứ nhất. Văn chia làm năm phần :
- Phần đầu : thuyết minh chung về người đầu tiên tùy hỉ công đức hơn người thứ 50 nêu ở phần trước không gì sánh nổi.
- Phần thứ hai : quả tùy hỉ của người đi nghe pháp.
- Phần thứ ba : quả tùy hỉ của người khuyên người khác nghe, hoặc chia chỗ cho người khác ngồi nghe pháp.
- Phần thứ tư : quả tùy hỉ của người vâng lời đi nghe pháp.
- Phần thứ năm : nêu cái kém để thành tựu cái hơn. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Lại nữa, A Dật Đa” tới “chốn nơi ngồi”. 
Tán rằng : đây là phần hai và phần ba : quả tùy hỉ nghe pháp và quả tùy hỉ khuyên người khác nghe pháp : cũng được lục thông, tòa kim cương
Đây là căn cứ vào thế quả, chẳng phải là xuất thế quả. Nếu có bệnh thì được phép nằm nghe, đây là căn cứ vào lúc chẳng có bệnh, chỗ rộng thì chỉ khuyên nên ngồi mà nghe, chỗ hẹp thì khuyên chia chỗ mà ngồi nghe.
*
-Kinh văn : “A Dật Đa” tới “cùng sinh một chỗ”. 
Tán rằng : dưới là phần thứ tư : quả tùy hỉ thụ giáo đi nghe pháp. Có ba mục :
- Mục đầu : nói rõ được thiện hữu tốt.
- Mục hai : thuyết minh về phúc tuệ trang nghiêm.
- Mục cuối : thấy Phật, nghe pháp
Đây là mục đầu : được bạn hiểu pháp làm thiện hữu.
*
-Kinh văn : “Lợi căn trí tuệ” tới “không có những điều đáng ghét”. 
Tán rằng : dưới là phúc tuệ trang nghiêm, đó là lợi căn trí tuệ vậy. Các thứ khác đều bao gồm trong phúc. Trong phúc có 5 thứ :
1) Thanh tướng (tướng giọng nói).
2) Khẩu tướng (tướng miệng).
3) Tị tướng (tướng mũi).
4) Diện tướng (tướng mặt).
5) Chúng tướng (các tướng mạo). 
Đoạn từ “trăm ngàn vạn đời” trở xuống : là nói về các quả (khác). 
Khẩu tướng có 5 thứ :
1/- Khí (hơi thở).
2/- Thiệt (lưỡi).
3/- Lợi, vòm miệng v.v… không có bệnh.
4/- Răng không có 6 khuyết tật xấu.
5/- Môi không có 10 tướng xấu. 
“Chẳng vẩu chẳng ngắn” : 
* Chữ Khiên [褰] ở đây có nghĩa là khểnh, vẩu (chỉ răng). Chữ Súc [縮] ở đây là ngắn (vốn chữ này nghĩa là rút ngắn). 
“Chẳng thô tháp” : có nghĩa là nhỏ mịn. 
“Chẳng lở loét (miệng)” : 
* Chữ [ ] đọc là Chẩn, chỉ mụn nhọt ở môi. 
Có bản chép là “môi khít chẳng có mụn nhọt”.
“Chẳng méo” : có nghĩa là miệng chẳng méo. 
* Chữ [ ] đọc là Khỏa (thường đọc là Oa) : méo miệng.
*
-Kinh văn : “Mũi chẳng tẹt dí” tới “tướng chẳng đáng ưa”. 
Tán rằng : đây là tướng mũi và tướng mặt. 
“Biển thê” : vốn có nghĩa là mỏng (bẹt), ở đây chỉ mũi tẹt dí.
* Chữ [ ] đọc là Biển, vốn nên viết là [遍]. Chữ [睇] đọc là Thê, vốn nên viết là [ ]. 
“Khúc lệ” : có nghĩa là gãy gập. 
*Hai chữ [窊曲] đọc là Oa Khúc . [窊] Oa : có nghĩa là lõm xuống. Chữ [曲] Khúc : có nghĩa là “cong vạy”, nghĩa như chữ [枉] Uổng. Chữ [細] Tế, nghĩa như Tiểu [小], nghĩa là nhỏ.
*
-Kinh văn : “Môi, lưỡi, răng, lợi” tới “tướng người đầy đủ”. 
Tán rằng : đây là các tướng (khác), có sáu.
*
-Kinh văn : “Đời đời sinh ra” tới “tin tưởng tiếp thụ sự dạy bảo (của Phật)”. 
Tán rằng : đây là thấy Phật nghe pháp.
*
-Kinh văn : “A Dật Đa” tới “tu hành đúng như lời (Phật) thuyết”. 
Tán rằng : đây là phần thứ năm : nêu cái kém để thành tựu cái hơn.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “chẳng thể làm thí dụ”. 
Tán rằng : đây là 18 tụng, chia làm hai phần :
- 8 tụng đầu : Bàng tùy hỉ.
- 10 tụng sau : Chính tùy hỉ
Đây là phần đầu. Có ba mục :
+ 2 tụng đầu : nêu lên việc tùy hỉ.
+ 5 tụng sau : so sánh.

+ 1 tụng cuối : kết luận thành tựu.
*
-Kinh văn : “Nghe lần hồi như vậy” tới “thường từ miệng đó ra”. 
Tán rằng : dưới là 10 tụng, tụng về Chính tùy hỉ. Có 5 phần, đây có 2 phần :
- 1 tụng : thuyết minh chung về người đầu tiên tùy hỉ.
- 5 tụng : tụng về người tùy hỉ vâng lời đi nghe (pháp).
*
-Kinh văn : “Nếu cố tới tăng phường” tới “phúc ấy chẳng thể lường”. 
Tán rằng : đây có ba phần :
- 2 tụng đầu : tùy hỉ nghe pháp.
- 1 tụng sau : tùy hỉ chia chỗ khuyên người khác nghe.
- 1 tụng cuối : nêu cái kém để thành tựu cái hơn.

*** 

PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Trong sáu phẩm nói về người có khả năng tu hành trước đây, đã nói về phúc của người gián tiếp có khả năng tu hành, chưa nói về phúc của Pháp sư trực tiếp có khả năng tu hành. Nay chính thức thuyết minh về điều này. Cho nên mới có phẩm này.
2. Hai phẩm dưới nói rõ Chính y hành, phúc quả nhiều ít bao nhiêu. Trong đó, phẩm đầu thuyết minh chung về đắc quả nhiều ít bao nhiêu, phẩm sau dẫn đã chứng thành (đắc quả). Cho nên mới có phẩm này.
3. Luận giải rằng : Pháp lực có năm loại, loại thứ năm là Đọc tụng trì thuyết. Phẩm Thường Tinh Tiến đã thị hiện rõ. Trong phẩm này Phật bảo với Thường Tinh Tiến về công đức của Trì thuyết v.v… Cho nên mới có phẩm này. 
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 
Y theo pháp mà tu hành, có thể làm mẫu mực, cho nên gọi là “Pháp sư”. 
Chỉ nói về người năng hành, chứ chẳng phải là nói về pháp sở hành. 
Phẩm này nói rõ công đức của Pháp sư, cho nên gọi là phẩm “Pháp Sư Công Đức”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : vì sao trong phẩm Pháp Sư trước đây thì Phật bảo Dược Vương ; trong các phẩm Bảo Tháp, Thiên Thụ thì Phật bảo các Bồ tátbốn chúng trời người ; trong phẩm An Lạc Hạnh thì Phật chỉ bảo một mình ngài Văn Thù ; trong các phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phân Biệt Công Đức, Tùy Hỉ Công Đức thì Phật chỉ bảo riêng một mình ngài Di Lặc, thế mà phẩm Pháp Sư Công Đức này thì Phật lại bảo Thường Tinh Tiến, mà chẳng bảo các vị khác ? 
Đáp : Phẩm Pháp Sư thuyết minh về hai loại thầy: nhân và pháp. Dược Vương trước kia chẳng tiếc thân mệnh để hoằng dương Kinh pháp, lấy pháp làm thầy, lấy thân làm Pháp sư. Bởi vậy Phật mới bảo riêng Dược Vương.
Phẩm Bảo Tháp nói về pháp chứng, phẩm Thiên Thụ nói về nhân chứng, cốt để khuyến khích mọi người, cho nên Phật đã bảo chung. 
Phẩm An Lạc Hạnh thuyết minh về ba nghiệp thiện hành để tránh sự hủy hoại thương tổn, ngài Văn Thù thường khuyên chúng sinh tu hành, thường làm bậc thiện hữu của chúng sinh, bản thân ngài cũng tự mình đi đầu trong việc tu hành, cho nên Phật chỉ bảo riêng ngài Văn Thù
Phẩm Thọ Lượng thuyết minh về ba Phật Bồ đề. Phẩm Phân Biệt Công Đức thuyết minh về thứ bậc chứng đạo. Phẩm Tùy Hỉ Công Đức so sánh khuyến khích mọi người mong cầu Phật quả. Nếu tự mình chẳng phải là bậc địa vị ngang với Chính giác, trí tuệ cỡ bậc đại thánh thì làm cách nào mà biết được sự huyền vi của chân hóa, xét tỏ được sự viên chứng của đạo đức ? Cho nên ba phẩm này Phật chỉ bảo riêng cho ngài Di Lặc
Phẩm này cũng có thể bảo chung cả ngài Di Lặc nhưng vì ngài Thường Tịnh Tiến về Danh và Hạnh cả hai đều phù hợp, cho nên Phật mới bảo riêng Thường Tinh Tiến. 
Tu hành diệu hạnh của ngũ sư, thu được thắng đức sáu ngàn. Nếu tự mình chẳng thật tu hành thành đạt từ kiếp trước thì chẳng chứng được, và nếu chẳng thường xuyên tinh tiến thì cũng chẳng chứng được. Há phải là do lười nhác chơi bời mà có thể thành tựu được ? Cho nên Phật chỉ bảo riêng ngài Thường Tinh Tiến vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “nếu sao chép”. 
Tán rằng : văn toàn phẩm chia làm ba phần : 
1. Phần đầu : bảo rõ các loại tu hành Pháp sư khác nhau.
2. Phần hai : nói rõ công đức sẽ đạt được nhiều ít là bao nhiêu.
3. Phần cuối : nói rõ quả dụng thù thắng của sáu căn.
Đây là phần đầu.
Căn cứ vào thực tế thì Pháp sư tổng cộng có mười loại. Đây chỉ nói sơ qua về năm loại :
1) Trì. 4) Thuyết.
2) Đọc. 5) Viết (kinh).
3) Tụng.
Để lệ chứng năm loại khác là : Cúng dường, Thí tha (bố thí cho người khác), Thính văn (nghe kinh), Tư duy, Tu tập cũng đều là Pháp sư. Ba loại đầu dễ nên chẳng bàn, hai loại cuối khó mà chẳng thuyết, nêu năm loại giữa để làm lệ chứng về khó dễ.
*
-Kinh văn : “Người ấy sẽ được” tới “đều khiến thanh tịnh”. 
Tán rằng : đây là nói về công đức đạt được nhiều ítø bao nhiêu : đầu tiên là phân tích, sau đó là kết luận
Xưa có 2 cách giải thích, nay có 4 cách :
I. Hai cách giải thích theo xưa :

I.1. Cách thứ nhất :
Thập thiện là gốc, mỗi thiện đều có sự trợ giúp của chín thiện khác thành tựu cho. Mỗi thiện đều thành tựu 10 hạnh, mỗi hành đều có 4 môn : 
- Tự tác (tự làm). 
- Giáo tha (dạy bảo người khác). 
- Tán thán thắng pháp
- Tán hành thập thiện
Gộp cả lại thì thành 400. Bốn thứ này, mỗi thứ đều có 3 bậc tu là : thượng, trung, hạ, nên nhân lên thành 1200. 
Ba căn Nhĩ (tai), Thiệt (lưỡi), Ý : Thính văn (nghe kinh), đàm thuyết kinh pháp, tâm đắc pháp nghĩa, sức tu hành thắng trội đầy đủ ba bậc, đều 1200. Còn ba căn khác kém cỏi, đều không có bậc thượng, cho nên mỗi căn chỉ có 800. Nếu y vào thập thiện, lấy đó làm đầu thì tu thành đức này. Công đức sáu căn phải là như vậy. Các kinh khác cũng thế, đâu phải chỉ riêng kinh này.
I.2. Cách thứ hai : 
Sáu căn mỗi căn đều có 100 phúc, mỗi phúc đều được trang nghiêm bằng 10 thiện, nhân lên thì thành 1.000. Sáu căn nhân với số này thì tổng cộng thành 6.000. Ba căn trội hơn, thì mỗi căn được tăng thêm 200. Ba căn kém hơn, thì mỗi căn giảm bớt 200. 
Cách giải thích xưa dẫn kinh Chính Pháp Hoa và Trang Nghiêm luận, thì sáu phẩm mỗi phẩm 1.000. Vậy ba căn Nhãn, Tị, Thân đều cho thêm 200, số ấy là sao ? Thêm nữa, 100 phúc là quả đã cảm ứng được gấp 10 lần của nhân là thập thiện
Nay vì nhân trợ chưa thấy do đâu, cho nên ở đây giải thích lại cho đúng. Trong bản luận chỉ nói ba căn mỗi căn đều 1.200, còn căn khác mỗi căn chỉ có 800. Không được đem Trang Nghiêm luận đánh đồng với kinh này. Hơn nữa lại chưa đối chiếu văn bản của 2 sách đó. 
II. Bốn cách giải thích theo nay :
II.1. Cách thứ nhất :
Trong kinh này tu 10 pháp hành
1) Thư tả (sao chép kinh văn). 
2) Cúng dàng. 
3) Thí tha (bố thí cho người khác). 
4) Thính văn (nghe giảng kinh này). 
5) Phi độc (giở đọc kinh này). 
6) Thụ trì
7) Khai diễn
8) Phúng tụng
9) Tư duy
10) Tu tập
Ở trong 10 thứ này, mỗi mỗi giúp nhau, chuyển thành 100 hành. Trăm hành mỗi hành có 4 thứ : 
a) Tự tác.
b) Giáo tha.
c) Tán lệ (tức tán thán pháp thắng).
d) Khánh úy (tức tán thán hành thập thiện).
Tổng cộng nhân lên thì thành 400 thứ, mỗi thứ đều có 3 bậc tu tập, thành ra 1200. Ba căn trội, thì mỗi căn đều 1200. Ba căn kém, không có thượng phẩm, cho nên mỗi căn chỉ có 800. 
II.2. Cách thứ hai :
Nhân trong 10 pháp hành ở kinh này mỗi mỗi đều dùng 10 thiện để giúp cho, như vậy mười lần mười đầy đủ thành 100. Nhân với 4 thứ : Tự tác, Giáo tha, Tán lệ, Khánh úy thì thành 400. Nhân với 3 bậc tu tập thì thành 1200. Ba căn trội kém tăng giảm như trên. Kinh này thắng diệu, riêng thành đức này. Các kinh khác chẳng thế, cho nên không có đức này. Văn này lược đi cho nên chỉ thuyết về 5 loại Pháp sư, nhưng thực ra là có 10 loại, loại nào cũng đứng đầu, còn các hành khác giúp đỡ tác thành, đều được đức đó. Thêm nữa, theo kinh này thì 6 căn đều chỉ nói về 5 loại Pháp sư, chứ chẳng phải là 10 loại. 
III.3. Cách thứ ba :
Năm loại Pháp sư này mỗi loại kiêm tu 10 thiện, thì thành 50. Tự tác, Giáo tha, Tán lệ, Khánh úy là 4 môn, nhân với 50, thì thành 200. Mỗi một căn môn tuy đều 200. Ba căn Nhãn (mắt), Tị (mũi), Thân vì kém cỏi cho nên đều có ba căn Nhĩ, Thiệt, Ý giúp đỡ cho, bởi cùng loại kém như nhau thì chẳng giúp được nhau, căn trợ gộp với căn gốc thì thành 800. Nhĩ, Thiệt, Ý thắng trội cho nên có thể dẫn được tam trợ, tức Nhĩ, Thiệt, Ý, thành ra 1200. 
II.4. Cách thứ tư :
Chưa thấy văn thuyết, chẳng thể đoán mò. Kinh nói rằng : “dùng công đức này mà trang nghiêm cho sáu căn, khiến đều thanh tịnh”. 
Luận rằng : các người phàm phu nhờ lực của kinh này mà được cái dụng thù thắng của căn, tuy chưa nhập vị Sơ địa – giống như trong kinh đã nói – “mới chỉ dùng mắt thịt do cha mẹ sinh ra, mà đã thấy được tam thiên đại thiên thế giới v.v…”
Về điều này, có người giải thích đó là do ở tại Thập trụ Thập hạnh, Thập hồi hướng, chứ chẳng phải là ở tại Thập tín, vì lực còn yếu. 
Nay giải thích rằng : chỉ tại Tứ thiện căn vị vì dùng mắt thịt mà thấy được đại thiên. Giải thoát phần vị chưa thể như thế. Vì Giải thoát phần vị chỉ thấy được một châu trong cõi của một hóa Phật, còn Quyết trạch phần vị mới thấy được đại thiên trong cõi của một hóa Phật. Tức như kinh nói rằng : “Tam thiên đại thiên là cõi của một hóa Phật”, cho nên biết rằng Quyết trạch phần mới thấy được đại thiên thế giới. Chẳng thế thì cõi của một hóa Phật là nói về cõi của ai thấy ? 
Luận nói rằng : “Hơn nữa, sáu căn thanh tịnh” : có nghĩa là ở trong mỗi căn đều có đủ cả : thấy sắc, nghe thanh, biết hương, vị, xúc v.v…, vì các căn hỗ dụng.
“Mắt thấy” thì có thể ngửi thấy mùi thơm có thể biết được. Như trong kinh nói : “Do ngửi thấy mùi mà biết Thích Đề Hoàn Nhân ở trên điện đẹp, năm dục vui sướng, ngồi ở trên điện”. Sắc ứng với mắt thấy, mà mũi có thể biết được, cho đến thuyết pháp, ngửi mùi thơm mà biết. Đó là trí cảnh Tị căn biết. 
Thuyết pháp ứng với cái biết của trí, dùng Tị căn biết. Nghĩa này có hai : 
1) Chỉ ở Thập địa thì các căn mới hỗ dụng. Duy Thức (luận) v.v… nói rằng : “đắc vị tự tại thì các căn hỗ dụng, một căn khởi biết duyên vào mọi cảnh”. Cho nên chẳng phải là Địa tiền mà có thể gọi là tự tại các căn hỗ dụng được. Điều mà trước đây nói là “nhìn thấy nghe thấy đại thiên” là chung cho cả Địa tiền vị. Sơ địa trở lên thấy trăm thế giới; vì chẳng phải chỉ là tam thiên. Thêm nữa, trên Sơ địa thực ra thấy được 100 tam thiên đại thiên. Căn cứ vào cõi của một hóa Phật, mà tạm nói là thấy được đại thiên. Về lý không sai. 
2) Các căn hỗ dụng, đắc đại tự tại chỉ tại Thập địa. Duy Thức (luận) v.v… giải thích như vậy. Nếu Gia hạnh lực phần cũng được thì Địa tiền cũng được.
Cho nên bản luận nói : Địa tiền mà đắc thì đắc tại phàm phu (vị), vì cho thông với hỗ dụng ở dưới. (Địa) tiền phàm phu đắc (Địa) tiền công đức. Nay trên Sơ địa, các căn hỗ dụng, cho nên chẳng phải Địa tiền có hỗ dụng.
*
-Kinh văn : “Thiện nam tử này” tới “thấy hết biết hết”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba : thuyết minh riêng về tác dụng thù thắng của sáu căn. 
Đây là phần trường hàng nói về Nhãn căn, có ba ý : 
1) Mắt thịt chẳng phải thần thông, mà đều biết cả. 
2) Tầm nhìn thấy gần hay xa. 
3) Thấy nghiệp báo.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “sức mắt thịt như vậy”. 
Tán rằng : đây là 5 tụng, chia làm bốn phần : 
1) Một tụng : dặn phải lắng nghe. 
2) Một tụng về số. 
3) Hai tụng về gần xa. 
4) Một tụng về chúng sinh và kết. 
Tiểu giáo (tức tiểu thừa giáo) nói rằng : thiên nhãn của nhị thừa thấy được đại thiên. Nay nói mắt phàm phu nhờ lực trì kinh này mà thấy được đại thiên. Bồ tát Sơ địa thấy được 100 đại thiên thế giới. Sáu căn công đức nhiều ít khác nhau nhưng cảnh giới sở đắc là đại thiên không khác. 
Tu nhân có hơn có kém, quả đức chẳng giống như nhau. Thức dụng chẳng có sai biệt, đại thiên đều bằng như nhau. Thêm nữa, đức là thành tựu bên trong, do nhân mà tăng giảm, Cảnh là cõi của một hóa Phật chỉ có ở bên ngoài, nên lượng giống nhau. 
Chỉ như nhị thừa chấp một bên cho nên mới có nhị thiên tam thiên. Điều mà hàng Túc mệnh thiên nhãn biết được về quá khứvị lai, đều được tám vạn kiếp. Lại như Sơ địa thiên nhãn thấy được 100 đại thiên hơn hẳn nhị thừa, nhưng Túc mệnh sinh tử chỉ biết trăm kiếp, kém hẳn nhị thừa. Chẳng thể nhất loạt như nhau.
*
-Kinh văn : “Lại nữa, Thường Tinh Tiến” tới “mà chẳng hoại nhĩ căn”. 
Tán rằng : đây là Nhĩ căn. Trường hàng có bốn : 
1) Lượng. 
2) Cảnh giới
3) Sở văn sai biệt (kết quả nghe được khác nhau). 
4) Kết thắng (kết luận về tính thắng trội). 
Sai biệt có bảy loại : 
1/ Mười hai tạp khởi thanh. 
2/ Mười hai lục đối thanh.
3/ Tám bát bộ thanh.
4/ Ba tam tai thanh. 
5/ Tam ác thú thanh. 
6/ Nhị xuất gia thanh. 
7/ Tứ thánh nhân thanh. 
Bồ Tát Địa luận nói : Bồ tát tu lâu tại thắng giải hành vị mà chưa chứng nghiệm, chú thuật dùng đều hiệu nghiệm cho nên sáu căn thanh tịnh, ắt tại Địa tiền phàm phu thượng vị, chẳng phải là ở hạ trung vị.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “âm thanh cõi tam thiên”. 
Tán rằng : đây là 18 tụng, chia làm ba phần : 
- 1 tụng đầu : nêu lên. 
- 14 tụng sau : tụng về phần nói trên. 
- 3 tụng cuối : kết luận về sự thắng trội. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Tiếng voi, ngựa, xe, trâu” tới “thảy đều nghe được cả”. 
Tán rằng : đây là phần hai : tụng về phần trên, gồm 14 tụng chia làm bốn mục : 
- Đầu tiên là 8 tụng, tụng về âm thanh của Dục giới.
- Thứ đến 1 tụng rưỡi, tụng về âm thanhSắc giới.
- Thứ nữa 1 tụng rưỡi, tụng về âm thanh xuất gia
- Cuối cùng là 3 tụng, tụng về âm thanh của hiền thánh
“Trong mười phương thế giới,
Tiếng chim muông gọi nhau”
“Mười phương thế giới” : ở đây là cõi 10 phương của tứ thiên hạ trong 1 tam thiên giới, chứ chẳng phải số đại thiên giới trong 10 phương. 
Thêm nữa, đắc tam thiên, đó là Nhĩ căn phàm phu. Đây là Thập địa cho đến Phật vị, cho nên đắc thập phương cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Tam thiên đại thiên giới” tới “công đức đã như vậy”. 
Tán rằng : đây là kết luận về sự thắng trội.
*
-Kinh văn : “Lại nữa, Thường Tinh Tiến” tới “đủ các loại hương”. 
Tán rằng : đây là Tị căn, trường hàng có bốn phần : 
1) Đức lượng, 3) Sai biệt.
2) Cảnh lượng. 4) Kết thành.
Đây là hai phần đầu.
Trên dưới đã xa, thì làm sao mà có thể biết được ? Nếu căn xa cảnh thì cái biết chẳng tới cảnh để biết được. Hoại căn chẳng hoại cảnh. Nếu cái biết tới được cảnh để biết, há chẳng phải mọi mùi hương đều tới căn được ư ? 
Luận rằng : đó là vì trí cảnh Tị căn biết. Định trí từ xa mà biết, vì y vào Tị căn mà biết cho nên gọi là ngửi thấy mùi hương, chứ chẳng phải là cái mũi thực sự gặp được cảnh mà biết. Thêm nữa, các căn hỗ dụng, mũi còn thấy được sắc huống hồ còn y vào trí của mắt của tai, mà chẳng biết được hương của cả đại thiên ư ? Được thứ giả tựa như hương, chứ chẳng phải là được thực thể. Vì nếu lìa cảnh mà biết được cái thể, thì làm hoại tính của cảnh.
*
-Kinh văn : “Hương hoa Tu mạn na” tới “ghi nhớ chẳng sai”. 
Tán rằng : đây là hai phần : 
- Phần thứ ba : Sai biệt
- Phần thứ tư : Kết thành, đó là đoạn từ “tuy ngửi thấy mùi hương này” trở xuống. 
Sai biệt có hai : 
1. Phàm. 2. Thánh. 
Trong phàm lại có hai : 
a) Dục giới. b) Sắc giới
Dục giới lại có hai : 
1) Phi thiên. 2) Thiên. 
Phi thiên có hai : 
- Cảnh vật. - Sinh thân
Thiên cũng có hai : 
+ Cảnh vật. + Thiên thân
Sắc giới vì sao lại có hương ? Đây là thông quả hương, chẳng phải là nghiệp quả
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Tị căn của Bồ tát ngửi thấy hương của cung điện Vô sắc giới”. 
Đây là căn cứ vào sự hình thể dựa theo cái do Thông lực biến thành, còn đó thì căn cứ vào sự hình thể tương tự cái do Định lực biến thành. Cho nên chẳng trái gì nhau. 
Song Du Già nói : “Phải nên biết rằng thắng định quả sắc chỉ có tướng hiển sắc v.v…” . Vì sinh nhân của hương đó thiếu, lại vô dụng cho nên nương nhờ vào Sắc giới. Vì bản chất của Định, nếu biến hóa ra Định cảnh thì không hương, vị ; phải dựa vào Dục cảnh mới có. 
Thêm nữa, nếu Gia hành tâm kém, sinh nhân thiếu thì không có. Nếu Gia hành tâm mạnh, sinh nhân có, thì có. Bồ tát có, nhị thừa không. Thánh nhân có, phàm phu không. Đệ tử Phật có, bọn ngoại đạo không, vì yếu kém vậy. 
Song Du Già cũng nói : “Thắng định quả sắc đối với mọi sắc đều được tự tại”. Cho nên biết Định quả thông biến hết thảy.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “được tướng mũi này trước”. 
Tán rằng : dưới đây là 30 tụng, được chia làm ba phần : 
- 1 tụng : nêu lên. 
- 28 tụng : tụng về phần trên. 
- 1 tụng : kết. 
Trong 28 tụng về phần trên, lại chia làm hai : 
a) 23 tụng đầu : tụng về phàm hương. 
b) 5 tụng cuối : tụng về thánh hương. 
Phàm hương lại có hai : 
+ 21 tụng : tụng Dục giới hương.
+ 2 tụng : tụng Sắc giới hương. 
Dục giới chia làm hai phần : 
- Phần đầu gồm 7 tụng, thuyết minh sơ qua về hương của người, trời.
- Phần sau gồm 14 tụng, thuyết minh kỹ về hương của người, trời. 
Phần đầu này lại có hai : 
a/- 5 tụng lược tụng về hương của cảnh vật và hương của chúng sinh trong cõi trời
b/- 2 tụng lược tụng về hương của chúng sinh và hương của cảnh vật trong cõi trời
Trong 14 tụng thuyết minh rộng về hương, chia làm hai phần : 
Ÿ 9 tụng đầu : tụng về hương trong cõi người
Ÿ 5 tụng sau : tụng về hương trong cõi trời
Trong cõi người có ba : 
a. 2 tụng đầu : hương cảnh vật. 
b. 5 tụng sau : hương chúng sinh
c. 2 tụng cuối : hương phục tàng. 
Trong 5 tụng về (hương) chúng sinh
- 2 tụng đầu : nói về hiện sinh hương.
- 3 tụng sau : tụng về ẩn sinh hương. 
Năm tụng tụng về hương trong cõi trời chia làm bốn : 
1/- Một tụng về hoa.
2/- Hai tụng về cung. 
3/- Một tụng về trời.
4/- Một tụng về vui đùa (hí). 
Trong năm tụng về thánh hương, chia làm bốn phần : 
a) Hai tụng Tỳ kheo
b) Một tụng Bồ tát
c) Một tụng Phật. 
d) Một tụng chúng sinh.
*
-Kinh văn : “Thứ nữa, Thường Tinh Tiến” tới “không thứ gì không ngon”. 
Tán rằng : đây là Thiệt căn. Trường hàng có ba : 
1) Đức lượng. 
2) Căn dụng (tác dụng của thiệt căn). 
3) Thiệt cụ dụng (tác dụng cụ thể của lưỡi). 
Đây là hai phần đầu.
Đây không có cảnh lượng. Cớ sao chẳng giống Tị căn có thể biết được tam thiên ? Đã chẳng thể biết, cớ sao công đức lại thành 1200 ? Thiệt căn lẽ ra cũng phải được nếm mùi vị của tam thiên giới, chỉ vì tụng văn nói về Thiệt cụ dụng : 
“Người nói kinh pháp đó,
Nếu muốn dùng diệu âm,
Khắp cả cõi tam thiên,
Tùy ý đều đến được”.
Cho nên chẳng thuyết về việc nếm vị. Hương lìa chất thì có thể có. Vị lìa chất thì sẽ là không. Cho nên chẳng thuyết về nếm được vị của Tam thiên giới. Trong kinh cũng nói Phật có Tị thiệt thông (lực thần thông của mũi, lưỡi), còn hơn là cả nhãn nhĩ.
*
-Kinh văn : “Nếu dùng Thiệt căn” tới “pháp âm thâm diệu”. 
Tán rằng : dưới đây là Thiệt cụ dụng, chia làm 5 mục : 
1) Khéo thuyết pháp
2) Nhiều chúng tới nghe. 
3) Được cúng dàng. 
4) Gần hiền thánh
5) Ủng hộ thuyết pháp
Mục nhiều chúng tới nghe có ba : 
a) Trời. 
b) Rồng v.v… 
c) Tứ chúng tới nghe.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “hoặc có lúc hiện thân”. 
Tán rằng : dưới là 8 tụng rưỡi, chia làm hai : 
- Một tụng đầu, nói về Thiệt căn dụng. 
- Các tụng còn lại, tụng về Thiệt cụ dụng. 
Thiệt cụ dụng chia làm bốn mục : 
a) 1 tụng rưỡi : khéo thuyết pháp
b) 3 tụng : chúng tới nghe. 
c) 1 tụng : cúng dàng. 
d) 2 tụng : hiền thánh ủng hộ.
*
-Kinh văn : “Lại nữa, Thường Tinh Tiến” tới “hiện sắc tướng của mình”. 
Tán rằng : đây là Thân (căn), văn trường hàng có bốn : 
1) Đức lượng. 
2) Hỉ kiến (thích thấy). 
3) Cảnh lượng. 
4) Sai biệt
Sai biệt có ba : 
a) Khí giới. b) Thượng hạ. c) Hiền thánh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “hết thảy hiện ở trong”. 
Tán rằng : đây là 7 tụng rưỡi, chia làm năm phần : 
1) Một tụng : hỉ kiến
2) Một tụng rưỡi : độc kiến. 
3) Một tụng rưỡi : cảnh lượng. 
4) Hai tụng rưỡi : sai biệt
5) Một tụng : kết thắng. 
Sai biệt có hai : 
a) Một tụng rưỡi : cảnh. 
b) Một tụng : hiền thánh.
*
-Kinh văn : “Lại nữa, Thường Tinh Tiến” tới “điều đã nói ở trong kinh”. 
Tán rằng : đây là Ý (căn), văn trường hàng có bảy : 
1) Đức lượng. 5) Cảnh lượng. 
2) Xa rộng. 6) Hiển thắng. 
3) Vô cùng. 7) Chân thực
4) Thuận lý. 
Trong cái vô cùng, thì “một tháng, bốn tháng v.v…” là tạm nêu các phần đều nhau của thời gian năm tháng.
Trong cái sai biệt thì :
- “Sở hành của tâm” : là cảnh giới sở thủ.
- “Tâm sở động tác” : là hành tướng của tam tính.
- “Tâm sở hý luận” : là ngôn thuyết phân biệt tính của các pháp.
Hoặc là thân, ngữ, ý cứ theo thứ tự mà phối hợp.

*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “nhất thời đều biết hết”. 
Tán rằng : dưới đây là 11 tụng, chia làm năm phần. Đây có ba phần : 
- 1 tụng rưỡi đầu : tụng về xa rộng. 
- Nửa tụng : tụng về vô cùng.
- 2 tụng : tụng về sai biệt.
*

-Kinh văn : “Mười phương vô số Phật” tới “trước đám đông không sợ”. 
Tán rằng : đây là phần thứ tư : có 4 tụng, tụng về chân thực, chia làm bốn : 
1) Một tụng : năng trì
2) Một tụng : chẳng quên.
3) Một tụng : như thuyết
4) Một tụng : vô úy (không sợ).
*
-Kinh văn : “Người trì kinh Pháp Hoa” tới “vì trì kinh Pháp Hoa”. 
Tán rằng : đây là phần thứ năm : có 3 tụng, tụng về hiển thắng (thể hiện sự thắng diệu), chia làm ba : 
1) Một tụng : hiển thắng. 
2) Một tụng : hỉ kiến
3) Một tụng : khéo thuyết. 
Sợ rằng văn rườm rà, nên chỉ phân tích những nét lớn khác với trường hàng, cứ phối hợp với trường hàng mà đọc thì sẽ hiểu hết.

*** 

PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý..
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Nói về người năng học hành tuy có sáu phẩm, nhưng chia làm bốn đoạn, đây là đoạn thứ tư thuyết minh về Phật tự thân xưa lúc ở vị trí tu nhân, hành an lạc hạnh, tu nhẫn nhục v.v…, lưu thông kinh này, nên được an lạc. Nay thuyết kinh này khuyến khích pháp hội đương thời, cho nên mới có phẩm này. 
2. Trong ba phẩm thuyết minh về quả chưa mãn, trước đã thuyết minh về sự tu hành cái hạnh sáu căn thanh tịnh, nhưng chưa biết người chứng đắc thực sự là ai ? Nay thuyết tự thân xưa tu hành hạnh đó, được sáu căn thanh tịnh để khuyến khích pháp hội đương thời, cho nên mới có phẩm này. 
3. Muốn nêu rõ thực hành an lạc hạnh thì uy thế sẽ không gì sánh nổi. Ta là Bất Khinh, thực hành an lạc hạnh, chúng sinh lúc đó có những hành động làm tổn hại đến ta, thoạt đầu tuy bị khổ, nhưng rồi nhờ lực của ta, họ đều chứng đắc Phật đạo. Huống hồ lại đích thân tự mình tu hành mà chẳng thành Phật được ư ? Nay thuyết về duyên này để làm lợi cho pháp hội đương thời, cho nên mới có phẩm này. 
4. Trong luận thuyết về sáu loại ký thì đây thuyết minh về Bồ tát đầy đủ nhân tu được dự ký, cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Thường” : có nghĩa là hằng. 
“Bất khinh” : có nghĩa là cung kính
Quan sát thấy bốn chúng ấy đều sẵn có nhân Phật tính, khuyến khích họ tu hành, ắt sẽ được thành Phật. Ba nghiệp luôn vững chắc cung kính ngưỡng mộ cho nên gọi là “Thường Bất Khinh”. 
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : vì sao phẩm này (Phật) chỉ bảo cho một mình Đắc Đại Thế
Đáp : vì muốn nói rõ uy thế của kinh này có thể khiến cho mọi người thuận theotu hành thì sẽ chóng được thành Phật, còn kẻ ác trái với kinh này cũng có thể chóng trừ được nỗi khổ của họ. Cho nên chỉ bảo riêng cho vị đó mà chẳng bảo người khác. 
-Hỏi : phẩm này cũng thuyết minh về Uy Âm Vương Phật, (thế mà) tại sao chỉ lấy Bất Khinh đặt tên phẩm ?
Đáp : Phật nhân tiện mà nói về vị đó, chứ chẳng phải là chủ yếu thuyết minh về vị đó.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “thân ý thanh tịnh”. 
Tán rằng : toàn văn phẩm này chia thành 4 phần : 
- Phần đầu : nhắc lại về tội phúc do nghịch hạnh thuận hạnh sinh ra trước đây để chỉ bảo cho mọi người
- Phần hai : nêu bật riêng về nhân tướng thuận nghịch đối với người trì kinh thuyết kinh
- Phần ba : kết hội xưa nay để chỉ cho mọi người tướng thuận nghịch
- Phần bốn : kết khuyên mọi người trừ nghịch hạnh, tu thuận hạnh. 
Đây là phần đầu. 
Tội thì như phẩm Thí Dụ trước. Công đức thì cũng như các phẩm trước (đã nói).
*
-Kinh văn : “Đắc Đại Thế” tới “đều cùng một danh hiệu”. 
Tán rằng : dưới là phần thứ hai : nêu bật riêng về nhân tướng nghịch thuận đối với người thuyết kinh, có ba : 
1. Đầu tiên nêu rõ thời tiết.
2. Thứ đến là Phật được gặp. 
3. Cuối cùng là nói rõ nhân tướng thuận nghịch đối với người năng hành
Đây là hai phần đầu.
Phật được gặp có hai loại :
a) Phật đầu tiên. b) Phật sau. 
Phật đầu tiên có 6 mục : 
1) Danh hiệu. 2) Kiếp. 
3) Nước. 5) Thọ trụ. 
4) Thuyết pháp. 6) Niết bàn
“Chư Phật cùng danh hiệu là Uy Âm vương” : nêu bật cái âm thanh thuyết kinh Pháp Hoa là thứ tôn quí thắng trội như vua, có uy thế lớn có thể khiến chúng sinh được lợi lạc lớn. Tức là điều mà Thường Bất Khinh chứng đắc lúc lâm chung. Đó là kinh Pháp Hoa này lợi ích to lớn.
*
-Kinh văn : “Vị Uy Âm Vương Như Lai đầu tiên” tới “có thế lực to lớn”. 
Tán rằng : dưới là nói rõ nhân tướng thuận nghịch đối với người năng hành
Trong đó có 8 phần : 
1) Kẻ ác tăng thế. 
2) Thiện sĩ thêm chăm. 
3) Bị lời xúc phạm, có thể nhẫn nhịn. 
4) Thân bị xâm hại, có thể chịu được. 
5) Tiếng lành đã nổi. 
6) Thắng quả bèn sinh. 
7) Kẻ ác theo sự giáo hóa. 
8) Thiện sĩ tăng đạo
Đây tức là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bây giờ có một” tới “vì sẽ thành Phật”. 
Tán rằng : đây là phần hai : Thiện sĩ thêm chăm. Có ba mục : 
1) Nêu danh. 
2) Giải thích danh. 
3) Nêu rõ về hạnh. 
Đó là đoạn từ “Vị tỳ kheo này” trở xuống. 
“Bồ tát tỳ kheo” : nêu rõ đây là Bồ tát chứ chẳng phải chỉ là tỳ kheo, nếu là tỳ kheo mà chẳng phải là Bồ tát thì chẳng phải là hạnh này, vì đầu tiên thì chẳng đáng trách, nhưng cuối cùng thì phạm giới
“Tôi rất kính các ngài, chẳng dám khinh mạn” : vì các ngài đều có Phật bản tính, là trụ chủng tính. Nên đây là kính báo thân Như Lai tạng
“Đều tu hành đạo Bồ tát sẽ được thành Phật” : có nghĩa là người có chủng tính, nếu khởi tập tính, phát tâm tu hành, ắt được thành Phật. Thêm nữa, vì y vào pháp thân Như lai tạng mà hết thảy đều có, nên tôi rất kính trọng các ngài. Nếu tu hành đạo Bồ tát, tôi tu tập báo thân Như lai tạng, thì sẽ được thành Phật.
Kinh Vô Úy Đức Nữ nói rằng : Bồ tát vì độ cho các chúng sinh kiêu mạn sân não, khiến họ được khởi tâm hồi hướng, hơn nữa để phát triển thêm cái gốc các thiện căn của chúng sinh, cho nên Bồ tát đã lễ các chúng sinh.
-Hỏi : vị Bồ tát tỳ kheo nàu hễ gặp bốn chúng thỉ việc đầu tiên là lễ. Lễ cả tỳ kheo nibạch y (chỉ người tại gia), như thế chẳng phạm (giới luật) ư ?
Đáp : Bồ tát tỳ kheo chẳng làm lễ đó, lễ thì có phạm. Nay làm lễ đó, sở dĩ chẳng phạm là vì Bồ tát đối với Tính tội ắt trì (giới) luật, nhưng đối với Già tội thì có phạm, vì để khuyến khích việc làm lợi cho đại chúng. Nếu chỉ là tỳ kheo chẳng phải là Bồ tát mà lễ thì có phạm, chẳng lễ thì không phạm. Thêm nữa, nếu lễ bốn chúng thì chẳng phạm, nếu chỉ lễ riêng một (chúng) thì sẽ khiếm khuyết. 
Lại nữa, (đó là) kính Phật tính chứ chẳng phải là lễ thân xác. Cho nên đã chẳng chuyên đọc tụng, cũng chẳng chuyên lễ bái, luôn cả hai sự đó. 
Tỳ kheo mới học lễ chân Duy Ma là vì chưa biết, vì chẳng phải là hạng cựu học. Nhưng có người giải thích rằng : tỳ kheo này chẳng thực hành việc đọc tụng mà chỉ lễ bái. Nếu thế thì lẽ ra phải nói rằng : chẳng đọc tụng kinh, chứ cần gì phải dùng chữ “Chuyên” nữa. Cho nên biết rằng : “chẳng chuyên đọc tụng, cũng không chỉ thực hành việc lễ bái”. Đó chính là ý trong này.
*
-Kinh văn : “Trong bốn chúng” tới “ngài sẽ thành Phật”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba : bị lời xúc phạm mà nhẫn nhịn được. Có hai mục : 
1) Bị lời xúc phạm
2) Có thể nhẫn nhịn được.
*
-Kinh văn : “Lúc nói lời này” tới “là Thường Bất Khinh” 
Tán rằng : đây là phần thứ tư : “thân bị xâm hại có thể chịu đựng được” và phần thứ năm “tiếng lành đã nổi”. 
Trên đây chính là Tứ thập tâm vị.
*
-Kinh văn : “Tỳ kheo này” tới “kinh Pháp Hoa này”. 
Tán rằng : đây là phần thứ sáu “thắng quả bèn sinh”, có ba ý : 
1) Nghe pháp, có thể thụ trì
2) Sáu căn thanh tịnh
3) Tăng thọ, thuyết pháp
Nếu Thường Bất Khinh chẳng giở đọc kinh Pháp Hoa trong thời Tượng pháp từ trước, thì há có thể vào lúc lâm chung nghe xong liền thụ trì ngay được ? Nếu trước chẳng tu nhân, thì quả làm sao mà sinh ra được ? Trước kia lễ báiTứ thập tâm vị. Nghe pháp căn tịnhTứ thiện căn vị. Vì tăng thọ mệnh nên được “sức đại thiện tịch”, dần thành Lý quán vì quán chân lý
*
-Kinh văn : “Bấy giờ, tăng thượng mạn” tới “Tam Miệu Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : đây là phần bảy “kẻ ác theo sự giáo hóa”. Có hai mục : 
1) Kẻ ác theo sự giáo hóa. 
2) Số được giáo hóa trở thành nhiều. 
“Đại thần thông lực” : (khiến) tăng thọ, căn tịnh.
“Nhạo thuyết biện lực” : (khiến) nhớ kệ, thuyết pháp
“Đại thiện tịch lực” : (khiến) dần dần thành đế quán, nghe pháp hiểu lý.
*
-Kinh văn : “Sau khi mệnh chung” tới “tâm không sợ gì”. 
Tán rằng : đây là phần thứ tám : (nói về) thiện sĩ tăng đạo. Có 5 phần, văn này có 4 : 
1) Gặp Phật thuyết pháp. 
2) Gặp Phật trì tụng. 
Hai thứ này tại phàm Tứ thập tâm vị. 
Do như vậy mà :
3) Được sáu căn thường tịnh, liền nhập Sơ địa
4) Trừ được năm điều sợ hãi, đạt được bốn vô úy
Cho nên biết là thường được sáu căn thanh tịnh, nhập trong Sơ địa.
Bồ tát lẽ ra phải trụ ở trong vòng sinh tử để hóa độ chúng sinh. Người thường gặp Phật thì chưa nhập Thập địa. Nếu chẳng gặp chư Phật thì như thuyền nát rò, tự mình chẳng thể độ, làm sao mà có thể độ cho người, như đem chút nước nóng đổ xuống ao băng lớn, ban đầu dẫu có làm tan một ít, nhưng sau đó lại đóng băng. Người chưa lìa được phiền não lại chẳng gặp Phật, mà làm việc lợi sinh thì cũng như thế. 
Kinh Hoa Nghiêm trong phần thuyết về Thập địa nói : “Bồ tát được Hoan hỉ địa, thì lìa xa mọi sự sợ hãi liền. Đó là nỗi sợ chẳng sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ sa vào đường ác, sợ uy đức đại chúng. Vì sao vậy ? 
Bồ tát đó lìa ngã tướng, cho nên ngay đến thân còn chẳng tham, huống hồ là các vật dụng. Cho nên Bồ tát không có nỗi sợ chẳng sống. 
Tâm chẳng hy vọng được cung kính cúng dàng, ta phải cúng dàng hết thảy chúng sinh, cung cấp cho họ những thứ mà họ cần, cho nên Bồ tát không sợ tiếng xấu
Vì lìa xa ngã kiến, không có ngã tướng, nên không có nỗi sợ chết
Lại nghĩ như vầy : nếu ta chết rồi, lúc tái sinh ắt sẽ trông thấy chư Phật, Bồ tát, cho nên không có nỗi sợ bị sa vào đường ác. 
Chí nguyện của ta không ai bằng được, huống chi là có sự trội hơn ! Cho nên không có nỗi sợ uy đức đại chúng”. 
Nếu theo cách giải thích của luận, thì Vô úy có hai loại : 
1) Vô sở úy của Bồ tát
2) Vô sở úy của Phật. 
Vô sở úy của Phật tức là Chính đẳng giác. Ở đây là Vô sở úy của Bồ tát, có 4 thứ : 
1/- Vì chúng sinhthuyết pháp, Vô sở úy (không sợ gì hết) vì mọi điều đã được nghe đều có thể thụ trì, vì được các Đà la ni, cho nên thường nhớ chẳng quên. 
Ba thứ sau đây gọi là Thuyết pháp giữa đại chúng Vô sở úy :
2/- Vì biết Dục, Giải, Nhân duyên, các căn lợi độn của hết thảy chúng sinh, cho nên tùy theo sự hưởng ứng của họ mà thuyết pháp cho họ. 
3/- Chẳng thấy thập phương có ai đến hỏi vặn mà khiến ta chẳng thể giải đáp được như pháp, vì chẳng thấy chút tướng trạng nào như vậy. 
4/- Hết thảy chúng sinh thính thụ, vấn nạn thì đều tùy ý như pháp khéo biết phá dứt mọi điều nghi ngờ
Lìa năm thứ sợ hãi nói trên, đạt được bốn thứ vô úy này thì nhập Sơ địa. Sau này nhập Bát địa rồi thì mới lìa được Bố nhân (nguyên nhân của sự sợ hãi).
*
-Kinh văn : “Đắc Đại Thế” tới “sẽ được thành Phật”. 
Tán rằng : đây là phần thứ năm : duyên tu đạo mãn, nhập chư địa rồi, sau đó càng được gặp Phật, càng thuyết kinh điển này.
*
-Kinh văn : “Đắc Đại Thế” tới “Tam Miệu Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba : kết hội kim cổ để chỉ mọi người tướng thuận nghịch. Chia làm hai phần : 
Ÿ Phần đầu : hội Bất Khinh. 
Ÿ Phần sau : hội bốn chúng
Đây là phần đầu, có hai mục : 
- Đầu là hội thân.
- Sau là hội pháp.
*
-Kinh văn : “Đắc Đại Thế” tới “đó là người chẳng thoái chuyển”. 
Tán rằng : đây là hội bốn chúng, có ba phần : 
Ÿ Đầu tiên là hội lúc xưa hành ác hạnh chịu quả báo (Sơ hành ác hạnh quả). 
Ÿ Thứ hai là hội quả của người nữa chừng mới theo sự giáo hóa của Phật (Trung đồ tòng hóa quả). 
Ÿ Cuối cùng là hội các chúng xưa nay
-Hỏi : Thanh văn Thiện Hiện vẫn còn đang trụ ở hạnh Vô tránh. Vốn phải giúp đỡ chúng sinh và làm lợi ích cho họ, cớ sao Bồ tát lại thụ ký gượng ép cho tứ chúng, khiến họ đánh chửi ông ta chuốc lấy tội báo này ? 
Đáp : Bồ tát địa nói : Bồ tát thường lấy sự vui được yên ổn để giáo hóa chúng sinh. Nếu chẳng phải là sự vui được yên ổn thì cũng biết được đúng như thực, rồi tùy lực mà phương tiện giáo hóa khiến họ đoạn trừ. Nếu lúc đầu khổ mà sau được yên ổn, họ tuy ưu não nhưng rốt cuộc cũng được lợi ích. Đó là Bồ tát y vào phương tiện thiện xảo
-Hỏi : nếu lúc đầu tuy vui mà sau chẳng yên, họ dù chịu ưu khổ nhưng chẳng muốn theo, thì phải dùng lực phương tiện để giúp họ đoạn trừ. Vì sao vậy ? 
Đáp : vì sau này ắt sẽ vui. Nay Bất Khinh quan sát thấy lúc đầu tuy khổ, nhưng sau này trở lại hóa đạo sẽ khiến họ nhập đạo. Giống như vị đại lương y quan sát người ốm nặng, trước hết phải làm cho bệnh của người đó phát ra rồi sau mới cho thuốc để chữa khỏi. Lại giống như người đánh cá giỏi, khéo léo khiến cá ở dưới suối xuất hiện.Cũng giống như người thợ săn giỏi, khéo léo khiến gấu beo xuất hiện. Nếu biết sân là cái nhân có ích, thì khiến kẻ đó nổi sân lên, để rồi độ cho họ. Nếu biết tham là cái nhân có ích thì, khiến họ nổi tham lên, để rồi độ cho họ. Cũng như cảm hóa dâm nữ, để ả mặc sức bừa bãi rồi sau đó mới độ cho ả. 
Nhị thừa thì chẳng thể làm nổi, cho nên trụ ở Vô tránh, hiện tuy trừ được Tranh, nhưng chẳng thể giúp người khác rốt ráo trừ bỏ được mọi sự tranh cạnh. Bồ tát tự mình chứng được Vô tránh chân như, rồi giúp người khác trừ được gốc rễ của mọi sự tranh cạnh, rốt ráo khiến họ cũng chứng được chân lý vô tránh này. Cho nên, thoạt đầu tuy khởi Tránh, nhưng sau lại khiến diệt Tránh. Đó là “hành Đại vô tránh” chẳng giống với “hiện Tiểu vô tránh” của nhị thừa. Cho nên không hề gì.
*
-Kinh văn : “Đắc Đại Thế” tới “sao chép kinh này”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư : kết luận khuyên mọi người trừ nghịch hạnh, tu thuận hạnh. 
Có hai phần : 
- Phần đầu : lợi ích kinh này lớn. 
- Phần sau : khuyên lưu thông kinh này.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “chóng được thành Phật đạo”. 
Tán rằng : đây là 19 tụng rưỡi, tụng về ba đoạn cuối, chia làm ba phần : 
1. Phần đầu : gồm 10 tụng, tụng về tướng thuận nghịch đối với người thuyết kinh
2. Phần hai : gồm 3 tụng rưỡi, kết hội cổ kim để chỉ cho mọi người tướng thuận nghịch
3. Phần cuối : gồm 6 tụng, kết luận khuyên mọi người trừ nghịch hành thuận. 
Đây là phần đầu, có hai mục : 
+ 1 tụng rưỡi đầu : được gặp Phật. 
+ 8 tụng rưỡi sau : hành thuận nghịch
Trong hành thuận nghịch lại chia làm năm : 
- 3 tụng đầu : kẻ ác tăng thế, thiện sĩ thêm chăm. 
- 1 tụng sau : bị lời xúc phạm vẫn nhẫn nhịn được, thân bị xâm hại vẫn chịu đựng được. 
- 2 tụng sau : thắng quả bèn sinh. 
- 1 tụng sau : kẻ ác thuận theo sự giáo hóa. 
- 1 tụng rưỡi cuối : thiện sĩ tăng đạo
Chẳng tụng về mục “tiếng lành đã nổi”. 
“Tội hết rồi” : có nghĩa là các nạn bị ác mạ (chửi rũa độc địa), bị gia hại (làm hại) chuyển từ nặng thành nhẹ, vì là tội nghiệp đời trước.
*

-Kinh văn : “Lúc đó Thường Bất Khinh” tới “đó là người nghe pháp”. 
Tán rằng : đây là kết hội cổ kim
Chia làm hai mục : 
- Nửa tụng đầu : hội thân. 
- 3 tụng sau : hội chúng.
*
-Kinh văn : “Ta ở trong đời trước” tới “chóng được thành Phật đạo”. 
Tán rằng : đây là kết luận, khuyên mọi người bỏ nghịch hạnh, tu thuận hạnh. 
Có bốn mục : 
- 2 tụng đầu : những người trước đây đã được giáo hóa
- 1 tụng sau : kinh này khó được nghe. 
- 1 tụng sau : kinh này hiếm khi thuyết. 
- 2 tụng cuối : khuyên chớ sinh nghi.

*** 

PHẨM THẦN LỰC NHƯ LAI

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
I. NÓI RÕ DỤNG Ý
Có ba ý :
1. Trong ba lưu thông, tám phẩm dưới đây là Phó thụ lưu thông : thị tướng phó chúc, thụ mệnh lưu hành kinh này. Hai phẩm Thần Lực, Chúc Lụy phó chúc cho việc lưu hành kinh này. Sáu phẩm kia là thụ mệnh lưu thông. Phó chúc có hai phần : 
1) Hóa phép thần thông khiến tin lời phó chúc
2) Tay xoa đỉnh đầu khiến thi hành lời phó chúc
Nay đây tức là phần đầu. Phật phó chúc cho họ, sợ họ chẳng tin tưởng, cho nên đã hóa phép thần thông phóng quang v.v… để thị hiện, để khiến cho họ biết Thế tôn có phép đại thần thông từ lâu chẳng hề vọng ngữ, nói ra lời chân thực, khiến họ sinh tín giải rồi mới nói lời phó chúc. Cho nên mới có phẩm này. 
2. Theo trong khoa thứ hai, 1 phẩm đầu tiên ở phần trên gọi là Tự phần, thứ đến 19 phẩm là Chính tông, 8 phẩm dưới là Lưu thông phần. Hai phẩm Thần Lực, Chúc Lụy khuyên tin phó thụ, 6 phẩm cuối là vâng mệnh lưu thông, thế giống như trước, đây không thuật nữa. 
3. Luận nói rằng : tu hành lực có bảy loại, thì loại thứ hai là Thuyết lực, có ba loại pháp môn được thị hiện trong phẩm Thần Lực. Phẩm này nói rõ Phật Thế tônthần lực này cho nên có thể thuyết pháp đều thật chẳng dối để khuyên bảo chúng sinh. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Phân thân, Năng tịch đều gọi là “Như Lai”. 
Diệu dụng vô phương thì gọi là “Thần”. 
Uy thế có thể phá trừ được thì gọi là “Lực”. 
Phẩm này thuyết minh rộng về thần lực của Như Lai, các phân thân Phật đều thị hiện diệu dụng không gì sánh nổi, có uy thế có thể đả phá được tà kiến bất tín để khuyến chúng sinh sinh tín, cho nên gọi là phẩm “Thần Lực Như Lai”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Bồ tát dũng xuất là những vị đã từng được Phật giáo hóa, (Phật) cần gì phải hiện thần thông để khiến sinh tín ?
Đáp : Bồ tát dũng xuất từ lâu đã tin tưởng, chẳng cần Phật phải hiện thần thông, nhưng khuyến phát (kẻ) sơ cơ thì phải hiện thần lực. Thêm nữa, tín tâm có nông có sâu, phó chúc có nặng có nhẹ. Nếu chẳng hiện thần thông để phó chúc thì e rằng sự phó chúc còn nhẹ. Nếu chẳng khiến tin tưởng sâu sắc thì tín tâm ấy còn nông, họ sẽ hy vọng là pháp sẽ dễ tu hành, cho nên phải hiện thần lực.
-Hỏi : vì sao kinh này phó chúc phải hiện thần lực, còn các kinh khác thì phó chúc không có sự kiện này ? 
Đáp : vì kinh này bí mật hội nhị quy tông, còn các kinh khác chẳng thế, nên phải hiện thần lực.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ ngàn thế giới” tới “mà cúng dàng ngài”. 
Tán rằng : toàn văn phẩm này được chia làm hai phần : 
1) Phần đầu : Dũng Xuất thỉnh. 
2) Phần sau : Như Lai phó chúc
Đây là phần đầu. Có hai : đầu tiên nên lên, sau đó giải thích
Chẳng những muốn để tế độ người khác mà còn muốn tự tu hành, cho nên thỉnh (Phật) hãy thuyết cho. Nếu chẳng thế mà cũng nói, thì sẽ là vô dụng
“Chân” : có nghĩa là chân thực
“Tịnh” : có nghĩa là lìa nhiễm. 
“Đại pháp” : chỉ nhất thừa
“Thân cung, Ngữ diễn, Thuật tâm”: dùng cả ba (nghiệp thanh tịnh) mà thỉnh (Phật).
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “hiện đại thần lực”. 
Tán rằng : đây là phần sau : “Như Lai phó chúc”.
Có hai phần : đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trong trường hàng có hai phần : 
Ÿ Phần đầu : hiện thần lực
Ÿ Phần hai : nói lời phó chúc
Văn phần đầu có bảy đoạn : 
1) Nêu lên việc hiện thần lực
2) Lè lưỡi, phóng quang
3) Đằng hắng, búng ngón tay. 
4) Đất đều chấn động
5) Họ thấy, qui y
6) Ghép lọng thành màn. 
7) Thế giới thông làm một. 
Đây là đoạn đầu.
Nói qua Phật hiện thần lực là vì ba nghĩa : 
+ Một là để nêu rõ thắng đức của kinh này, đặng khuyến khích việc lưu thông kinh này. Đó là đoạn văn trường hàng từ “Phật bảo Bồ tát thượng hạnh v.v…” trở xuống. 
+ Hai là để làm vui lòng chúng sinh khiến họ sinh tín. Đó là 1 tụng đầu. 
+ Ba là thấy các Bồ tát phát nguyện lưu thông, thuận tâm chư Phật, cho nên (Phật) hiện thần lực. Đó là tụng thứ tư.
*
-Kinh văn : “Thè lưỡi dài rộng” tới “phóng vô lượng quang”. 
Tán rằng : dưới đoạn thứ hai : “Thè lưỡi, phóng quang”. Có ba mục : 
1. Thích Ca thè lưỡi phóng quang
2. Phân thân (Phật) thè lưỡi phóng quang
3. Thuyết minh thời tiết
Cổ đức tương truyền (Phật) có bảy thần lực
1) Thè lưỡi. 
2) Phóng quang
3) Đằng hắng. 
4) Búng ngón tay. 
5) Động đất. 
6) Ghép lọng. 
7) Biến độ (biến đổi cõi nước). 
Nay thêm thứ 8 nữa là Thị hiện, tức là khiến phương khác từ xa mà ở đây vẫn nhìn thấy, đó là Thần cảnh thông - đầu tiên trong sáu thông. 
Thầ cảnh thông có hai thứ : 
a) Năng biến. b) Năng hóa
Năng hóa : là vốn không có mà bỗng nhiên có, nhĩa là hóa thân, hóa ngữ ,hóa cảnh
Năng biến : nghĩa là chuyển đổi chất cũ, đây chỉ 18 biến : 
1) Chấn động : đó là đất động sáu cách v.v… 
2) Rực lửa : trên dưới người bốc lửa v.v… 
3) Lưu bố : phóng quang dần dần chiếu hết nơi này nơi kia. 
4) Thị hiện : thị hiện đủ mọi sự vật của các nẻo, các cõi v.v… ở phương khác, khiến chúng trong hội từ xa thảy đều nhìn rõ. 
5) Chuyển biến : biến đất thành vàng, biến nước thành sữa v.v.. 
6) Qua lại : tung người qua lại khắp hết mọi chốn, thảy đều không gặp chướng ngại gì. 
7) Co lại : có thể co cái to lại bỏ lọt trong cái nhỏ. 
8) Duỗi ra : có thể duỗi cái nhỏ ra thành to. Dùng một hạt cải mà có thể chứa cả núi Tu Di, phình một sợi lông thành chật pháp giới v.v… 
9) Đưa nhiều cảnh tượng vào trong bản thân : như có thể đưa các thế giới vào trong lỗ chân lông, thân mình v.v… 
10) Biến thành cùng loài : ứng với từng loại chúng sinhhiện thành hình loài đó để thuyết diệu pháp cho chúng, xong việc lại biến mất, khiến chúng chẳng biết. 
11) Hiện. 
12) Ẩn : ẩn mất giữa đại chúng, rồi lại khiến tự thân hiển hiện ra. 
13) Sở tác tự tại : có nghĩa là biến chuyển hữu tình khiến chúng qua lại, còn bản thân lẳng lặng mà hết thảy đều được tự tại
14) Chế tha thần thông : nghĩa là Phật dần dần lần lượtthể chế phục được các phép thần thông của các ngôi dưới là Bồ tát, thánh phàm nhị thừa thể hiện
15) Năng thí biện tài : bố thí Thất biện và Tứ biện. 
16) Năng thí ức niệm (có khả năng bố thí cho trí nhớ) : nếu ai quên về pháp thì có thể bố thí cho trí nhớ
17) Năng thí an lạc (có thể bố thí cho sự an lạc) thuyết pháp cho v.v… giúp đỡ trừ bỏ những sự hiểm nguy sợ hãi, dịch bệnh, tai họa khiến được các sự an lạc
18) Phóng đại quang minh : có thể chỉ phóng một tia quang minh bỗng chốc chiếu sáng được vô lượng nước, làm ra sự lợi lạc lớn. 
“Tám f thần lực” ở đây : 
- Thần lực thứ nhất “Lè lưỡi” : là biến thứ 8 “Duỗi ra” trong 18 biến. 
- Thần lực thứ hai “Phóng quang” : là biến thứ 18 phóng “Đại quang minh” trong 18 biến. 
- Thần lực thứ ba “Đằng hắng” : ở đây tức là năng hóa “Không mà bỗng có”, cho nên chẳng phải là 18 biến. 
- Hoặc phép này và Thần lực thứ tư “Búng ngón tay” : là biến thứ 13 “Sở tác tự tại”. 
- Thần lực thứ năm “Động đất” : là biến thứ 1 “Chấn động”. 
- Thần lực thứ sáu “Khiến phương khác thấy” : đây là biến thứ 4 “Thị hiện”. 
- Thần lực thứ bảy “Ghép lọng” : là biến thứ 7 “Co lại”. 
- Thần lực thứ tám “Thông làm một cõi” : đó là biến thứ 5 “Chuyển biến”, biến nhiều thành một, biến uế thành tịnh.
Ở đây, luận nói rằng :
“Phật lè lưỡi” : là để khiến chúng sinh nhớ lại, tin điều Phật thuyết. Như Phật vào thành Ba La khất thực, chẳng được. Sau ra khỏi thành rồi gặp một cô gái bố thí cho Phật cơm thiu canh cặn, Phật thụ ký cho quả báo sau này. Bấy giờ có vị Bà la môn rất không tin, Phật bèn thè lưỡi cho vị đó xem, khiến vị đó tin điều thụ ký của Phật sẽ chẳng sai ngoa. Lưỡi thè chạm tới mũi, còn chẳng vọng ngữ, huống hồ là lại che kín mặt. Giảng rộng ra thì như kinh đã nói. 
“Tới cõi trời Phạm thế” : vì có lời biểu đạt. Vì trên cao hơn nữa thì không dùng lời để diễn đạt, nên chẳng tới trên. 
“Phóng quang” : là để thức tỉnh những ai có duyên. để phá si ám
“Mỗi một lỗ chân lông” : biểu hiện kinh này có đầy đủ từ bi, nhất thừa bình đẳng
“Vô số quang” : vì đủ muôn đức. 
“Khắp mười phương” : nghĩa là che chở hết thảy. 
Vì Phật Đa Bảo đã chứng kinh rồi, nên chẳng thị hiện thần thông, chỉ có hóa Phật thị hiện.
*
-Kinh văn : “Thích Ca” tới “thu tướng lưỡi lại”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về thời tiết (tức thời gian). 
Kẻ ngu vì tâm mê cho là thời gian ngắn. Người trí hiểu rõ thực tình thấy đủ trăm ngàn năm (Phật) chuyển đổi tâm họ, khiến họ chẳng cảm thấy. Thêm nữa lợi lạc của báo (Phật) hóa (Phật) có sự khác nhau, kiến giải của thánh phàm cũng có sự phân biệt
Lại nữa, Phật hiện thần lực thực ra là trăm ngàn năm, nhưng thần lực của Phật khiến chúng sinh chẳng cảm thấy. Song rút ngắn lại, chẳng kéo dài thời gian ra, đó là định luận, cho nên chỉ nói là Thế tôn tám mươi tuổi nhập diệt
Lại nữa, những điều thánh phàm được nghe tuy giống nhau, nhưng thời gian chứng đạo được giác ngộ hoàn toàn khác nhau, (như vậy) cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Nhất thời đằng hắng” tới “đất đều chấn động sáu cách”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba : “Đằng hắng, búng ngón tay” và đoạn thứ tư : “Động đất”. 
“Đằng hắng” : là để thuyết kệ cho mà nghe, đã nghe tiếng rồi thì như thực mà tu hành, chẳng phóng dật nữa. 
Luận nói rằng : “búng ngón tay” là để khiến cho giác ngộ, khiến cho tu hành, giác ngộ rồi thì tinh tiến tu hành
“Động đất” : là để nhắc nhở đôn đốc những kẻ chưa phát tâmmười phương hãy phát tâm
* Chữ [謦] đọc là Khánh. Sách Ngọc Thiên nói : nghĩa chữ Khánh giống chữ Khái [咳], có nghĩa là “ra tiếng” (để khiến người khác chú ý). Chữ [欬] đọc là Khái, còn viết là [咳]. Ngọc Thiên giải thích là “Hơi ngược” (nghịch khí). Hai chữ “Khánh khái” có nghĩa là đằng hắng, dặng hắng.
*
-Kinh văn : “Chúng sinh trong đó” tới “Mâu Ni Phật”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ năm : “họ thấy rồi thì quy y”, có ba ý : 
1) Nhìn thấy rồi sinh ra ưa thích
2) Tiếng trong không trung chỉ giáo. 
3) Theo lời mà kính lễ.
*
-Kinh văn : “Đem đủ mọi thứ hương hoa” tới “như một cõi Phật”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ sáu nói về “ghép lọng thành màn” và đoạn thứ bảy nói về “thế giới thông làm một”. Đầu là tán hoa, sau là thành màn. 
“Tán hoa” : có nghĩa là nghe kinh Pháp Hoa.
“Ghép lại thành lọng” :nghĩa là vì ba thừa đầu tiên khác nhau, cuối cùng thành một, che cho hết thảy chúng sinhthế giới này. 
“Thế giới thông làm một” : Trí tâm không gì ngăn ngại, Tịnh độ chẳng gì khác nhau, vì chỉ có một thừa, không có thừa nào nữa. 
Trên biểu hiện thần lực 8 loại khác nhau, luận chỉ giải thích nghĩa của 3 loại : lè lưỡi, búng ngón tay, đằng hắng. Các kinh khác có 5 loại, chẳng phải thắng nghĩa, nên chẳng giải thích. Còn 3 loại trên phần nhiều các kinh khác cũng không theo thắng nghĩagiải thích. Thêm nữa vì 3 loại này chính thức dùng để phó chúc, bởi vậy giải thích riêng. Các thần thông khác chẳng phải là chính, cho nên chẳng thuyết.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “tu hành như thuyết”. 
Tán rằng : dưới là lời phó chúc. Có năm phần. Trong này có bốn : 
1) Kết luận : thần lực nói trên vô lượng khó lường. 
2) Để dặn dò phó thác, thuyết về công đức khôn cùng. 
3) Nêu bật bốn loại đều do kinh này thuyết : 
a. Đạo quyền thực
b. Lực thần thông
c. Lý Phật còn cất giấu. 
d. Trí tuệ thâm sự. 
4) Kết thành khuyến thụ.
*
-Kinh văn : “Đất nước sở tại” tới “mà bát Niết bàn”. 
Tán rằng : đây là phần thứ năm : “khuyên tùy hỉ cúng dàng”. Đầu tiên nêu ra, sau đó giải thích
Giải thích do bốn nghĩa cho nên phải cúng dàng, vì pháp thân diệu lý đầy đủ trong này. Chốn chứa đạo thì gọi là đạo tràng ; chốn thành đạo, chốn đắc Bồ đề, chốn thuyết pháp, chốn Niết bàn, gọi chung là đạo tràng. Ba nghĩa dưới sẽ giải thích riêng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “hiện vô lượng thần lực”. 
Tán rằng : đây là 16 tụng, chia làm hai phần : 
- 4 tụng đầu : tụng thần lực
- 12 tụng sau : tụng phó chúc
Đây là phần đầu, có ba mục : 
+ 1 tụng : nêu ý nghĩa của việc hiện thần lực.. 
+ 2 tụng : năm thần lực
+ 1 tụng : thuận Phật tâm.
*
-Kinh văn : “Để giao phó kinh này” tới “chẳng thể được bờ bến”. 
Tán rằng : dưới là 12 tụng, tụng về phó chúc, trong đó chia làm ba : 
a) 2 tụng : nêu bật công đức vô cùng
b) 8 tụng rưỡi : tán thán riêng. 
c) 1 tụng rưỡi cuối : kết luận khuyến khích (tu hành).

Đây là phần đầu : tán thán phúc quả của người trì kinh để khuyến khích mọi người.
*
-Kinh văn : “Người trì được kinh này” tới “rốt ráo trụ nhất thừa”. 
Tán rằng : đây là tán thán riêng biệt, có năm mục : 
1) Một tụng rưỡi : thấy Phật. 
2) Hai tụng : hoan hỉ
3) Một tụng : đắc pháp
4) Một tụng rưỡi : năng thuyết
5) Hai tụng rưỡi : năng ích. 
Trong mục năng thuyết thì “các pháp nghĩa” là :
- Nghĩa vô ngại.
- Pháp (danh tự) vô ngại.
- Từ (ngôn từ) vô ngại
- Nhạo thuyết biện tài vô ngại
Bốn vô ngại này đầy đủ, “như gió vô ngại”.
*
-Kinh văn : “Bởi vậy người có trí” tới “quyết định không có nghi”. 
Tán rằng : dưới là kết luận khuyến khích (tu hành).
*** 

PHẨM CHÚC LŨY

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Căn cứ vào thứ tự kinh phẩm, giờ đây phó chúc có hai : 
- Trên kia là thần lực là khiến tin lời phó chúc.
- Đây là xoa đỉnh đầu, khiến thực hành lời phó chúc
Cho nên có phẩm này.
2. Căn cứ vào bản luận, thì phẩm này được thuyết sau phẩm Phổ Hiền. Cho nên luận nói rằng : lực hộ pháp là chỉ những điều mà phẩm Phổ Hiền và phẩm sau đó thị hiện. Đây dùng tay xoa đỉnh đầu, Phật tự mình hộ pháp, khiến họ lưu hành. Cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Chúc” : nghĩa là phó thác. 
“Lũy” : nghĩa là trùng điệp, hai ba lần phó thác khiến họ hộ trì, cho nên gọi là “phẩm Chúc Lũy”.
“Thác” : nghĩa như Chúc. “Phó” : cũng nghĩa như Chúc.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : đây là một tay xoa đầu các Bồ tát, hay là các Bồ tát mỗi người (được) một tay xoa ?
Đáp : dùng một tay xoa cùng một lúc, vì thần lực (của Phật) lớn. Mỗi người (được) một tay xoa, vì diệu dụng đều khắp. Song các Bồ tát ai nấy chỉ thấy có một mình mình được xoa, do đó thâm tâm nghe theo lời mà lĩnh thụ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca” tới “khiến mọi người được thêm ích lợi rộng khắp”. 
Tán rằng : toàn văn phẩm này chia làm bốn phần : 
1. Như Lai phó chúc
2. Bồ tát kính thụ. 
3. Khiến tháp quay về
4. Các chúng đều hoan hỉ
Trong phần đầu lại có ba phần : 
a) Phần đầu ba nghiệp gia trì phó chúc, khiến lưu hành kinh này. 
b) Phần hai là đoạn từ “Nếu có chúng sinh chẳng tín thụ” trở xuống : nếu chẳng tín thụ kinh này, thì khiến lưu hành kinh khác. 
c) Phần ba là đoạn từ “nếu các ngươi có thể được như vậy” trở xuống : kết luận thành ý khuyến khích “để báo ơn Phật”. 
Văn phần đầu này có ba đoạn : 
1) (Phật) lấy tay xoa đỉnh đầu mà phó chúc khiến lưu thông truyền bá kinh này, làm lợi ích một cách rộng rãi
2) Lại xoa đầu phó chúc, khiến thụ trì, khiến khắp cả đều nghe biết.
3) Giải thích lý do tại sao mà khuyến khích diễn thuyết (kinh này). 
Hai đoạn đầu là dùng thân ngữ để gia trì, một đoạn cuối cùng là dùng ý nghiệpgia trì
Đây là đoạn đầu.
“Dùng tay phải mà xoa” : để biểu thị sự đại cát tường.
Ngài Long Thụ giải thích rằng : các kinh khác chẳng phải là bí mật, chỉ có Pháp Hoabí mật nói rằng nhị thừa sẽ thành Phật. Chỉ có đại Bồ tát mới có thể vận dụng lưu hành kinh này, giống như bậc đại lương y mới có thể dùng độc dược.
*
-Kinh văn : “Xoa ba lần như vậy” tới “khắp cả được nghe biết”. 
Tán rằng : đây là lại xoa đầu phó chúc lần nữa, khiến thụ trì, khiến khắp cả đều nghe biết. 
“Xoa tới ba lần” : để tỏ ý phó chúc ân cần, khiến thụ trì pháp, nên đều ba lần, vì pháp truyền đăng ắt phải coi trọng việc phó chúc.
*
-Kinh văn : “Vì sao như vậy” tới “trí tuệ tự nhiên”. 
Tán rằng : đây là giải thích lý do vì sao mà lại khuyên phải diễn thuyết (kinh này). 
Ý nghiệp gia trì có ba : 
1) Hiểu rõ ba căn bất thiện của bản thân mình đã hết, có thể bố thí trí tuệ
2) Tỏ rõ Phật có thể làm đại thí chủ, khuyên hãy tùy thuận chớ có bủn xỉn
3) Dạy bằng pháp thí hóa độ, khiến được Phật tuệ.
Đây là phần đầu.
Vì “từ bi” cho nên không sân, vì ban vui nên cứu khổ, vì “không bủn xỉn” cho nên không tham. Vì “không sợ hãi” nên không hề tiếc pháp. Vì “không ngu si” nên thuyết pháp một cách quyết định
Có thể dựa vào chúng sinh đạt được “Phật trí” tức Chủng trí, “Như Lai trí” tức Nhất thiết trí.
Hai trí này do nhậm vận sự vần xoay không thày mà chứng được (Vô sư trí) nên gọi là “Tự nhiên trí”.
Hoặc là : 
- Hai loại trước là trí hữu vi
- Một loại sau là trí vô vi, gọi là “Tự nhiên trí”.
*
-Kinh văn : “Như Lai là” tới “chớ sinh bủn xỉn”. 
Tán rằng : đây là nêu rõ rằng Phật có thể làm bậc đại thí chủ, khuyên hãy tùy thuận chớ có bủn xỉn.
Thành Thực luận nói : bủn xỉn có năm loại : 
1 Bủn xỉn về chỗ ởù. 4. Bủn xỉn về ca ngợi
2. Bủn xỉn về gia đình. 5. Bủn xỉn về pháp. 
3. Bủn xỉn về bố thí
1. Bủn xỉn về chỗ ở.
Đối với trụ xứ của mình, nảy ra ý nghĩ bủn xỉn, nghĩ rằng một mình ta ở đây, chẳng cần đến người khác, để ta được tự tại. Đây có năm loại : 
1) Đối với các tỳ kheo tốt chưa tới, thì chẳng muốn khiến họ tới. 
2) Đối với các tỳ kheo tốt khi họ tới rồi, thì giận dỗi chẳng ưa. 
3) Muốn khuyến họ sớm ra đi. 
4) Giấu thí vật của tăng đi, chẳng muốn cho họ. 
5) Đối với các thí vật của tăng, sinh ra tâm lý cho đó là của mình, kể làm ơn đức
Người đó đối với vật sở hữu cộng đồng mà còn chẳng thí xả, huống chi là các vật sở hữu của bản thân. Cho nên cuối cùng không có phần về sự giải thoát.
2.Bủn xỉn về gia đìnhø. 
Đối với những gia đình mà mình qua lại, sinh ra tư tưởng bủn xỉn nói rằng : nhà này là nơi ta thường một mình vào ra, chẳng cần đến người khác, nếu còn có người khác thì phải khiến ta thắng trội nhất. Đây cũng có năm : 
1) Nếu bạch y (chỉ người tại gia) có chuyện chẳng may thì cùng lo với họ. 
2) Nếu họ có sự lợi lạc, thì mình cùng vui với họ. 
3) Mừng người bạch y có sự giàu sang thắng trội. 
4) Chặn mất đường của người nhận của bố thí, khiến họ chẳng được bố thí
5) Sẽ phải sinh vào nhà ấy làm quỷ trong chuồng xí cùng các chốn xấu xa
3. Bủn xỉn về bố thí
Đối với vật bố thí của người khác, nảy ra tư tưởng bủn xỉn nghĩ rằng : khiến ta ở đây một mình được vật bố thí, người khác chẳng được. Ví dù có cho họ, cũng chớ cho hơn phần của ta. Đây cũng có năm : 
1) Thường bị thiếu thốn trong sinh hoạt
2) Khiến người bố thí chẳng được làm phúc
3) Khiến người nhận (bố thí) chẳng được tài lợi
4) Chê bai nói xấu người tốt. 
5) Tâm thường lo lắng phiền não, cho nên sẽ sinh ở địa ngục
Nếu có được sinh ra ở cõi người, cõi trời cũng chịu cảnh túng thiếu.
4. Bủn xỉn về tán thán (ca ngợi). 
Sinh ra tâm địa bủn xỉn đối với việc khen ngợi người khác, muốn khiến chỉ khen một mình ta, đừng khen người khác. Nếu khen người khác thì cũng đừng khiến hơn ta. Đây cũng có năm : 
1) Nghe khen người khác, tâm thường lo lắng xáo động. 
2) Chê bai nói xấu người tốt. 
3) Tự cao, khinh rẻ người khác. 
4) Thường bị tiếng xấu
5) Sẽ không có tịnh tâm trong trăm ngàn đời vị lai.
5. Bủn xỉn về pháp. 
Ở trong chính pháp sinh ra tư tưởng bủn xỉn, muốn khiến một mình ta biết 12 bộ kinh, đừng để người khác biết. Giả sử có để cho người khác biết thì cũng đừng để cho người khác hơn ta. Thêm nữa, tự mình biết nghĩa bí mật mà không nói. Lỗi này có bảy thứ :
1) Sinh ra thường bị mù lòa.
2) Thường bị ngu si.
3) Sinh ra trong nhiều sự oán hận, chẳng được tự tại.
4) Thoái mất thánh thai.
5) Chư Phật oán tặc.
6) Người thiện xa lìa.
7) Không điều ác nào không làm. 
Có đủ mọi lỗi lầm mất mát như vậy, cho nên (Phật) khuyên chớ nên bủn xỉn
Thế tôn đã thực hành được ba loại xả, cho nên ngài là “đại thí chủ của hết thảy chúng sinh”. Bởi vậy, hãy “học theo pháp của ta, chớ sinh bủn xỉn”. 
*
-Kinh văn : “Ở đời vị lai” tới “vì được Phật tuệ”. 
Tán rằng : đây là dạy bằng pháp thí hóa độ, để khiến được Phật tuệ.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh” tới “chỉ giáo khiến họ được lợi lạc”. 
Tán rằng : nếu chẳng tin kinh này thì khiến tin kinh khác. 
Ý nói gặp hạng nhị thừa, dùng diệu pháp này để giáo hóa, nếu họ chẳng tin thì hãy thuyết Bát nhã đại thừa thâm pháp để điều phục tâm họ, rồi sau hãy giáo hóa bằng pháp này.
*
-Kinh văn : “Các ông nếu được như thế, tức là đã báo ân của chư Phật”. 
Tán rằng : đây là kết luận thành ra ý khuyên bảo. 
Ý Phật muốn khiến mọi người thành Phật cho nên đặt ra đủ mọi môn.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ các Bồ tát” tới “xin Thế tôn chớ lo”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ hai : nói về Bồ tát kính thụ, chia làm hai đoạn, (dùng) ba nghiệp mà kính lĩnh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ” tới “hãy quay về như cũ”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ ba : khiến tháp v.v… quay về
Từ đây về sau không còn chốn quay về nào nữa. Cho nên biết rằng phẩm này lẽ ra phải ở cuối kinh.
*
-Kinh văn : “Lúc nói lời này” tới “đều rất hoan hỉ”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư : nói về đại chúng đều hoan hỉ, nghe và khen pháp thắng diệu.
Được giao phó và dặn dò đinh ninh, bởi vậy hoan hỉ. Chứ chẳng phải là vì thấy sai hóa Phật v.v… quay trở vềhoan hỉ
Cứ theo lý do đó, cho nên hết việc thì giải tán. Thiên Thân Bồ tát giải thích kinh Già Da Sơn Đỉnh, nói rằng hoan hỉ phụng hành có ba nghĩa : 

1) Người thuyết pháp thanh tịnh, vì được tự tại đối với các pháp. 
2) Pháp sở thuyết thanh tịnh, vì chứng tri đúng như thực pháp thể thanh tịnh
3) Sở y thuyết pháp đắc quả thanh tịnh, vì đắc cảnh giới tịnh diệu
Như kinh chép “đều rất hoan hỉ”, tức là tín thụ phụng hành.

***











PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BẢN SỰ

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Hai phẩm trên đã thuyết minh về Phó thụ, sáu phẩm dưới là Thụ mệnh lưu thông. Căn cứ vào lời văn bản luận thì chia làm năm phần : 
1) Dược Vương tự tu hành khổ hạnh lực để lưu thông
2) Diệu Âm giáo hóa chúng sinh tu hành khổ hạnh lực để lưu thông
3) Quan Âm, Đà la ni dùng lực cứu các nạn cho chúng sinh để lưu thông
4) Diệu Trang Nghiêm Vương dùng công đức thắng lực để lưu thông
5) Phổ Hiền, Chúc lũy dùng hộ pháp lực để lưu thông
Chúc lũy đã trình bày ở trên, còn hộ pháp thì chỉ có một. 
Dược Vương lúc ấy ở tại pháp hội, nghe Phật nói về mình trước kia đã từng thiêu thân, đốt tay tự tu hành khổ hạnh để lưu thông chính pháp, làm lợi ích cho pháp hội đương thời. Cho nên mới có phẩm này.

II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Dược” : là công hiệu thần kỳ có thể trị được bệnh tật. 
“Vương” : là có uy lực tự tại
“Bản” : là nhân do. 
“Sự” : là thể nghiệp. 
Nay vị Bồ tát này nguyện làm cây thuốc để trị bệnh kinh niên Bát trần, để trừ bệnh nặng Thất lậu, thế lực vô song, uy thần hiếm sánh, cho nên gọi là Dược Vương Bồ tát
Nay trong phẩm này kể về bản nhân, tức là sự tu hành của vị ấy để làm lợi cho pháp hội đương thời, cho nên gọi là phẩm Dược Vương Bồ tát Bản Sự.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Bồ tát về nguyện lực, thần công đều bằng nhau, cớ sao chỉ có một mình vị này gọi tên là Dược Vương ?
Đáp : xét về công đức, căn cứ vào hạnh quả thì không khác nhau nhưng nguyện lợi tha, tu nhân xưa cũng hơi khác nhau. Chỉ như hạnh nguyện Cứu sinh bạt khổ, các Bồ tát đều giống nhau, nhưng riêng một mình ngài Quán Âm được gọi tên là Cứu (khổ cứu nạn Quán Thế Âm). Còn Dược Vương có sự thắng trội riêng, há lại không được lấy hạnh đặt tên như thế ư !
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Túc Vương” tới “nghe đều hoan hỉ”. 
Tán rằng : toàn văn phẩm này chia làm 6 đoạn lớn : 
1. Đầu tiên là Túc Vương Hoa hỏi. 
2. Như Lai giải đáp
3. Đoạn từ “Nếu lại có người đem bảy thứ báu chứa đầy tam thiên đại thiên” trở xuống : tán thán diệu đức của kinh.
4. Đoạn từ “Túc Vương Hoa, nếu có người nghe phẩm Dương Vương Bồ Tát Bản Sự này” trở xuống : tán thán sự phó thụ thắng diệu.
5. Đại chúng đương thời được lợi ích
6. Phật Đa Bảo tán dương
Hai đoạn này đều ở cuối phẩm. 
Đây là đoạn đầu, có ba : 
1) Hỏi. 
2) Thỉnh. 
3) Biện thỉnh ý. 
“Tú Vương Hoa hỏi” : từ đời xưa “Túc” đến nay đều trì kinh Pháp “Hoa”, tự tại như vua “Vương” (bởi vậy gọi là Túc Vương Hoa).
Kinh Bảo Vân nói rằng : Bồ tát có mười pháp gọi tên là “cây thuốc lớn”. Ví như cây thuốc gọi là Thiện kiến, nếu có chúng sinh nào được rễ, củ, cành, lá, hoa, quả của nó thì cũng nhìn thấy sắc, ngửi thấy hương, nếm thấy vị, được tiếp xúc ; cảm nhận được mười pháp này thì mọi bệnh đều chữa khỏi. 
Bồ tát cũng thế, từ lúc mới phát tâm, đã vì các chúng sinh có biết bao nhiêu thứ bệnh phiền nãodựa vào Thí, Giới, Nhẫn, Cần, Định, Tuệ để cứu sống được họ. Có người nhờ thấy pháp, có người nhờ nghe âm thanh, có người nhờ biết mùi vị, có người nhờ đồng sự mà được sống. Bồ tát tùy ứng dẫn đạo, khiến cho họ được lợi ích. Cho nên gọi Bồ tát là cây thuốc, vì có thể trừ bệnh phiền não, cứu sống được tuệ mệnh
“Du” : là phương pháp du hóa lợi ích, tế độ làm lợi lạc cho chúng sinh
“Bao nhiêu vân vân” : là hỏi về các khổ hạnh khác nhau : đó là thiêu thân, đốt tay để cúng dàng chính pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “thuyết kinh Pháp Hoa”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ hai : Như Lai giải đáp cho. Có bốn phần :
1. Kể về thời gian.
2. Thuyết minh về Phật.
3. Nói rõ việc tu hành.
4. Hội họp xưa nay
Đây là 2 phần đầu.
Trong phần thuyết minh về Phật có 7 thứ : 
1) Danh hiệu
2) Quyến thuộc
3) Trụ thọ. 
4) Không ác. 
5) Tướng cõi (Phật). 
6) Lâu đài cây cối trang nghiêm
7) Kinh pháp sở thuyết.
*
-Kinh văn : “Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “Hiện nhất thiết sắc thân tam muội”. 
-Tán rằng : đây là phần thứ ba : nói về sự tu hành. Có ba mục :
1) Tinh tiến, đắc định.
2) Cúng dàng Phật pháp.
3) Cúng dàng xá lợi
Đây là mục đầu.
Đắc định này rồi thì có thể tùy thích mà hiện thân. Sơ địa thì đắc, Bát địa thì được tự tại ; Thập địa thì trong bình đẳng có thể tùy theo sự ưa thích của chúng sinhthị hiện, vì Sơ địa đã đắc (định). 
Kinh Vô Cấu Xưng cũng có Bồ tát này.
*
-Kinh văn : “Đắc tam muội này rồi” tới “và kinh Pháp Hoa”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai : cúng dàng Phật pháp. Có 7 mục :
1) Hỉ niệm cúng dàng.
2) Nhập định khởi thần thông.
3) Lại nghĩ là chưa đầy đủ.
4) Thiêu thân để cúng dàng.
5) Quang minh chiếu xa.
6) Chư Phật cùng tán thán.
7) Thời gian thiêu thân. 
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Tức thì nhập định này” tới “để cúng dàng Phật”. 
Tán rằng : đây là nhập định, khởi thần thông. Có ba thứ :
1) Lúc mới nhập định thì đổ mưa hoa.
2) Đổ mưa chiên đàn.
3) Đổ mưa hương Hải thử ngạn chiên đàn.
*
-Kinh văn : “Cúng dàng như vậy rồi” tới “đem thân ra cúng dàng”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba : Lại nghĩ là chưa đủ.
*
-Kinh văn : “Liền xức các thứ hương thơm” tới “mà tự thiêu thân”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : Thiêu thân cúng dàng. Có ba ý : 
1) Xức dầu thơm. 
2) Nói rõ năm tháng. 
3) Chính thức thiêu thân.
*
-Kinh văn : “Quang minh chiếu khắp” tới “các đức Như Lai”. 
Tán rằng : trong này có hai mục : mục thứ năm “quang minh chiếu khắp” và mục thứ sáu “chư Phật cùng khen”. Trong mục cùng khen có ba ý :
1) Khen bằng cách nêu lên sự chân thực.
2) Khen bằng cách so sánh.
3) Kết luận lời khen.
*
-Kinh văn : “Nói lời này xong” tới “thân ấy mới hết”. 
Tán rằng : đây là mục thứ bảy nói về thời gian. Có hai phần : đầu tiên là im lặng, sau đó là thời gian.
*
-Kinh văn : “Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “bỗng nhiên hóa sinh”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba “cúng dàng xá lợi” trong phần nói về sự tu hành. Có 14 mục nhỏ :
1) Sinh xứ (chốn sinh).
2) Thuyết pháp.
3) Khải bạch.
4) Tới chỗ Phật.
5) Phó chúc.
6) Nhập diệt.
7) Dựng tháp.
8) Nghĩ bảo.
9) Đốt tay.
10) Lợi ích.
11) Chúng sinh buồn rầu.
12) Tự thề.
13) Nguyện mãn.
14) Cảm sinh thụy ứng. 
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Liền vì cha mình” tới “xả bỏ thân yêu quý”. 
Tán rằng : đây là mục thứ hai : Thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Thuyết kệ ấy” tới “cúng dàng Phật này”. 
Tán rằng : đây là mục ba : Khải bạch
Đầu tiên bạch vì sự trước kia, sau đó là bạch thỉnh đi tới. Văn phần đầu có 3 ý : 
1) Luận về Phật tại thế
2) Đắc tổng trì
3) Nghe thắng pháp
“Chân ca la v.v…” : Câu Xá luận, quyển thứ 12 nói rằng : Số có 60, quên mất 8 số khác, cứ lấy 10 mà nhân với nhau dần tới thứ 16 thì gọi là Căng yết la (còn gọi là Chân ca la), thứ 17 gọi là Đại Căng yết la, thứ 18 gọi là Tần bạt la, thứ 19 gọi là Đại Tần bạt la, thứ 20 gọi là A sô bà, thứ 21 gọi là Đại A sô bà. Đây tóm lại là có ba loại tức là các số thứ 16, 18, 20.
*
-Kinh văn : “Bạch xong liền ngồi” tới “vẫn còn tại thế ư ?”. 
Tán rằng : đây là mục bốn : tới chỗ Phật. Có ba phần : 
1) Đầu tiên : đi tới. 
2) Thứ đến : tán thán
3) Cuối cùng : tác bạch.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức” tới “bao nhiêu ngàn tháp”. 
Tán rằng : đây là mục năm nói về phó chúc.
Có bốn ý : 
1) Nêu lên việc nhập diệt
2) Phó chúc về pháp. 
3) Phó chúc về cõi giới
4) Phó chúc về thể. 
Theo Tăng Kỳ luật, nếu có xá lợi thì gọi là Tháp bà, không có xá lợi thì gọi là Chi đề
Trong Du Già v.v… thì nếu có xá lợi thì chỉ gọi là Tốt đổ bà, nếu khôngxá lợi thì chỉ gọi là Chế đa.
Không có danh từ Tháp bà, đó là (phiên âm) sai.
*
-Kinh văn : “Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức” tới “nhập Niết bàn”. 
Tán rằng : đây là mục sáu : nhập diệt
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : Phật sự cứu cánh rồi, thì vì có 10 nghĩa mà Phật thị hiện nhập đại Niết bàn
1) Để chứng minh mọi hạnh đều vô thường
2) Để chứng minh mọi thứ hữu vi chẳng phải yên ổn
3) Để chứng tỏ nẻo Niết bànyên ổn nhất. 
4) Chứng tỏ bát Niết bàn lìa xa mọi sự sợ hãi
5) Vì các người, trời thích chấp trước sắc thân, cho nên chứng minh rằng sắc thânvô thường, là pháp mòn diệt, để khiến họ cầu trụ ở pháp thân thanh tịnh
6) Để chứng minh lực vô thường là mạnh, chẳng thể chuyển đổi
7) Để chứng minh pháp hữu vi chẳng được tự tại
8) Để chứng tỏ tam giới pháp thảy đều giống như khí cụ bị hư hoại vì không bền chắc. 
9) Để chứng minh bát Niết bànchân thực nhất, vì chẳng thể hoại. 
10) Để chứng minh bát Niết bàn lìa xa sinh tử, chẳng phải khởi diệt.
(Phật) vì 10 nghĩa này mà thị hiện Niết bàn.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ, Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “treo các lục lạc báu”.
Tán rằng : đây là mục thứ bảy : Dựng tháp. Có 3 ý : 
1) Buồn thương lưu luyến
2) Thiêu thân. 
3) Dựng tháp. 
Đây là Tha thụ dụng, nên lượng cực cao.
*
-Kinh văn : “Bây giờ, Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tám : Nghĩ bảo. 
Có hai phần : đầu là Nghĩ, sau là Bảo.
*
-Kinh văn : “Nói lời này xong” tới “tự nhiên hoàn trở lại”. 
Tán rằng : trong này có 5 mục : 
- Mục thứ 9 : đốt tay.
- Mục thứ 10 : lợi ích.
- Mục 11 : chúng sinh buồn khổ.
- Mục 12 : tự thề. 
- Mục 13 : nguyện mãn.
*
-Kinh văn : “Do phước đức trí tuệ thuần hậu của Bồ tát này” tới “được thứ chưa từng có”. 
Tán rằng : đây là mục 14 : Cảm sinh thụy ứng.
Có ba ý : 
1) Nhân do. 
2) Thụy ứng. 
3) Được thứ chưa từng có.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Túc Vương Hoa” tới “mà cúng dàng”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ tư : nói về hội cổ kim, trong đoạn lớn thứ hai nói về Như Lai giải đáp
Có 3 phần : 
1) Đầu là hội. 
2) Sau là tán thán
3) Cuối là khuyên tu.
*
-Kinh văn : “Nếu lại có người” tới “phúc ấy nhiều nhất”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba trong phẩm, nói về sự tán thán diệu đức kinh này. Có bốn mục : 
1) Giảo lượng thắng. 
2) Tỉ dụ thắng. Đó là đoạn từ “thí như…” trở xuống. 
3) Tác dụng thắng. Đó là đoạn từ “kinh này cứu được…” trở xuống. 
4) Vô biên thắng. Đó là đoạn từ “nếu người nào được nghe kinh Pháp Hoa này, nếu tự mình sao chép…” trở xuống.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Túc Vương Hoa ! Thí như” tới “vua của các kinh”. 
Tán rằng : đây là văn nói về mục thứ hai : Tỷ dụ thắng. Trong có mười : 
1) U quảng thắng (thắng diệu về mức độ sâu rộng). 
2) Cao hiển thù thắng
3) Liễu đạt thắng. 
4) Trừ Hoặc thắng. 
5) Uy thế thắng. 
6) Tự tại thắng. 
7) Xuất sinh thắng. 
8) Khế lý thắng, hoặc gọi là Nhân pháp thắng. 
9) Nhị lợi thắng. 
10) Viên đức thắng. 
Trong Khế lý thắng có pháp có nhân. Kể ra văn về nhân này lẽ ra phải nói sau cùng, nhưng tiện mạch văn cho nên nói luôn. 
“Tu đà hoàn” : dịch là Dự lưu, vì dự vào thánh lưu (hàng thánh). 
“Tư đà hàm” : dịch là Nhất vãng lai, chỉ có một lần sinh qua lại vòng sinh tử nữa là thành Ứng quả, gọi là Nhất lai.
“A na hàm” : dịch là Bất hoàn. Dục giới nghiệp tận, ắt chẳng quay trở lại sinh ở trong Dục giới nữa, cho nên gọi là Bất hoàn.
*
-Kinh văn : “Túc Vương Hoa” tới “thỏa mãn nguyện ấy”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ ba : Tác dụng thắng. Có ba phần : 
1. Pháp. 
2. Dụ.
3. Hợp. 
Đây là phần đầu, có 3 câu : 
1) Câu đầu : có thể trừ được Hoặc nghiệp. 
2) Câu sau : có thể trừ được khổ quả
3) Câu cuối : có thể thỏa mãn được nguyện vọng tốt lành
Thêm nữa : Phát tâm, Tu hành, Đắc quả là ba. 
Lại nữa : Tổng biệt, Ly ác, Nhiếp thiện đó là ba.
*
-Kinh văn : “Như ao nước mát mẻ” tới “như đuốc trừ được bóng tối”. 
Tán rằng : đây là Dụ thuyết. Có 12 ý : 
1) Mãn nguyện
2) Đạo thành. 
3) Đủ đức Tàm quý (biết hổ thẹn). 
4) Được đạo sư
5) Được nẻo về. 
6) Vượt thoát vòng sinh tử
7) Trừ phiền não
8) Được trí tuệ
9) Được thánh tài. 
10) Có sự kế thừa bẩm thụ. 
11) Biết bảo sở
12) Phá si ám
Tùy theo sự tương ứng mà ghép vào ba câu trên.
*
-Kinh văn : “Kinh Pháp Hoa này” tới “rợ buộc sinh tử”. 
Tán rằng : đây là Hợp thuyết.
- Lìa được sự đau khổ, trừ được các nỗi khổ, đó là câu đầu. 
- Cởi được rợ trói buộc sinh tử, ý nói trừ được Hoặc nghiệp, đó là câu thứ hai.
Chẳng hợp thuyết câu cuối “thỏa mãn nguyện vọng” nói ở trên. 
Hoặc là trừ nỗi khổ sau này, nỗi khổ hiện tại, nguyên nhân gây khổ. Cứ theo thứ tự mà ghép vào.
*
-Kinh văn : “Nếu người nào được nghe” tới “cũng lại vô lượng”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư nói về Vô biên thắng. Có hai ý : 
1) Công đức nghe pháp, chép kinh vô biên
2) Công đức cúng dàng vô biên
Đắc vô biên biên, chẳng đắc hữu biên biên, cho nên nói Phật chẳng đắc.
*
-Kinh văn : “Túc Vương Hoa” tới “sau chẳng thụ nữa”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư trong phẩm : tán thán Phó thụ diệu. Có 7 mục : 
1) Nêu rõ Văn pháp (nghe phẩm này) thắng. 
2) Chuyển nữ thân. 
3) Sinh tịnh độ
4) Tùy hỉ được phúc. 
5) Chính thức nói rõ điều phó chúc
6) Khiến thủ hộ
7) Khuyên cúng dàng thụ trì
Đây là hai mục đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu sau khi Như Lai nhập diệt” tới “bằng với ngươi”. 
Tán rằng : đây là mục ba : Sinh tịnh độ
Có năm ý chính : 
1) Sinh tịnh độ
2) Lìa phiền não
3) Đắc thần thông
4) Thấy nhiều Phật. 
5) Phật từ xa tán thán.
- Trong “Phật từ xa tán thán” có năm ý : 
1/- Tán thán phúc vô biên
2/- Tán thán đức vô biên
3/- Có thể phá được phiền não
4/- Cùng nhau thủ hộ
5/- Nói rõ phương tiện tối thắng để nhiếp dẫn. Rằng : “Bồ tát, tuệ không bằng ngươi”.
*
-Kinh văn : “Túc Vương Hoa” tới “như trên đã nói”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : tùy hỉ được phúc.
*
-Kinh văn : “Cho nên Túc Vương Hoa” tới “chẳng già chẳng chết”. 
Tán rằng : trong này có hai mục : mục thứ năm “Chính thức nói rõ điều phó chúc” và mục thứ sáu “khiến phải thủ hộ”. 
Trong mục “Thủ hộ” : đầu tiên nêu lên, sau đó giải thích
“Năm trăm năm sau” : kinh Đại Tập nói rằng : sau khi Phật diệt độ thì : 
- 500 năm đầu là Giải thoát kiên cố.
- 500 năm thứ hai là Thiền định kiên cố.
- 500 năm thứ ba là Đa văn kiên cố.
- 500 năm thứ tư là Phúc đức kiên cố.
- 500 năm thứ năm là Đấu tranh kiên cố.
Đều lấy 500 năm là đơn vị tính để ghi. 
Cho nên nói rằng “500 năm sau, sau khi Phật diệt độ” : thì có thể là Chính pháp 500 năm, Tượng pháp 1000 năm và ở sau Tượng pháp trong 500 năm đầu của Mạt pháp.

-Kinh văn : “Túc Vương Hoa” tới “tâm cung kính”. 

Tán rằng : đây là mục thứ bảy : khuyên cúng dàng thụ trì. Có ba : 
1) Rắc hoa.
2) Tâm niệm.
3) Kết thành.
*
-Kinh văn : “Khi Phật thuyết phẩm Dược Vương” tới “hết thảy chúng sinh”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ năm : nói về “đại chúng đương thời ích lợi” và thứ sáu : nói về việc “Phật Đa Bảo tán dương”.

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ MƯỜI - PHẦN TRƯỚC
ĐÃ XONG

 

Ngày 12 tháng Chạp năm Bảo An thứ ba, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đã dùng bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc đem in và di điểm xong.
Bản… đều là điểm bản này. Đó là bản do bậc cao danh viết. 
“Để khiến pháp trụ lâu dài, để được vãng sinh Cực lạc” 

 

QUYỂN THỨ MƯỜI (PHẦN SAU)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.

PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT

Ba môn phân biệt

I. DỤNG Ý CỦA PHẨM NÀY.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.

I. DỤNG Ý CỦA PHẨM NÀY.

Luận nói rằng phẩm Diệu Âm thị hiện việc giáo hóa chúng sinh ra sức tu hành khổ hạnh. Diệu Âm hiện ở Đông thổ, bí mật tại phương này, vốn truyền bá giáo pháp của kinh Pháp hoa, thực hành khổ hạnh
Nay Phật phóng quang triệu tập Diệu Âm để chỉ bảo cho mọi người, khuyến phát thắng tâm, hoằng thông kinh pháp. Cho nên mới có phẩm này. 

II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.

“Âm” chỉ âm thanh
“Diệu” là thù diệu. 
Xưa khi ở vị trí tu nhân, hay tấu nhạc để cúng Phật. Nay ở quả vị, khéo thuyết pháp để lợi sinh. Nói rõ cả hai thứ nghiệp và đức để nêu thành tên gọi. Cho nên gọi là Diệu Âm Bồ tát. Phẩm này thuyết minh về sự tích vị đó, cho nên gọi là phẩm Diệu Âm Bồ tát.

III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.

-Hỏi : vì sao lại phải triệu tập Diệu Âm để thành phẩm này ?
Đáp : Dược Vương tu khổ hạnh ở phương này, tự mình khuyến hóa chúng sinh. Chưa có bậc thượng nhân của phương khác khuyến hóa thuyết pháp ở phương khác. Cho nên triệu tập Diệu Âm đi phương xa hành pháp, khuyên những người khác tu hành khổ hạnh. Cho nên cần triệu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca” tới “bạch hào tướng quang”. 
Tán rằng : toàn phẩm này chia làm 4 đoạn lớn :
1. Thần quang đi triệu.
2. Diệu Âm tới nơi.
3. Việc xong về nước.
4. Đại chúng đương thời đắc đạo.
Đoạn lớn đầu có hai phần : 
1) Phóng quang.
2) Nơi tới. 
Đây là phần đầu.
Phóng quangnhục kế, tỏ rõ tướng triệu bậc đại nhân.
Phóng quang ở giữa lông mày, biểu thị vì kinh này mà ra lệnh.
*
-Kinh văn : “Chiếu khắp phương đông” tới “chiếu khắp nước ấy”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai : nơi tới. 
Có ba ý :
1) Nơi chốn phương nào.
2) Nước Phật.
3) Kết chiếu. 
Nước Phật có ba điều : 
a) Tên nước. 
b) Tên Phật. 
c) Lợi ích của sự giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ hết thảy” tới “trí tuệ rất sâu”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ hai trong phẩm, nói về Diệu Âm tới nơi. Có ba phần :
1) Vị đó tới.
2) Đoạn từ “Bấy giờ Diệu Âm chẳng từ tòa đứng dậy” trở xuống : tới chốn này.
3) Đoạn từ “Bấy giờ Hoa Đức Bồ tát bạch Phật” trở xuống : nói về hóa hạnh.
Phần đầu lại có bốn phần : 
a) Kể về đức. 
b) Thỉnh tới. 
c) Phật răn dạy. 
d) Vâng lời dạy. 
Phần kể về đức lại có bốn mục : 
1/- Nhân tốt sớm trồng. 
2/- Thiện hữu sớm gặp. 
3/- Bát nhã sớm viên thành
4/- Đẳng trì đã mãn. 
Đây tức là ba mục đầu.
*
-Kinh văn : “Đắc tam muội Diệu tràng tướng” tới “các đại tam muội”. 
Tán rằng : đây là mục bốn : đẳng trì đã mãn. 
Có hai phần :
. Phần đầu : Liệt kê 16 đẳng trì.
. Phần sau : kết luận Vô lượng
Mười sáu đẳng trì gồm :
1) Diệu tràng tướng : như tràng phan cao nổi, mọi đức trang nghiêm.
2) Pháp hoa : thông đạtnhất thừa.
3) Tịnh đức : đoạn chướng nhiễm, được thắng đức.
4) Tú vương hý : “Tú” là giống như các vì sao, “Vương” là tự tại. “Hý” là du hý. Có nghĩa là đắc tự tại, có thể thị hiện thành mọi hình tượng giống như tinh tú, thường nhập du hý để làm lợi chúng sinh.
5) Vô duyên : chỉ Diệt tận định hoặc Vô sở duyên định, lìa mọi phan duyên.
6) Trí ấn : lấy Không lý chân như làm trí ấn ; hoặc dùng trí mà ấn định đúng sai, chân vọng.
7) Giải chúng sinh ngữ ngôn : tức Từ vô ngại giải định.
8) Tập nhất thiết công đức : chỉ Tập phúc vương định.
9) Thanh tịnh : có khả năng sinh ra thất tịnh, cửu tịnh, tứ tịnh v.v… Tứ tịnh: gồm Sở y tịnh, Sở duyên tịnh, Tâm tịnh và trí tịnh.
10) Thần thông du hý : có khả năng khởi đại thần thông.
11) Tuệ cự (đuốc tuệ) : chiếu sáng các cảnh giới chân tục.
12) Trang nghiêm vương : có thể có đủ hai thứ trang nghiêm nội ngoại.
13) Tịnh quang minh : vì phóng thần quang.
14) Tịnh tạng : vì hàm chứa mọi đức.
15) Bất cộng tam muội : vì chẳng cùng nhị thừa chứng đắc.
16) Nhật triền : vì như ánh mặt trời xoay quanh mà chiếu sáng cho chúng sinh. Đây là thứ mà Bồ tát Thập địa vận dụng dễ dàng, phần nhiều là đệ tứ định vì định này thắng diệu.
*
Kinh - văn : “Ánh sáng của Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “Dược Thượng Bồ tát”. 
Tán rằng : đây là phần hai : thỉnh tới.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí” tới “sinh ra cảm tưởng thấp kém”. 
Tán - rằng : đây là phần ba : Phật răn dạy. 
Có bốn ý : 
1. Răn dạy. 
2. Kể về sự kém cỏi của con người và cõi nước khác. 
3. Nói rõ sự thắng trội của bản thân
4. Kết luận và răn dạy. 
Trong này chỉ luận về sự thắng trội của bản thân, sự kém cỏi của người khác để mà răn dạy họ. 
Như trong kinh Tư Ích, Tư Ích Phạm thiên Bồ tát muốn tới thế giới Sa bà, thì Phật Nhật Nguyệt Quang bảo Tư Ích rằng : “Ngươi nên dùng mười pháp để mà du lịch ở đất nước ấy :
1) Đối với lời chê hay khen, tâm đều không tăng giảm.
2) Nghe thấy điều thiện hay điều ác, tâm không phân biệt.
3) Đối với kẻ ngu hay người trí, bi tâm đều như nhau.
4) Đối với chúng sinh ở trên hay dưới, ý thường bình đẳng.
5) Đối với sự cúng dàng hay sự khinh rẽ chê bai, tâm không tách bạch là có hai.
6) Đối với sai sót của người khác, chẳng thấy là lỗi của người đó.
7) Thấy mọi loại thừa đều là nhất thừa.
8) Nghe nói ba đường ác cũng chẳng kinh sợ.
9) Sinh cảm tưởng tôn trọng đối với các Bồ tát.
10) Phật xuất ngũ trược, sinh hy hữu tưởng.
Trong Kinh Vô Cấu Xưng thì Phật Hương Đài răn dạy Bồ tát Văn Thế đại loại cũng giống như vậy.
*
-Kinh văn : “Diệu Âm Bồ tát” tới “trí tuệ trang nghiêm”. 
Tán rằng : đây là phần bốn : vâng lời răn dạy. Có ba ý : 
- Ý đầu là nói chung về lực của Như Lai.
- Hai ý sau nói riêng.
*
-Kinh văn : “Thế là Diệu Âm” tới “coi là đài của vị ấy”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai của đoạn lới thứ hai : “tới đây”. 
Trong văn có 11 mục, đây là mục đầu : sắp tới thì hoa hiện.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi” tới “làm đài của mình”. 
Tán rằng : đây là mục hai : Văn Thù hỏi nguyên do.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca” tới “nghe kinh Pháp Hoa”. 
Tán rằng : đây là mục ba : Phật thuyết về nguyên do.
*
-Kinh văn : “Văn Thù Sư Lợi” tới “khiến tôi được thấy”. 
Tán rằng : đây là mục bốn : Văn Thù hỏi về hạnh. Có ba ý :
1) Hỏi về phúc tuệ.
2) Nhập định gì ?
3) Y vào định mới có thể thấy. 
Thỉnh (Phật) thông lực gia bị để khiến tôi được thấy. Thị hiện tướng chẳng biết, thực ra đã biết cái Định đó từ lâu rồi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca” tới “mà hiện tướng ấy”. 
Tán rằng : đây là mục năm : Thích Ca giải đáp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Đa Bảo” tới “muốn thấy thân ngươi”. 
Tán rằng : đây là mục sáu : Đa Bảo gọi đến.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Âm” tới “chẳng tấu mà tự vang lừng”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ bảy : Diệu Âm tới đây. Có bốn mục nhỏ :
1) Số Bồ tát tới (lai số).
2) Nơi đi qua.
3) Thân tướng.
4) Tới nơi.
Đây tức là văn hai mục đầu.
*
-Kinh văn : “Mắt Bồ tát này” tới “thân kiên cố”. 
Tán rằng : đây là mục nhỏ thứ ba : Thân tướng.
Có tám đức :
1) Mắt tịnh.
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : Mắt tịnh, dài rộng diệu đoan nghiêm, đẹp như lá của loài sen có hoa đỏ tím.
2) Mặt tròn sáng. 6) Quang minh.
3) Thân sắc. 7) Tướng cụ.
4) Trang nghiêm. 8) Kiên cố.
5) Uy đức.
*
-Kinh văn : “Nhập đài thất bảo” tới “núi Kỳ Xà Quật”. 
Tán rằng : đây là mục bốn nhỏ : Tới đây.
*
-Kinh văn : “Tới rồi, xuống đài” tới “kham nhẫn trụ lâu hay không ?”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tám (của 11 mục) : xuống đài, làm lễ rồi hỏi. Có hai phần :
• Phần đầu là lễ hiến. 
• Phần sau là thỉnh vấn. 
Thỉnh vấn có bốn ý :
1) Hỏi về Phật thân, có 5 câu.
2) Hỏi về chúng sinh, có 7 câu.
3) Hỏi về giáo hóa hàng phục ma, có 4 câu.
4) Hỏi về Đa Bảo, có 2 câu : 
a. Hỏi về việc tới đây. 
b. Hỏi thăm kham nhẫn ở lâu chăng ?
*
-Kinh văn : “Thế tôn ! Tôi nay…” tới “chỉ bảo cho tôi được thấy ”. 
Tán rằng : đây là mục thứ chín (của 11 mục) : xin được thấy Phật Đa Bảo
Đa BảoThích Ca tuy ngồi cùng một tháp, nhưng thần lực che khuất khiến chẳng thấy được. Cho nên xin được thấy ngài.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca” tới “cho nên tới đây”. 
Tán rằng : đây là mục mười : “Thích Ca xin giúp” và mục thứ mười một (của 11 mục) : “Đa Bảo tán dương”.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Hoa Đức” tới “có thần lực này ?”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba của đoạn lớn thứ hai, nói về hóa hạnh. Có 5 mục :
1) Hoa Đức hỏi về nhân.
2) Như Lai bảo rõ.
3) Tán thán hỏi về tu định.
4) Sau đó Phật giải đáp.
5) Đại chúng đương thời được lợi ích
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Hoa Đức” tới “có thần lực này”. 
Tán rằng : dưới là mục hai : Như Lai bảo rõ.
Có 5 ý :
1) Chỉ rõ nhân xưa.
2) Hội thành quả nay.
3) Gặp chư Phật đã lâu.
4) Thực hành rộng rãi lợi hành.
5) Kết luận giải đáp nguyên do
Đây là ý đầu, gồm ba thứ : 
a) Phật. b) Hạnh. c) Kết.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Ông nghĩ sao ?” tới “Diệu Âm Bồ tát Ma ha tát”. 
Tán rằng : đây là ý thứ hai :hội thành, quả nay.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Diệâu Âm Bồ tát này” tới “na do tha đức Phật”
Tán rằng : đây là ý thứ ba : gặp chư Phật đã lâu.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Ông chỉ” tới “không tổn giảm gì”. 
Tán rằng : dưới là ý thứ tư : thực hành rộng rãi lợi hành. Có hai phần :
• Phần đầu : ở phương này.
• Phần sau : tại mười phương
Đây là phần đầu. Có 4 mục : 
1) Nêu việc hiện thân thuyết pháp.
2) Đặc biệt nói rõ việc hiện thân thuyết pháp.
3) Kết luận việc hóa hiện.
4) Trí tuệ không tổn. 
Trong mục đặc biệt nói rõ việc hiện thân thuyết pháp, có hai ý :
a) Tùy nghi hiện 18 loại thân để thuyết pháp.
b) Vì trừ khổ nạnhiện thân thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Bồ tát ấy dùng bao nhiêu” tới “thị hiện diệt độ”. 
Tán rằng : đây là tại mười phương, hiện thân thuyết pháp. Có ba phần : 
. Đầu tiên nêu ra ví dụ về việc làm lợi ích tại mười phương
. Thứ đến tùy theo sự thích nghi của căn cơ (chúng sinh) mà hiện thân thuyết pháp
. Cuối cùngkết luận về hiện thân thuyết.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Diệu Âm…” tới “sự tích vị đó là như vậy”. 
Tán rằng : đây là ý thứ năm (của 5 ý) : kết luận giải đáp nguyên do.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Hoa Đức” tới “vô lượng chúng sinh”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba “tán thán hỏi về tu định” và mục thứ tư (của 5 mục) : “Phật giải đáp cho”.
*
-Kinh văn : “Lúc Phật thuyết phẩm Diệu Âm Bồ tát này” tới “cùng Đà la ni”. 
Tán rằng : đây là mục thứ năm (của 5 mục) trong phần thuyết minh về hóa hạnh, nói về đại chúng đương thời được lợi ích.
Do nghe về hóa hạnh mà được thắng lợi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Âm” tới “sắc thân tam muội”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ ba trong phẩm, nói rõ : việc xong thì về nước. Có ba ý :
1) Nêu lên việc về nước.
2) Tướng nơi kinh qua.
3) Về đến nơi rồi thì trình.
*
-Kinh văn : “Thuyết về Diệu Âm này” tới “Pháp Hoa tam muội”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư trong phẩm, nói về đại chúng đương thời đắc đạo, đều nghe một phẩm mà được thắng ích.
***

PHẨM QUAN THẾ ÂM PHỔ MÔN

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng : sức cứu nạn cho chúng sinh như hai phẩm Quan Thế Âm và phẩm Đà La Ni thị hiện :
- Quan Âm cứu nạn cho chúng sinh chưa phát tâm, khiến họ lìa các nỗi khổ, phát tâm trì kinh này.
- Đà La Ni cứu nạn cho những kẻ đã phát tâm trì kinh, khiến họ lìa khổ trì kinh. 
Thêm nữa :
- Quan Âm dùng ba thứ Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thôngTha tâm thông để cứu hộ cho người trì kinh bị hoạn nạn
- Trong phẩm Đà La Ni thì hai thánh, hai thiên, mười thần, dùng minh chú để cứu hộ cho người trì kinh bị nạn.
Thêm nữa :
- Quan Âm niệm nhân cứu nạn.
- Đà La Ni tụng pháp cứu nạn. 
Lực trì kinh đã lìa các nạn, nếu chẳng dùng phương pháp dễ cứu mà thêm vào, thì sẽ khó tu nghiệp trì kinh. Cho nên đem cái công dễ mà giúp để thành tựu cái nghiệp khó, để khuyến khích việc trì kinh. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
* Chữ [觀] có âm đọc là Quan, lại có âm đọc là Quán. Nay theo âm đầu “Quan”. 
“Quan” : có nghĩa là quan sát rồi dùng bi tuệ mà rủ lòng cứu giúp. 
“Thế” : là thứ mang ý nghĩa có thể phá hoại, tức là thế gian hữu tình sinh tử
“Âm” : chỉ âm thanh, ngữ nghiệp của loài hữu tình
Thế gian hữu tình khởi lên âm thanh để quy niệm Bồ tát. Bồ tát dùng Đại bi tuệ rủ lòng thương mà quan sát rồi tùy cơ ứng cứu, đó gọi là “Quan Thế Âm”. 
Đúng nghĩa thì phải gọi là Quán Tự Tại. Nếu các (chúng sinh) ba nghiệp đều quy y, thì (Bồ tát) lục thông ắt rủ lòng giáo hóa, chẳng phải đợi đến lúc họ bị khổ nguy cấp rồi mới phóng xe đến cứu giúp. Làm người bạn chẳng mời mà đến, làm thày thuốc ứng bệnh, tquyền lực ứng xử linh hoạt khôn lường, cho nên gọi là Quán Tự Tại Bồ tát như trên. 
“Phổ” : có nghĩa là bình đẳng khắp cả. 
“Môn” : là chỗ để từ đó mà ra vào.
Các chúng sinh đã ba nghiệp quy y thì (Bồ tát) lục thông ắt sẽ rủ lòng cứu giúp bình đẳng, chỉ cho họ nơi chốn để từ đó họ ra khỏi cảnh khổ mà đi vào cảnh vui, cho nên gọi là “Phổ Môn”. 
Ba thứ : thần thông, ký thuyết, giáo giới là nơi chốn để lìa khổ, làm nhân do để nhập tịch, đó là các hình thái của Phổ Môn. Song, người có khổ phần nhiều phát ra âm thanh để quy niệm, bậc đại bi ắt ứng niệm mà đến cứu vớt, cho nên gọi là “Quan Âm”. Phẩm này thuyết minh rộng về điều ấy, cho nên gọi là phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Bồ tát đại bi, quan sát thấy khổ thì cứu, tại sao lại phải đợi niệm, rồi sau mới rủ lòng từ mẫn mà cứu giúp ? 
Đáp : nếu chúng sinh vô tâm mà Phật cứu, thì đó là điều bậc đại thánh chẳng thông. Nếu chúng sinh tự mình phát ý mà cầu duyên, thì các thánh đều cùng giúp đỡ. Trước hết nhân ở tự nghiệp, rồi sau mới mượn đến duyên. Tự mình đã chẳng tu, thì duyên làm sao mà khởi được ? Cho nên phải đợi họ quy niệm rồi sau mới cứu họ. Giả sử họ tự mình tu tập nhưng chưa hiểu phương tiện, thì phải nhờ bạn tốt chỉ bảo cho, thì cái khổ mới diệt được.
-Hỏi : mọi Bồ tát đều có năng lực này, cớ sao chỉ một mình ngài Quan Âm bao trùm danh hiệu của các vị đó ? 
Đáp : vì bản nguyện chẳng giống nhau, lợi sự khác nhau. Quan Âm kế nghiệp Phật Vô Lượng Thọ, sẽ làm Phật Bảo Quang Công Đức Sơn Vương, cho nên nêu riêng vị này.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Vô Tận Ý” tới “gọi tên là Quan Thế Âm”. 
Tán rằng : toàn văn phẩm này chia làm 4 đoạn lớn :
1. Vấn đáp về danh nhân (nguyên nhân vì sao mà đặt tên như thế).
2. Vấn đáp về hóa hạnh.
3. Trì Địa tán thán.
4. Kết thành lợi ích đương thời. 
Văn hai đoạn lớn đầu có tụng. Trong đoạn lớn đầu có 3 phần :
a) Hỏi về danh nhân (nguyên nhân của tên gọi).
b) Đáp về tự nghĩa (nghĩa chữ).
c) So đọ công đức trì danh hơn kém ra sao. 
Đây là phần đầu.
“Vô Tận Ý” : kinh A Sai Mạt nói : tu hành đủ các thứ hạnh như lục độ, tứ nhiếp v.v… , thề độ cho chúng sinh, chúng sinh giới tận thì ý của Bồ tát mới tận. Chúng sinh chưa tận thì ý của Bồ tát chưa tận. Cho nên gọi là Vô Tận Ý
Trong Thập Địa kinh dùng mười câu “giới tận” mà làm thành các đại nguyện :
1) Nhất thiết chúng sinh giới tận.
2) Thế giới tận.
3) Hư không giới tận.
4) Pháp giới tận.
5) Niết bàn giới tận.
6) Phật xuất thế giới tận.
7) Như Lai trí giới tận.
8) Tâm sở duyên giới tận.
9) Phật cảnh giới trí nhập giới tận.
10) Thế giới chuyển pháp luân trí chuyển giới tận.
Câu đầu làm thành đại nguyện là : “Nếu như chúng sinh giới tận thì nguyện của ta mới tận”. Như vậy, nếu chúng sinh giới bất tận thì nguyện của ta cũng bất tận. 
Cho đến câu thứ chín : “Phật trí chứng nhập hết thảy cảnh giới đều tận”, câu thứ mười : “Chuyển pháp luân trí nếu chuyển, các pháp đều tận, thì nguyện của ta cũng vẫn bất tận”. 
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : “Tuy đắc Phật đạo, chuyển pháp luân, nhưng chẳng bỏ đạo của Bồ tát, đó gọi là Bồ tát hạnh”. Cho nên vị Bồ tát này tên là “Vô Tận Ý”. 
Tuy hạnh nguyện của các Bồ tát đều giống nhau, nhưng các danh hiệu thì khác nhau, vì bản nguyện khác nhau. Đó là vì muốn thuyết minh kinh này có thể khiến hạnh nguyện đều cũng vô tận
“Hỏi về danh” là muốn khiến dựa vào việc trì niệm (danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ tát) để mà dứt khổ. 
“Hỏi về hạnh” là muốn khiến tu hành để cầu vui.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Vô Tận Ý” tới “đều được giải thoát”. 
Tán rằng : dưới làø đáp về tự nghĩa. Có ba phần :
. Phần đầu : là ngữ nghiệp quy y, dùng Thiên nhĩ thông mà xét tìm âm thanh, cứu khổ.
. Phần hai : là đoạn từ “Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục” trở xuống : là ý nghiệp quy y, dùng Tha tâm thôngquán tâm, cứu khổ.
. Phần cuối : là đoạn từ “Nếu có nữ nhân nào muốn cầu sinh con trai” trở xuống : là thân nghiệp quy y, dùng Thiên nhãn thông mà quán sắc, cứu khổ.
Phần đầu này lại có ba ý :
1) Ý đầu : nêu chung, nếu có khổ mà niệm Bồ tát Quan Thế Âm thì liền được giải thoát.
2) Ý hai : nêu riêng, nếu có tai ách mà niệm Bồ tát Quan Thế Âm thì đều được giải thoát.
3) Ý ba : kết luận, bảo rõ uy thần cao vời vợi như vậy. 
Đây là ý đầu.
Tức là ba đường tám nạn, hết thảy khổ nạn. Chỉ cần như Pháp Lâm quy mệnh là tránh khỏi hình phạt 7 ngày, như Tế Hoan quy ythoát khỏi cái họa 3 dao. 
Du Già luận, quyển 9 nói : Nghiệp có hai loại :
a) Định dị thục nghiệp, nghĩa là Cố tư nghiệp, hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng.
b) Bất định dị thục nghiệp, nghĩa là Cố tư nghiệp đã tạo tác mà chẳng tăng trưởng
Luận trên quyển thứ 89 nói : các nghiệp đã tạo tác dù chẳng tăng trưởng nhưng nếu không hối hận, chẳng tu đối trị, vẫn còn phải thụ quả, thì gọi là tăng trưởng nghiệp. Nếu hối hận v.v… , thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp
Hoặc trước kia là tăng trưởng nghiệp, nay do hối hận v.v… thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp. Như Vị Sinh Oán (tức A Xà Thế) lúc trước khi chưa hối hận, gọi là tăng trưởng nghiệp ; sau khi đã hối hận rồi, thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp
Luận trên quyển 60 nói rằng : căn cứ vào tình trạng chưa được giải thoátkiến lập ra Định thụ nghiệp.
Nói “giải thoát” có nghĩa là Thế đạo phục đoạn, cho đến đắc thánh thành bậc vô học v.v…, tức là chưa nhập Phật pháp như trong kinh Niết Bàn, thì gọi là Quyết định nghiệp. Nếu nhập Phật pháp, thì gọi Bất định nghiệp
Đối Pháp luận quyển 7 nói : Có năm Cố tư tạo :
1) Tha sở giáo sắc (sự dạy bảo ép buộc của người khác).
2) Tha sở khuyến thỉnh (sự khuyến khích mời mọc của người khác).
3) Vô sở liễu tri (không hiểu biết gì).
4) Căn bản chấp trước, chỉ các nghiệp do ba độc che lấp bản tâm, hăng hái chấp trước khởi lên.
5) Điên đảo phân biệt, nghĩa là cho đó là thù thắng vô tội, mà sở hành ác nghiệp
Trong 5 loại này, 2 loại cuối hoặc khởi tác hoặc tăng trưởng, chẳng phải là chẳng thụ dị thục, vì Tư nặng. Còn 3 loại đầu chỉ có khởi tác mà chẳng tăng trưởng, không hẳn là phải thụ dị thục, vì Tư nhẹ.
Đây nói “tác”, có nghĩa là khởi tác các nghiệp khiến chúng hiện hành. “Tăng trưởng” có nghĩa là khiến tập khí dần dà tăng trưởng. Do đây chỉ nói về Cố tư nghiệp, nên chỉ có 5. 
Nhưng Du Già quyển 9 nói : trừ 10 loại ra, số còn lại đều gọi là Cố tư . Mười loại đó là :
1) Mộng.
2) Vô tri.
3) Vô cố tư (không cố ý nghĩ tới).
4) Bất lợi bất sổ (không cho là lợi, không hề đếm xỉa).
5) Cuồng loạn.
6) Thất niệm
7) Phi nhạo dục (chẳng phải ưa muốn).
8) Tự tính vô ký.
9) Hối sở tổn (do hối hận mà giảm đi).
10) Đối trị sở tổn (do đối trị mà giảm đi).
Trừ 10 loại này ra, số còn lại đều tăng trưởng. Đó tức là điều mà Du Già quyển 9 đã nói : “Tăng trưởng nghiệp có 6 loại vậy”. 
Mười loại bất tăng và sáu loại tăng trưởng ở đó, chẳng vượt 3 bất tăng và 2 tăng trong Đối Pháp. Tách ra hay hợp lại là căn cứ phần vị nhiều ít vậy. 
Đối Pháp còn nói : Quyết định có ba :
1) Tác nghiệp quyết định. Do nghiệp lực cũ cảm quyết định thân, ở trong lần sinh này ắt tạo nghiệp này, kỳ hạn quyết định, chẳng hề sai vượt, thần lực của Phật v.v… cũng chẳng thể cứu được.
2) Thụ dị thục quyết định, tức thuận định thụ nghiệp. Quả (nhất) định sẽ thụ, nhưng thời chưa định. Chẳng thế thì Phật xuất thế lẽ ra sẽ không có chúng sinh nẻo ác tạo ác.
3) Phần vị quyết định, là thuận ba thời phần vị định nghiệp. Nếu nghiệp đạo nhiếp thu, thì gọi là thuận định nghiệp. Gia hạnh và hậu khởi thì chung cho cả định (nghiệp) và bất định (nghiệp).
Thêm nữa, chưa hối hận, chưa đối trị v.v… thì gọi là Quyết định nghiệp. Đã hối hận, đã đối trị v.v… thì gọi là Bất định nghiệp
Du Già, quyển 10 nói về ba nghiệp
a) Thuận hiện.
b) Thuận sinh.
c) Thuận hậu thụ nghiệp
Du Già, quyển 60 nói về bốn nghiệp :
1) Dị thục định. 3) Nhị câu định.
2) Thời phân định. 4) Nhị câu bất định.
Duy Thức cũng nói về bốn loại : gồm ba thời và bất định
Hiển Dương quyển 9 nói về năm loại, đó là :
- Ba loại Thuận ba thời.
- Thụ báo định.
- Tác nghiệp quyết định.
Đều giống như Du Già quyển 9, phần toát yếu đã nói, vì ngại rườm rà nên tạm dừng. 
Cho nên niệm Quan Âm sẽ thêm được duyên lành, tự tâm hối lỗi biết hổ thẹn thì thoát khỏi mọi khổ não
Cũng có chỗ giải thích rằng : Bất tăng trưởng nghiệpBất định nghiệp có thể chuyển diệt được. Còn Tam thời quyết định nghiệp và Báo định thời bất định nghiệp thì chỉ có thể khiến giảm nhẹ, chẳng phải là khiến hoàn toàn diệt tận. 
Kinh Kim Cương Bát Nhã nói rằng : tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa vào đường ác nhưng do trì kinh mà bị người coi rẻ, thì tội nghiệp đời trước liền được tiêu diệt và sẽ được Bồ đề. Chẳng nói rằng hoàn toàn diệt. 
Thêm nữa, trong Kinh Hiền Ngu, Ương Quật Ma La tuy đắc A la hán, nhưng vì hiện nghiệp có quả (báo) cho nên bị lửa thiêu. 
Còn nói : thành Ca Tỳ La chỉ trừ một đứa con nít, ngoài ra tất cả nam nữ đều là thánh nhân sơ quả, lẽ ra chẳng đáng bị vua Lưu Ly kia giết hại, thế mà quyết định tạo nghiệp ấy, ngay Phật cũng chẳng thể bài trừ được, huống hồ là lại phải thụ quả (báo). 
Tại quả vị giải thoát mà còn nghiệp thì gọi là Bất định, đó là y vào Bất định nghiệp mà nói. Đây thì chẳng thế. Nếu đắc A la hán thì mọi điều bất thiện đều hết. Vậy còn nghiệp gì mà thụ quả ? 
Tại hai quả vị đầu, những điều bất thiện chưa hết hẳn, chẳng ngăn được quả báo kia, thế thì ngại gì mà chẳng thụ ? 
Trong Kinh Bát Nhã chẳng nói là diệt tận, mà chỉ nêu lên cái vi diệu mầu nhiệm của tâm, nghĩa là nếu chí thành khẩn khiết thụ trì kinh đó thì nhất định chẳng thụ (báo). Nếu chẳng thế thì Ngũ vô gián tội đều là Quyết định nghiệp, thế thì vua Vị Sinh Oán làm sao mà sau khi hối lỗi rồi, lại hết thảy chẳng thụ (quả báo) ? 
Thập Địa luận nói : một là Cảm báo định, hai là Tác nghiệp định, ngay đến uy thần của chư Phật cũng chẳng thể chuyển được.
Nói : tự mình chẳng phát tâm hối hận hổ thẹn, chẳng nhập thánh đạo, thì đó là nghiệp quả quyết định. Chẳng phải là đã hối hận hổ thẹn rồi mà vẫn còn gọi là định nghiệp ư ? 
Kinh Pháp Cú nói : “không có nơi nào dù ở trên không hay ở dưới biển, hoặc vào trong núi đá mà thoát được nghiệp khỏi bị nạn”.
Căn cứ theo đó, thì nếu đã tạo tội rồi mà lại chẳng gặp Phật, gặp Bồ tát v.v… để rồi khởi tâm hối hận hổ thẹnnhập đạo, thì dứt khoát là bị nghiệp báo
Do đó mà kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói rằng : Nếu nghiệp là do tăng thượng tâm khởi tác, thì không còn biết hổ thẹn, đã khởi tác rồi còn tạo tác nữa, không có tâm hối cải, thế thì nghiệp ấy là quyết định. Nếu nghiệp chẳng phải là do tăng thượng tâm khởi tác, thì tuy làm nghiệp ác, trong lòng vẫn luôn luôn hổ thẹn, thế thì nghiệp ấy bất định. Chỉ cần biết rằng các nghiệp được tổn giảm điều phục mà chẳng phải do hối cải, cũng chẳng phải do phát lộ, thì khả năng thụ quả được giảm, nghĩa là sẽ không còn phải thụ quả nữa. 
Song kinh nói rằng : Chỉ Man lúc đến quả vị A la hán mà còn phải thụ nghiệp báo, đó là vì lúc ấy vị đó vẫn còn trụ ở phàm vị và ở hai quả vị đầu, thân hiện tại bấy giờ nhất định sẽ đắc A la hán, đó là nói sẽ được danh hiệu đó, chẳng phải là lúc thụ quả (báo) gọi là A la hán
Hơn nữa, nếu gặp duyên lành thì phải tự phát tâm hối hận hổ thẹn, nhập thánh đạo thì tội nghiệp mới được diệt trừ. Tuy gặp duyên lành, nhưng không có tâm hối hận hổ thẹn, cũng chẳng phải nhập thánh đạo, thì dù ngay đến chư Phật cũng chẳng thể chuyển nổi. 
Họ Thích ở thành Ca Tỳ La bị giết là vì tuy đắc sơ quả, nhưng biệt báo nghiệp tại sơ quả vẫn chẳng được trừ. Hơn nữa, lại chẳng phải là do đã được nghe pháp đại thừa, thâm tâm thành khẩn hối hận hổ thẹn, cho nên phải thụ nghiệp (báo) trước kia. Nếu như đã được nghe đại thừa, thâm tâm thành khẩn hối hận thì cũng chẳng bị giết
Đắc A la hán thì dứt khoát chẳng thụ báo. Nếu có bị giết thì cũng chẳng phải là do nghiệp quả. Chẳng thế thì Chỉ Man giết người chỉ còn thiếu một mạng là đầy một ngàn, cớ sao lại đắc thánh quả được ? Nếu không hối hận hổ thẹn, không điều phục, đoạn trừ, tiêu diệt các tội nghiệp thì chúng sinh sẽ không bao giờ được thụ thánh quả
Do đó nên biết rằng, lúc mới thuyết về làm điều thiện thì chủ yếu phải giống như kinh Niết Bàn, luận Du Già đã dẫn. 
*
-Kinh văn : “Nếu có người trì” tới “gọi tên là Quan Thế Âm”. 
Tán rằng : dưới làø ý thứ hai : nêu riêng những ai gặp ách nạn, nếu xưng tụng danh hiệu Quan Âm thì đều được thoát. 
Có 7 đoạn chia làm 2 phần : 
. 3 đoạn đầu nói về 3 thứ tai họa : lửa, nước, gió. 
. 4 đoạn sau nói về tạp tai.
Đây là phần đầu. 
“Hỏa tai (lửa cháy)”, thì dù to hay nhỏ đều gây tổn hại, nhưng nếu niệm danh thì hết thảy chẳng cháy.
“Thủy tai (lũ lụt)”, thì nếu nước sâu mới có thể gây tổn hại, cho nên niệm danh sẽ được ở chỗ nông.
“Phong tai (bão giông)”, thì nếu gió nhẹ sẽ chẳng tổn hại, gió mạnh mới gây thiệt hại
“Hắc phong (gió dữ)”, ắt sẽ gây thiệt hại cho người, bởi vậy cho nên đã nói riêng về việc gặp loại gió này. Nếu gió chẳng phải là Hắc phong thì nào có tổn hại gì. Trong đoạn nói về phong (tai) có 4 mục :
1) Đi tìm châu báu mà gặp phong (tai).
2) Người thiện bảo niệm danh.
3) Tránh được tai nạn.
4) Nguyên nhân của danh hiệu ấy. 
* “Thuyền” : nghĩa như Chu [舟]. Chữ [舫] có hai âm : Phảng và Phang. Ngọc Thiên giải thích đó cũng là một loại thuyền, ghép hai thuyền lại thì thành Phảng [舫] (thuyền đôi).
*
-Kinh văn : “Nếu lại có người” tới “liền được giải thoát”. 
Tán rằng : đây là bốn tạp tai :
1) Hình phạt chẳng tổn thương.
2) Phi nhân chẳng hại được.
3) Bị tù giam tra tấn đều thoát được.
4) Giặc thù chẳng hại được. 
* “Nữu” [杻] là cùm tay. “Giới” [械] là cùm chân, tức là gông cùm. Gông bằng gỗ ở cổ gọi là Già [枷]. Xiềng bằng sắt ở cổ, ở lưng gọi là Tỏa [鎖]. Chữ [獫] Kiểm : có nghĩa là bắt bớ, tra tấn, xét hỏi. Chữ [狡] Giảo : vốn nghĩa là so đọ, so sánh. Ở đây có nghĩa là tra xét. Chữ [繫] Hệ : nghĩa là trói buộc, đây nghĩa là tù ngục giam hãm
Trí Độ luận nói rằng : “giống như gió chẳng lọt vào chỗ đặc, như nước chẳng chảy ngược lên chỗ cao, như hư không chẳng bị tổn hại, không có nghiệp (báo) cũng giống như vậy”. Vô tội thì làm sao mà tự dưng lại bị tù hãm tai ương ? Đây là căn cứ vào hiện tại chẳng làm thì gọi là vô tội, chứ chẳng phải là trước kia chẳng làm. 
Bài tụng về Hỏa trạch (nhà lửa) nói rằng : 
“Người phỉ báng kinh, 
Hoặc mắc tội khác, 
Phản nghịch cướp bóc
Ăn trộm ăn cắp
Các tội như vậy, 
Ắt bị tai ương ”.
Do trước kia báng kinh, cho nên biết là có tội.
Trong mục “giặc thù chẳng hại được” có bốn ý :
1) Trải qua chốn nguy nan. 3) Vâng mệnh.
2) Khuyên niệm hồng danh. 4) Giải thoát.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật bảo Kiên Ý : “có một loại cây thuốc gọi là cây diệt trừ. Lúc đại quân chiến đấu, có vô số người bị trúng tên độc. Bấy giờ lương y mang cây Dược vương đó để bôi lên mặt trống, rồi đem khua vang lên ở giữa mọi người, thế là trong cùng một lúc vô số tên độc liền được tự nhổ ra”. Vì chư Phật Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội lực, cho nên nếu có người nào xưng tụng danh hiệu tưởng niệm tới các ngài, thì vô lượng tội cấu sẽ tự nhiên trừ diệt, ví như một loại đề hồ có khả năng làm cho khỏi các hoạn nạn”.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý” tới “vòi vọi như vậy”. 
Tán rằng : đây là kết luận bảo rõ thần uy. 
* “Nguy nguy” [巍巍] : đồ sộ, to lớn, vòi vọi.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh” tới “thường nên tâm niệm”. 
Tán rằng : đây là ý nghiệp quy y, dùng Tha tâm thôngquan sát tâm để cứu vớt. Có hai : 
. Đầu tiên quan sát tâm ý. 
. Sau đó kết uy thần
Tạm nêu ba độc, chứ chẳng phải chỉ có chừng ấy, vì hết thảy phiền não, niệm đều diệt cả.
*
-Kinh văn : “Nếu có nữ nhân” tới “danh hiệu Bồ tát”. 
Tán rằng : đây là thân nghiệp quy y, dùng Thiên nhãn thông mà quán sắc để cứu vớt. Có hai mục :
. Đầu tiên là quan sát hai thân nghiệp.
. Sau đó là kết luận về phúc, khuyên hãy tu trì.
Chẳng phải chỉ có ngần ấy nghiệp, nhưng tạm theo tâm lý chung mà nêu ra.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý” tới “phúc đức lợi ích như thế”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba : so sánh công đức hơn kém của việc trì danh. Có bốn mục :
1. Hỏi. 3. Thành.
2. Đáp. 4. Kết.
Bản luận so sánh 62 ức hằng hà sa Phật. Còn kinh này thì lại nói là 62 ức hằøng hà sa Bồ tát. Về điểm này có hai cách giải thích :
1) Cách thứ nhất nói rằng : kinh đúng, luận sai. Bồ tát thì so sánh với Bồ tát, sao lại được đem Phật mà so với Bồ tát. Chỉ được như trong kinh Thập Luân đem Địa Tạng so với Di Lặc, Văn Thù, Quan Âm mà thôi, cũng chẳng so với chư Phật. Nếu chẳng thế thì công đức của Phật hẳn là ít hơn Bồ tát sao ?
2) Cách thứ hai nói rằng : theo luận cũng không sai. Ngài Quan Âm từ lâu đã thành Phật, nhưng vì chẳng xả bỏ hạnh Bồ tát cho nên thị hiện thành Bồ tát. Sao mà chẳng so với Như Lai được ? Chỉ như khi Quan Âm thành Phật, thì công đức, quốc độ cũng thù thắng như Phật Vô Lượng Thọ. Hết thảy Phật thân há lại có chuyện hơn kém ư ? 
Cho nên biết (đó) chỉ là lời khuyến tín, tuy trong kinh là so với Bồ tát, mà luận giải thích thành so với chư Phật cũng không hề có lỗi gì, cả hai đều không sai. 
Luận giải thích về thành tựu, có hai thứ :
1. Tín lực.
2. Tất cánh trí (trí tuệ rốt ráo). 
1. Tín lực. Có hai :
1/- Cầu cho thân ta có được Tất cánh tín như Quan Âm, có nghĩa là cầu cho 62 ức hằng hà sa Phật thân của ta được như Quan Âm, tín tâm không khác. Thánh số sở cầu tuy nhiều ít khác nhau, nhưng công đức không khác vì nguyên nhân là cái tâm bình đẳng.
2) Sinh tâm cung kính. Cầu sao ta rốt ráo cũng sẽ được công đức như vị đó. Có nghĩa là cầu sao có được trí tuệ công đức như bản thân Quan Âm kia thành Phật đã lâu. Ta 62 ức hằng hà sa Phật (thân) cũng rốt ráo sẽ được công đức như chư Phật này, vì tin tưởng công đức của Phật Bồ tát chẳng khác gì nhau. 
Hai thứ này là tín lực. Thoạt đầu chẳng quán cảnh nhiều ít hơn kém, chỉ có tín tâm bình đẳng như nhau. Sau đó quán cảnh nhiều ít tuy có khác nhau, nhưng công đức không hề khác nhau, tín tâm cung kính cũng không có hai. Cho nên phúc không khác nhau. 
2. Tất cánh trí
Có nghĩa là quyết định biết rõ pháp giới. Đây là do Quan Âm đã đắc Tất cánh trí pháp giới, cho nên không khác gì Phật, có thể chứng được pháp giới bình đẳng vô nhị, cho nên thành phúc bình đẳng (với Phật). 
Pháp giới tức là pháp tính. Bồ tát nhập sơ địa có thể chứng được “thân bình đẳng” giống như tất cả Phật Bồ tát, huống chi là hàng Thập địa mãn túc..
“Thân bình đẳng” nghĩa là pháp thân chân như. Bởi vậy, thụ trì danh hiệu Quan Thế Âm, công đức sẽ không khác gì công đức của việc thụ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Phật. Chẳng thế thì Bồ tát há lại hơn Phật ư ?
Tạm đem bấy nhiêu để tán thán, rồi khuyến khích phát tâm. Kinh Thập Luân, quyển nhất nói : “Giả sử đối với hằng hà sa số các vị đại Bồ tát thuộc bậc thượng thủ như các ngài Di Lặc, Diệu Cát Tường, Quán Tự Tại, Phổ Hiền v.v…, trong cả trăm kiếp chí tâm quy y xưng danh, niệm tụng, lễ bái cúng dàng, cầu các điều sở nguyện ; thì cũng chẳng bằng có người chỉ trong khoảnh khắc một niệm chí tâm quy y, xưng danh niệm tụng lễ bái cúng dàng Địa Tạng Bồ tát, cầu các điều sở nguyện chóng được thỏa mãn”.
Hơn nữa, đối với những người có duyên trong chúng sinh đời mạt như vầy, có những điều họ nên nghe, bởi vậy nên mới tán thán riêng (ngài Quan Thế Âm). Chẳng thế thì hóa ra Bồ tát còn hơn cả Phật và các Bồ tát ngôi vị ngang nhau mà lại có sự hơn kém sao ?
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý” tới “sự ấy thế nào”.
Tán rằng : dưới làø đoạn lớn thứ hai : Hỏi đáp về hóa hạnh. Có bốn mục :
1) Hỏi. 3) Hiến dâng.
2) Đáp. 4) Kết luận : bảo rõ.
Đây là mục đầu. 
“Du” : nghĩa là hóa lợi, tức là thần thông.
“Thuyết pháp cho chúng sinh” : là giáo hóa lợi tha
“Lực phương tiện” : là chỉ hai loại trên, tức là khéo léo vận dụng trí tuệ, ứng với tâm của chúng sinh để mà cứu vớt.
*
-Kinh văn : “Phật bảo” tới “mà thuyết pháp cho”. 
Tán rằng : dưới làø mục hai : Đáp. Có ba phần :
• Phần đầu : thân hóa thuyết pháp.
• Phần hai : kết luận về phần trước, khuyến khích bảo ban.
• Phần cuối : có thể cứu được hoạn nạn nguy cấp. 
Đây là phần đầu.
Tổng cộng có 19 loại, phần làm 8 hạng : 
1) Ứng thánh thân, có 3 loại. 
2) Ứng thiên thân, có 6 loại. 
3) Ứng quân thần (vua tôi), có 5 loại. 
Tâm bình tính thẳng, nói năng thật thà, hành động đôn hậu, sống lâu, nhiều của, đó gọi là “Trưởng giả”. Giữ đạo điềm đạm, ít dục, tích đức thì gọi là “Cư sĩ”.
Ở ngôi trị người, gọi là “Quan tể”. 
4) Ứng tứ chúng, có 1 loại. 
5) Ứng phụ nữ thân, có 1 loại. 
6) Ứng đồng nam đồng nữ, có 1 loại. 
7) Ứng bát bộ, có 1 loại. 
8) Ứng Chấp kim cương thần, có 1 loại, 
Tay cầm chày kim cương, là một loại hình tượng khác của Quan Âm.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý” tới “Thí Vô Úy”. 
Tán rằng : đây có hai :
1) Kết luận về phần trước, rồi khuyến khích bảo ban.
2) Có thể cứu giúp hoạn nạn nguy cấp. 
Đàn độ (tức bố thí), có ba loại :
a) Tài thí.
b) Vô úy thí.
c) Pháp thí.
Thuyết phápPháp thí. Cứu giúp lúc hoạn nạn tức là Vô úy thí. Khiến được châu báu v.v…, đó là Tài thí.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý” tới “tháp Phật Đa Bảo”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba : Hiến dâng. 
Có 7 ý :
1) Bạch Phật.
2) Hiến dâng.
3) Quan Âm chẳng nhận.
4) Bẩm bạch, thỉnh nhận.
5) Phật bảo phải nhận.
6) Quán Âm nhận lấy.
7) Chuyển thí cúng dàng. 
phúc điền khó gặp, vì thí thuận đạo lý, vì là chân chính hạnh để cầu Bồ đề, cho nên gọi là “Pháp thí”. 
Quan Âm chẳng thụ vì có ba lẽ :
a) Thiểu dục.
b) Pháp nhĩ (phép phải như thế).
c) Chuyển thí.
Sợ trái với tâm ấy, bởi vậy chẳng thụ. Kệ trong Đại Trang Nghiêm luận nói rằng : 
“Nếu xòe tay bố thí
Tay ấy gọi nghiêm thắng. 
Người nhận rụt tay lại, 
Nghiêm thắng còn hơn thế. 
Nếu nói tôi thí cho,
Lời ấy giá khôn lường. 
Người nhận nói tôi đủ, 
Còn khó lường hơn thế”. 
Trng kinh Thiên Thỉnh Vấn, đức Phật cũng nói rằng : Người bố thí gọi là người được lợi. Người nhận bố thí gọi là người mất lợi. Cho nên Bồ tát chẳng chịu nhận, nhưng vì thương tứ chúng mà phải nhận : một là để khiến họ tùy hỉ, hai là để khiến họ học hành trừ khỏi khổ não. Cho nên nói là “thương xót họ”.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý” tới “thế giới Sa bà”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : kết luận bảo rõ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ” tới “gọi là Quan Thế Âm” 
Tán rằng : dưới làø trùng tụng về hai nghĩa Danh Hạnh nói trên. Chia làm hai phần :
- 1 tụng đầu : Hỏi
- 25 tụng sau : Đáp. 
Đây là phần đầu : chỉ hỏi về nguyên nhân đặt tên, nhưng đáp cả về hóa hạnh.
*
-Kinh văn : “Đấng đầy đủ tướng tốt” tới “diệt được các cõi khổ”. 
Tán rằng : dưới làø 25 tụng, tụng về Phật bảo.
Trong chia làm 4 phần :
1. Phần đầu gồm 3 tụng : nêu chung hứa thuyết.
2. Phần hai gồm 12 tụng : chính thức giải đáp về nguyên nhân đặt tên.
3. Phần ba gồm 3 tụng : giải đáp về hóa hạnh.
4. Phần cuốí gồm 7 tụng : tán thán công đức, khuyên hãy quy y
Phần đầu này chia làm ba :
- 1 tụng đầu, thuật lại lời Phật đáp, ứng với các phương sở mà thuyết về cả hai thứ Danh và Hạnh.
- 1 tụng kế, bàn về nhân hành trước kia, phát nguyện gặp duyên, nhiều kiếp tu hành hạnh bất tư nghị.
- 1 tụng cuối, hứa sẽ trình bày cho về Danh Hạnh. Những thứ đã từng kinh qua tai mắt, tâm niệm không sai, nhất địnhthể diệt được khổ.
*
-Kinh văn : “Giả sử có ý hại” tới “tức thời bị tiêu tan”. 
Tán rằng : đây là 12 tụng : chính thức giải đáp về nguyên nhân đặt tên, chia làm 9 phần :
1) Một tụng về trừ hỏa tai.
2) Một tụng trừ thủy tai.
3) Hai tụng : trừ nạn núi.
4) Hai tụng : trừ nạn dao.
5) Một tụng : trừ nạn bị bắt bớ giam cầm.
6) Một tụng : trừ nạn chửi rủa.
* Chữ Chú [咒] nghĩa như chữ Chúc [囑], có nghĩa là nhủ bảo, dùng lời thiện hay ác mà nhủ bảo lẫn nhau thì gọi là Chú [咒].
Chữ Trớ [詛], có nghĩa như chữ [阻] : Trở, trong từ trở ngại : khiến người ta hành sự bị trở ngại, bị hạn chế bởi lời nói. Có bản viết là [咀] Tứ, chữ này có nghĩa như chữ Tước [嚼] nghĩa là nhai. Chẳng phải là nghĩa ở đây. 
Như thầy thuốc giỏi thoạt đầu phải làm cho bệnh phát ra, rồi sau đó chữa cho khỏi bệnh. Cho nên thoạt đầu phải tác động vào bản thân người đó rồi sau mới khiến người đó phát ra ý tốt.
7) Một tụng : trừ nạn phi nhân.
8) Hai tụng : trừ nạn ác thú.
9) Một tụng : trừ nạn thiên tai : Mây nổi sấm. 
“Sấm động” : Tây vực gọi là “tiếng mây xòe chớp”. Phương này giải thíchâm dương khích động nhau mà loè sáng. 
* Thích Danh giải thích chữ Xiết [掣] có nghĩa là dẫn. “Điện” nghĩa như chữ Điển [殄], ý nói vừa mới loé ra đã biến mất ngay. Người Quan Trung gọi là Tiễn Điện [ 電]. Người Ngô gọi là Sấm Đạn [ ]. Chữ trên (chỉ chữ [ ])đọc là Tiễn. Chữ dưới (chỉ chữ [ ]) đọc là Điện. Chữ Bão [雹] (mưa đá) : Trịnh Huyền giải thích Lễ Ký nói rằng : khí Dương làm mưa, khí Âm uy hiếp nó, ngưng kết lại mà thành mưa đá [雹].
*
-Kinh văn : “Chúng sinh bị khốn ách” tới “khiến dần dần diệt hết". 
Tán rằng : đây là giải đáp về hóa hạnh. 
- 1 tụng nêu chung về việc trừ khổ.
- 1 tụng về khả năng thị hiện thành các thân. 
- 1 tụng nêu riêng về việc trừ khổ.
*
-Kinh văn : “Chân quán thanh tịnh quán” tới “vậy nên cần đảnh lễ”. 
Tán rằng : đây là 7 tụng cuối : tán thán công đức, khuyên hãy quy mệnh. 
Trong chia làm 6 phần :
1) Một tụng nêu ngũ quán, khuyên hãy phát nguyện thường xuyên chiêm ngưỡng
* Có bản viết chữ Thường [常] lầm thành chữ Đương [當] thế là sai. Vì hiện “thường” nguyện điều đó, chứ chẳng phải là “đương” bắt đầu nguyện.
2) Một tụng nói rõ Đại trí diệt được tai nạn.
3) Một tụng nói rõ pháp thí có thể trừ được phiền não
“Đại bi chế giới” : tựa như sấm vang, có nghĩa là cái biến độngtác dụng cảnh cáo
* Phương ngôn gọi là Giới bị (phòng bị). Chữ Giới [戒] cổ văn viết là [誡] Giới (răn bảo). 
“Từ ý” : che khắp giống như đám mây lớn mầu nhiệm. Có bản chép là “Từ âm”, đó là chép sai, vì tiếng Phạm là Mai Đát Lị Mạt Na.
4) Một tụng về Vô úy thí, có thể trừ được bố úy, 
5) Một tụng nói rõ Tài thí, có thể trừ được nghèo khổ.
Giống như thủy triều ở biển nhất địnhthể diệt được các nỗi khổ đúng lúc cần thiết, do thường quán khởi niệm. Đây có năm Âm : Diệu Âm cho vui, Quan Âm cứu khổ, Phạm Âm thâm tịnh, Triều Âm đúng lúc, Thắng Âm xuất thế.
6) Hai tụng cuối : khuyến niệm, khuyến lễ vì lễ có thể diệt khổ ách.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Trì Địa” tới “công đức chẳng ít”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba trong phẩm nói về Trì Địa tán thán.
Ở đây luận nêu 2 môn :
1. Mười pháp Trì Địa tam muội.
2. Mười loại Tự tại.
1. Mười pháp Trì Địa tam muội.
Theo Kinh Bảo Vân, Bồ tát có 10 pháp gọi là Trì địa tam muội :
1) Như đất kia rộng lớn vô lượng vô biên. Bồ tát cũng thế, công đức trí tuệ trang nghiêm, nguyện hạnh vô lượng vô biên.
2) Như đất kia là nơi chúng sinh nương tựa vào, ai nấy tùy theo ý muốn đều được cứu giúp, chu cấp, đều được vừa ý, không trở ngại gì. Bồ tát cũng thế, thực hành Lục độ mọi thứ đều cho chúng sinh, tâm không ngần ngại.
3) Như đất kia không hề có chuyện yêu ghét, (chúng sinh) trút đổ bất cứ thứ gì lên đất để báo đáp lại, đất cũng chẳng mừng chẳng giận. Bồ tát cũng thế, dưỡng dục chúng sinh chẳng mong báo đáp.
4) Như đất, trời đổ mây mưa, thì đất đều tiếp thu cả, đều duy trì được. Bồ tát cũng thế, hết thảy chư Phật nổi mây đại bi, đổ mưa pháp vũ, thì Bồ tát có thể tiếp thu duy trì được tất cả đúng như lời Phật thuyết
5) Như đất kia là nơi mà hết thảy cỏ cây rừng rú cùng chúng sinh đi đứng nằm ngồi thảy đều nương tựa vào đó. Bồ tát cũng thế, hết thảy xu hướng tu hành hướng thiện của chúng sinh, nhị thừa học pháp, Niết bàn đều nhân Bồ tát mà có.
6) Như đất kia, mọi chủng tử phải dựa vào đó mà sinh trưởng. Bồ tát cũng thế, hết thảy chủng tử thiện nghiệp của trời người đều dựa vào Bồ tát mà được sinh trưởng.
7) Như đất có thể sản xuất ra mọi thứ báu. Bồ tát cũng thế, công đức thiện bảo, hết thảy mọi thứ lạc cụ của chúng sinh đều do Bồ tát mà ra.
8) Như đất sản xuất ra các thứ thuốc thần diệu có thể chữa khỏi các bệnh. Bồ tát cũng thế, có thể sản xuất ra mọi thứ pháp dược có thể trừ được hết thảy mọi bệnh phiền não.
9) Như đất kia, gió chẳng lay động được, ruồi bọ, ong, bọ cạp chẳng thể làm tổn hại được. Bồ tát cũng thế, hết thảy mọi duyên nội ngoại bức não chẳng thể quấy rối nhiễu loạn được.
10) Như đất kia, sư tử gầm rống, long tượng sấm sét, chẳng thể làm cho kinh sợ được. Bồ tát cũng thế, hết thảy 95 loại ngoại đạo đều chẳng động đến được. 
Đủ mười sự ấy, thì Bồ tát được gọi là Trì Địa tam muội, vì đắc Trì Địa tam muội cho nên gọi là Trì Địa, hoặc là tu trì Thập địa thì gọi là Trì Địa .
2. Mười loại Tự tại.
Nói về Tự tại, thì Nhiếp luận và kinh Hoa Nghiêm đều thuyết có 10 loại. Kinh Hoa Nghiêm nói :
1) Thọ tự tại, vì vô biên kiếp trụ.
2) Tâm tự tại, vì xuất vô số định, nhập thâm trí.
3) Trang nghiêm tự tại, vì có thể trang nghiêm được mọi cõi đất. Nhiếp luận gọi là “Chúng cụ tự tại”.
4) Nghiệp tự tại, vì tùy thờithụ báo.
5) Sinh tự tại, vì thị hiện sinh ra ở mọi cõi.
6) Giải thoát tự tại, vì thấy chư Phật đầy khắp mọi cõi. Nhiếp luận gọi là “Thắng giải tự tại”.
7) Dục tự tại, vì thành Bồ đề vào bất cứ lúc nào, bất cứ cõi nào.
8) Thần lực tự tại, vì thị hiện mọi thứ thần biến.
9) Pháp tự tại, vì thị hiện vô lượng vô biên pháp môn.
10) Trí tự tại, vì trong mỗi niệm đều thị hiện giác ngộ Như Lai thập lực, vô sở úy. 
Song sự giải thích có hơi khác với Nhiếp luận. Còn hành Lục độ cũng được giải rộng như Nhiếp luận.
Ở đây tức là “Thần lực tự tại” vì phổ thị chư môn.
*
-Kinh văn : “Phật thuyết.. đó” tới “Tam Bồ đề tâm”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ tư : Kết luận, thành tựu ích lợi đương thời.


***













PHẨM ĐÀ LA NI

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng : phẩm này mục đích thuyết minh cái lực để cứu hộ cho chúng sinh khỏi các hoạn nạn, như trên đã giải thích
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 
Tiếng Phạm : Đà la ni, ở đây (tức Trung Quốc) gọi là Tổng trì. Niệm tuệ là Thể, dùng thần lực của một số ít văn tự vô nghĩa bí mật để gia trì, uy linh không gì sánh nổi, phá tà diệt ác, dựng chính nêu thiện, cho nên gọi là Đà la ni. Phẩm này thuyết minh về điều đó, cho nên gọi là phẩm Đà La Ni.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Tổng trì có bốn loại : để đạt được Pháp, Nghĩa, Biện tài, Từ vô ngại giải, theo đó mà thuyết về bốn loại. Còn ở đây thì thuyết về cái gì ?
Đáp : trên kia trường hàng đã thuyết về Pháp, Nghĩa trì. Nay ở đây thuyết về Chú trì. Để giúp hai thứ trước, bởi vậy mới thuyết minh về vấn đề này. 
Vô đắc, Vô sinh nhẫn : đó là Tổng trì.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Dược Vương” tới “công đức rất nhiều”. 
Tán rằng : toàn phẩm chia làm 3 đoạn :
1. Đoạn đầu thuyết minh về phúc của việc trì kinh.
2. Đoạn hai thuyết minh về phương thần chú.
3. Đoạn cuối thuyết minh về đại chúng đương thời được lợi ích
Đoạn đầu này có 2 phần : 
- Đầu tiên là hỏi.
- Sau đó là đáp. 
Trong đáp có 3 mục :
1) Hỏi lại. 2) Đáp thẳng. 3) Phật thuyết.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Dược Vương” tới “có nhiều điều ích lợi”. 
Tán rằng : dưới làø thuyết minh về phương thần chú. Có năm, hợp lại thành ba loại :
• Loại đầu là 2 thánh.
• Loại sau là 2 thiên.
• Loại cuối là 10 thần. 
Đây là thánh đầu. Có 4 mục :
1) Nêu. 
2) Thuyết. 
3) Kết thắng (kết luận về sự thắng diệu).
4) Phật tán thán.

*
-Kinh văn : “Bấy giờ Dũng Thí” tới “chư Phật đó rồi”. 
Tán rằng : đây là thánh thứ hai. Có 4 mục :
1) Nêu. 3) Chính thuyết.
2) Công năng. 4) Kết thắng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Tỳ Sa Môn” tới “không có suy giảm hoạn nạn”. 
Tán rằng : dưới làø 2 thiên. Đây là vị thiên đầu, có 3 mục :
1) Nêu. 2) Thuyết. 3) Kết thắng.
“Tỳ Sa Môn” : đây dịch là Đa văn, là vị thiên (vương) ở phương Bắc trong Tứ thiên vương, thường tán trợ Phật pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Trì Quốc” tới “chư Phật đó rồi”. 
Tán rằng : đây là vị thiên vương thứ hai. Có 3 mục :
1) Nêu. 2) Thuyết. 3) Kết thắng. 
Đây tức là Đông diện thiên vương.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ có La Sát nữ ” tới “Pháp sư như vậy”. 

Tán rằng : đây là 10 thần. Có 7 phần :
1) Nêu danh.
2) Thỉnh thuyết.
3) Chính thuyết.
4) Khuyên chớ não hại pháp sư.
5) Lại thuyết thêm kệ để ví dụ về tội.
6) Xin đích thân hộ trì.
7) Phật tán dương. 
Phần Phật tán dương có ba :
1/- Đầu tiên là tán dương chung.
2/- Sau đó là tán dương riêng.
3/- Cuối cùng là khuyên ủng hộ Pháp sư.
*
-Kinh văn : “Lúc thuyết phẩm Đà la ni này” tới “Vô sinh pháp nhẫn”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba trong phẩm nói về đại chúng đương thời được lợi ích.

***

PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BẢN SỰ

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có hai ý :
1. Luận nói rằng : thắng lực công đức là do phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương thị hiện. Phẩm này thuyết minh về việc Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn trì kinh Pháp Hoa, đã ngộ đạo, dựa vào thắng lực công đức mà khiến vua cha vốn có tà kiến được hồi tâm, được thụ ký tương lai sẽ thành Phật. Đó đều là do lực công đức của Pháp Hoa. Nói về bản duyên của vị đó để làm lợi ích cho pháp hội lúc bấy giờ. Cho nên mới có phẩm này.
2. Phẩm Diệu Âm trước kia thuyết minh về việc Hoa Đức Bồ tát xin hỏi về tam muộiDiệu Âm chứng được, nhờ vậy mà tự mình chứng được Pháp Hoa tam muội. Diệu Trang Nghiêm Vương ở đây chính là Hoa Đức. Trước khi đắc tam muội thì Diệu Trang Nghiêm Vương vốn chấp trước tà kiến. Nay thuyết minh về chuyện hai con khuyên giải thuyết phục vua cha. Làm thiện tri thức thì chẳng chọn kẻ oán người thân mà chỉ bảo cho mọi người biết, khiến họ hoằng dương kinh này. Cho nên mới có phẩm này. 

II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Khi còn làm vua chúa quyền quý tại thế tục thì dùng châu báu lụa là để mà trang sức, nhưng khi đã bỏ tà kiến nhập chính đạo thì dùng Pháp bảo thắng diệu để khiến bản tâm được trong sáng như ngọc, cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm Vương. Là nhân duyên đời trước, cho nên gọi là Bản sự
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : phẩm này chủ yếu thuyết minh về Tịnh TạngTịnh Nhãnthiện tri thức. Cớ sao chẳng lấy đó mà đặt tên phẩm ?
Đáp : nhờ công đức thắng diệu mà bản thân Diệu Trang Nghiêm Vương bỏ tà nhập chính, chứ chẳng phải là hai con ông ta. Hai con ông tuy là thiện hữu, nhưng cha nhờ công đứcbản thân nhập chính.
Thêm nữa, Hoa Đức trước kia tức là Diệu Trang Nghiêm Vương, muốn hợp nhất thân ấy cho nên lấy đó làm (tên) phẩm. Lại nữa, Tịnh TạngTịnh Nhãn tức Dược VươngDược Thượng, trước đã thuyết minh về Dược Vương, sợ tên đầu đề bị phiếm lạm, cho nên chẳng dùng mà đặt tên phẩm.
*
- Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo” tới “tên kiếp là Hỉ Kiến”. 
Tán - rằng : toàn phẩm văn chia làm 4 đoạn :
1. Kể về bản duyên.
2. Hội kim cổ.
3. Khuyên mọi người quy lễ.
4. Kết thành lợi ích của đại chúng
Đoạn đầu lại chia làm 4 phần :
1) Kể về thời.
2) Nêu Phật.
3) Thuyết minh về cha con Bồ tát.
4) Thuyết minh rộng về nguyên do.
Đây là hai phần đầu.
*
-Kinh văn : “Trong pháp Phật đó” tới “thứ hai tên là Tịnh Nhãn”. 
Tán rằng : đây là phần ba : thuyết minh về cha con Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Hai người con này” tới “cũng đều thông đạt”. 
Tán rằng : dưới làø phần thứ tư : thuyết minh rộng về nguyên do, chia làm 4 phần :
1. Tán thán đức của hai con.
2. Thuyết minh về Phật đương thời thuyết pháp.
3. Đoạn từ “Bấy giờ Tịnh Tạng Tịnh Nhãn” trở xuống : nói về việc hai con cảm hóa cha.
4. Đoạn từ “Vua ấy tức thì đem nước giao phó cho em trai” trở xuống : nói về việc (Diệu Trang Nghiêm) xuất gia được lợi ích
Đây là phần đầu. Có 3 mục :
A. Mục đầu : nêu thành phúc trí.
B. Mục hai : liệt kê riêng 4 đức.
C. Mục cuối : liệt kê 7 định. 
B. Bốn đức :
1) Lục độ.
2) Phương tiện thiện xảo, có 12 thứ : 
(1) Bi tâm cố luyến. 
(2) Liễu tri chư hành.
(3) Thường ở chốn sinh tử.
(4) Vui được diệu trí Phật. 
(5) Luân hồi chẳng nhiễm. 
(6) Hăng hái tinh tiến.
Sáu thứ này là nội. 
(7) Khiến chỉ dùng ít thiện mà cảm được vô lượng quả.
(8) Chỉ dùng lực nhỏ mà thu được thiện căn lớn. 
(9) Kẻ ghét thánh giáo thì khiến họ trừ được sân não. 
(10) Kẻ dừng giữa chừng, thì khiến họ thú nhập. 
(11) Kẻ đã thú nhập rồi, thì khiến họ thành thục
(12) Kẻ đã thành thục rồi thì khiến họ được giải thoát.
Sáu thứ này là ngoại.
3) Tứ vô lượng.
4) Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
C. Bảy định : 
Đây là “Các tam muội” : 
1. “Tịnh (tam muội)” : là vì đã đoạn chướng chứng chân. 
2. “Nhật tinh tú” : là vì như mặt trời đại phá, như vô vàn tinh tú phá được các ám. 
3. “Tịnh quang” : là vì phóng đại quang
4. “Tịnh sắc” : là vì hiện các diệu sắc
5. “Tịnh chiếu minh” : là vì soi tỏ Phật pháp
6. “Trường trang nghiêm” : là vì chứng được công đức không hề suy giảm
7. “Đại uy đức” : là vì khởi thần thông.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật đó” tới “kinh Pháp Hoa này”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : thuyết minh về Phật đương thời thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn” tới “cần phải nghe và vâng theo”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba : hai con cảm hóa cha. Có 5 phần nhỏ :
1. (Con) thưa với mẹ xin tới chỗ Phật.
2. Mẹ sai con cảm hóa cha.
3. Vâng lời dạy, tiến hành cảm hóa.
4. Đoạn từ “Bấy giờ tám vạn bốn ngàn người trong hậu cung của Diệu Trang Nghiêm Vương” trở xuống : tín tâm theo Phật.
5. Đoạn từ “Bấy giờ Phật đó thuyết pháp cho vua” trở xuống : Phật đáp ứng, dẫn đạo làm lợi lạc
Đây là phần đầu. Có 2 mục : đầu là nêu ra, sau là giải thích
* Chữ [爪] (móng vuốt) âm đọc là Trảo. Lại có bản viết là [抓] (Trảo : cào, cấu, ngắt bằng móng vuốt. Sách Ngọc Thiên giải thích [抓] Trảo là cấu, ngắt, cào (bằng móng vuốt).
Dùng móng vuốt mà cào cấu vật thì gọi là [抓] Trảo, tuy âm đọc giống chữ [爪] Trảo, nhưng ở đây chẳng phải là chỉ móng vuốt.
*
-Kinh văn : “Mẹ bảo con rằng” tới “cùng nhau cùng đi” 
Tán rằng : đây là phần thứ hai của 5 phần : mẹ sai con cảm hóa cha.
*
-Kinh văn : “Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn” tới “nhà tà kiến này”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba của 5 phần : vâng lời dạy tiến hành cảm hóa. Có 9 mục :
1) Hai con sinh hận.
2) Mẹ khiến nghĩ tới cha.
3) Thuận theo lời, liền hóa độ.
4) Cha thấy, mừng hỏi.
5) Hai con giải đáp cặn kẽ.
6) Cha nói muốn đi.
7) Bẩm với mẹ, xin xuất gia.
8) Mẹ bèn cho phép.
9) Bạch với cha mẹ, xin tới chỗ Phật. 
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Mẹ bảo con rằng” tới “đi đến chỗ Phật”.
Tán rằng : đây là mục thứ hai : mẹ khiến nghĩ tới cha.
*
-Kinh văn : “Thế là hai con” tới “tâm tịnh tín giải”. 
Tán - rằng : đây là mục thứ ba : thuận theo lời (mẹ) tiến hành hóa độ (cho cha). Đầu tiên nêu ra, sau đó giải thích, cuối cùng kết luận.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ cha thấy con” tới “chúng con là đệ tử”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư “cha thấy mừng hỏi” và mục thứ năm “hai con giải đáp cặn kẽ”.
*
-Kinh văn : “Cha bảo con rằng” tới “xin cho con xuất gia”. 
Tán rằng : đây là mục thứ sáu “cha nói muốn đi” và mục thứ bảy “báo với mẹ, xin xuất gia”.
Mục “báo với mẹ, xin xuất gia” có hai phần :
- Phần đầu : báo rằng cha đã tin hiểu, phát tâm.
- Phần sau : xin mẹ cho xuất gia
“Xuất gia” : khoan khoáng dụ như hư không. Như khế kinh nói : “chim Công tuy có màu sắc để trang điểm cho thân mình, nhưng chẳng bằng chim Hồng, chim Hạc có thể bay xa. Người bạch y (tức người tại gia) tuy có thế lực giàu sang, nhưng chẳng bằng người xuất giacông đức thắng diệu”. 
Thập Luân kinh nói : “hoa Chiêm bác ca tuy héo nhưng vẫn còn hơn các hoa khác lúc đang tươi. Các Bật sô phá giới ác hạnh vẫn còn hơn hẳn các ngoại đạo tinh tiến”. 
Do đó mà hai con xin mẹ xuất gia.
*
-Kinh văn : “Mẹ liền bảo rằng” tới “thời cơ cũng khó gặp”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tám “mẹ hiền cho phép” và mục thứ chín “bạch với cha mẹ, xin tới chỗ Phật”. Mục thứ chín có 3 phần :
- Đầu tiên nêu lên lời xin. 
- Sau đó giải thích lời xin. 
- Cuối cùngkết luận về lời xin.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ tám vạn bốn ngàn người trong hậu cung của Diệu Trang Nghiêm Vương” tới “ưa thích Phật pháp”. 
-Tán rằng : trong 5 phần nói về hai con cảm hóa cha, thì đây là phần thứ tư nói về tín tâm qui Phật. Có 3 mục :
- Mục đầu : thuyết minh về đạo khí kham thành.
- Mục hai : hai con khéo cảm hóa.
- Mục cuối : mọi người tới chỗ Phật. 
Đây là hai mục đầu. 
Trong mục đạo khí kham thành có bốn loại :
1) Hậu cung. 3) Tịnh Tạng.
2) Tịnh Nhãn. 4) Phu nhân.
*
-Kinh văn : “Thế là Diệu Trang Nghiêm Vương” tới “lùi ra đứng ở một phía”. 
Tán rằng : đây là mọi người tới chỗ Phật.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật đó” tới “phóng đại quang minh”. 
Tán rằng : trong 5 phần nói về hai con cảm hóa cha, đây là phần thứ năm nói về Phật đáp ứng, dẫn đạo làm lợi lạc. Có 4 ý :
1) Phật khéo thuyết pháp.
2) Vua cởi hạt châu đem bố thí.
3) Vua nghĩ tới sắc thân Phật.
4) Phật hỏi, ký thành. 
Đây là hai ý đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Trang Nghiêm” tới “công đức như vậy”. 
Tán rằng : đây là ý thứ ba : “vua nghĩ tới sắc thân Phật” và ý thứ tư “Phật hỏi, ký thành”. 
Trong mục “Phật hỏi, ký thành” thì đầu là hỏi, sau là ký. Trong ký có sáu :
1) Nhân. 4) Kiếp.
2) Thể. 5) Chúng.
3) Nước. 6) Cõi đất.
*
-Kinh văn : “Vua ấy lập tức” tới “Trang nghiêm tam muội”. 
Tán rằng : trong 4 phần của đoạn đầu, thì đây là phần thứ tư thuyết minh rộng về nguyên do, phần này nói về xuất gia sẽ được lợi ích. Có 6 ý :
1) Xuất gia.
2) Tu hành đắc định.
3) Lên trên không bạch Phật.
4) Tán thán ấn chứng, rồi trần thuyết rộng.
5) Từ trên không xuống, tán thán, phát nguyện.
6) Nói rồi thì lui ra. 
Đây là hai ý đầu.
*
-Kinh văn : “Liền lên hư không” tới “tới sinh ở nhà ta”. 
Tán rằng : đây là ý thứ ba : lên trên không bạch Phật. Có ba mục :
1) Đầu là lên trên không.
2) Sau đó là chính thức tác bạch.
3) Mục cuối : kết bằng tán thán.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Vân Lôi Âm” tới “được gặp thiện tri thức”. 
Tán rằng : đây là ý thứ tư : tán thán ấn chứng, trần thuyết rộng ra. Có 3 mục :
1) Mục đầu : nói rõ nhờ nhân xưa mới gặp được thiện hữu.
2) Mục sau : giải thích ý nghĩa của lợi ích do thiện hữu.
3) Mục cuối : nêu bật cái nhân khiến vua phát tâm Bồ đề, đó là hai người con làm thiện hữu.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Thiện tri thức ấy” tới “Tam bồ đề tâm”. 
Tán rằng : đây là giải thích ý nghĩa của lợi ích do thiện hữu. Có 2 phần :
1) Phần đầu nêu rõ lợi hỷ của việc chỉ giáo khiến chứng quả đại Bồ đề.
2) Phần sau nêu rõ cái nhân khiến được thấy Phật, phát tâm Bồ đề
Kinh Thiện GiớiBồ Tát Địa luận nói : “Nếu thân cận thiện hữu thì giới không bị khuyết phá. Đa văn, tu chứng, ai mẫn, vô úy, kham nhẫn, không mỏi, ngôn từ biện liễu, đó gọi là tướng thiện hữu. Cầu thí lợi lạc, hiểu biết đúng đắn về điều này, có lực, khéo quyền nghi, làm lợi ích không ngừng, đại bi không thiên lệch, đó gọi là thiện hữu. Làm gì cũng chẳng dối, uy nghi viên mãn, ngôn hành đôn hậu nghiêm túc không hề mỏi mệt, không hề ghen ghét, tiết kiệm xúc tích cần thì thí xả, can gián nêu lỗi, khiến phải nhớ lại, truyền thụ, răn bảo, năng thuyết pháp cho, đó gọi là thiện hữu
Đáng làm chỗ tin cậy, dù có bệnh hay không có bệnh đều kính yêu cúng dàng hầu hạ. Thăm hỏi, rước lễ, tu nghiệp hòa kính, đồ vật bốn sự lúc cần đến đều chẳng thiếu, kính cẩn phụng sự, hỏi nghe không động, đó gọi là thân cận”. 
Kinh Niết Bàn nói : “Thiện tri thức là người trụ ở khắp nơi trong hình tướng Phật, Bồ tát, Bích chi Phật, Thanh văn và người phàm. Vì sao gọi là thiện tri thức ? Thiện tri thức là người có khả năng giáo hóa chúng sinh xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều thiện. Vì nghĩa này mà gọi là thiện tri thức
Thêm nữa, thiện tri thức là người như pháp mà mà thuyết, như pháp mà hành. Thế nào gọi là như pháp thuyết, như pháp mà hành ? Nghĩa là tự mình chẳng sát sinh, bảo ban người khác chẳng sát sinh. Cho đến tự mình tu hành chính kiến, giáo dục người khác tu hành chính kiến. Nếu làm được như vậy thì được gọi là bậc chân thiện tri thức
Này thiện nam tử ! Như vầng trăng trong hư không, từ ngày mùng một tới ngày rằm dần dần tăng trưởng. Bậc thiện tri thức cũng giống như vậy, khiến các học nhân dần dần xa ác pháp, tăng trưởng thiện pháp.”
Theo Kinh Hoa Nghiêm thì Bồ tát có mười loại thiện tri thức. Những gì là mười :
1) Có thể khiến an trụ ở tâm Bồ đề.
2) Có thể khiến tu tập thiện căn.
3) Có thể khiến tu hành rốt ráo các Ba la mật.
4) Có thể khiến phân biệt giải thuyết mọi pháp.
5) Có thể khiến an trụ thành thục.
6) Có thể khiến đầy đủ biện tài, hỏi gì cũng giải đáp được.
7) Có thể khiến chẳng trước mọi thứ sinh tử.
8) Có thể khiến tu hành hạnh Bồ tát, tâm không hề mỏi mệt chán nản trong mọi kiếp.
9) Có thể khiến an trụ ở hạnh Phổ Hiền
10) Có thể khiến thâm nhập hết thảy Phật trí
Thêm nữa, thiện tri thứccha mẹ ta, vì sinh trưởng được hết thảy các thiện căn. Hơn nữa, thiện tri thức còn làm thuốc tốt chữa khỏi các bệnh, còn là con mắt để dẫn dắt tới chỗ sáng, là mặt trăng mặt trời chiếu rọi mở ra con đường chính giác để vượt ra khỏi thế gian, cho tới nói rộng ra nữa thì đó là tất cả Phạm hạnh để cảm hóa chúng sinh, khiến được thấy Phật, gọi là đại duyên ; khiến phát tâm Bồ đề vô thượng, gọi là đại nhân. Do nhân duyên này mà khiến chứng Phật quả, gọi là Phật sự.
*
-Kinh văn : “Đại vương ngài thấy” tới “khiến trụ chính kiến”. 
Tán rằng : đây nêu rõ cái nhân khiến vua phát tâm Bồ đề, đó làø hai người con làm thiện hữu.
*
-Kinh văn : “Diệu Trang Nghiêm Vương” tới “như quả Tần bà”. 
Tán rằng : đây làø từ trên hư không xuống, tán thán, phát nguyện. Có hai phần :
1) Phần đầu : tán thán 5 đức.
2) Phần sau : phát 6 nguyện. 
* Chữ [紺] có âm đọc là Cam, màu xanh ánh đỏ (tức màu cánh cam). 
Mắt Phật có sắc đẹp như màu lá của loài sen có hoa đỏ tía. Xanh có ánh hồng bao quanh nên gọi là màu xanh đỏ. 
“Quả Tần bà” màu đỏ và bóng cho nên lấy làm ví dụ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Trang Nghiêm Vương” tới “các tâm ác”. 
Tán rằng : dưới làø phát 6 nguyện, trong đó phần đầu tán thán chung Phật pháp, phần sau là phát riêng sáu nguyện.
Dù là “giáo” (dạy) hay là “giới” (răn) nơi chốn thực hành hai loại này thảy đều yên ổn, vì chúng sinh lìa ác mà tích thiện.
*
-Kinh văn : “Nói lời này rồi, lễ Phật mà ra”. 
Tán rằng : đây là ý thứ sáu : nói rồi thì lui ra.
*
-Kinh văn : “Phật bảo đại chúng” tới “Bồ tát đấy”.
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : hội kim cổ.
*
-Kinh văn : “Dược Vương, Dược Thượng này” tới “cũng nên lễ bái”. 
Tán rằng : dưới làø đoạn thứ ba : khuyên mọi người quy lễ : đầu tiên là tán thán, sau đó là khuyên (quy lễ).
*
-Kinh văn : “Phật thuyết … này” tới “được pháp nhãn tịnh”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ tư trong phẩm : kết luận tạo thành ích lợi thù thắng
Đối Pháp quyển 9 nói rằng : đạo vô gián có thể xa được trần, đạo giải thoát có thể lìa được cấu. Do hai đạo này mãn cho nên “được pháp nhãn tịnh”, chứng Sơ quả.

***







PHẨM PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng : lực hộ pháp thì do phẩm Phổ Hiền và phẩm cuối thị hiện. Trong phẩm Chúc Lũy, Phật tự mình ba lần dặn dò phó thác việc hộ pháp. Còn trong phẩm này Bồ tát khuyến phát mọi người hộ pháp. Vì thế cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 
Nhân từ tuệ ngộ thì gọi là “Hiền”. Đức lợi đầy khắp thì gọi là “Phổ”. Đó là do trong thì chứng được nhất chân, ngoài thì thành tựu muôn đức, bởi vậy đức lợi đầy khắp, nhân từ tuệ ngộ, cho nên gọi là “Phổ Hiền”. 
Bát Nhã Lý Thú luận nói rằng : “hết thảy hữu tình đều là Như Lai tạng, vì Phổ Hiền Bồ tát khắp trong tự thể. Do chứng lý Phổ biến Hiền thiện và đạo năng chứng thì gọi là Phổ Hiền”. 
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “thân tướng Phổ Hiền y vào Như như, chẳng y vào nước Phật. Do trong thì chứng được lý Phổ biến Hiền thiện này, ngoài thì thể hiện ba nghiệp không gì không Hiền, cho nên gọi là “Phổ Hiền”. Đó chính là tên gọi của đức tự lợi. 
Dẫn dụ khích lệ thì gọi là “Khuyến”. Dìu dắt khiến sinh thì gọi là “Phát”. Dạy dỗ, dẫn dụ khích lệ, khiến tín đạo phát sinh thì gọi là “Khuyến Phát”. Đây chính là đức lợi tha
Trong phẩm này thuyết minh việc Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát tín tâm, trì kinh nhập đạo, cho nên gọi là phẩm Phổ Hiền Bồ tát Khuyến Phát.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
-Hỏi : vì sao Phổ Hiền tới khuyến phát mà chẳng phải là các vị khác ? 
Đáp : vì muốn thuyết minh về tin thuận theo đạo, chứng nhất thừa, hết thảy mọi thứ trong ba nghiệp không gì không hiền.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phổ Hiền” tới “đi vòng quanh bảy vòng theo chiều tay phải”. 
Tán rằng : toàn phẩm văn chia làm 6 đoạn :
1) Đường đi tới của Phổ Hiền.
2) Bẩm bạch, nghe kinh.
3) Phật bảo cho bốn pháp.
4) Phổ Hiền khuyến phát.
5) Thích Ca tán khuyến.
6) Đại chúng đương thời được lợi ích.
Đây là đoạn đầu, có 4 mục :
a) Từ phương đông tới.
b) Tướng nơi trải qua.
c) Đồ chúng đi theo.
d) Tới rồi quy lễ (Phật).
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “thân tướng Phổ Hiền y vào Như như, chẳng y vào nước Phật”. 
Trí Độ luận nói : “mỗi lỗ chân lông của Phổ Hiền Bồ tát đều thường xuyên xuất hiện thế giới chư Phật và chư Bồ tát, đầy khắp mười phương để hóa độ chúng sinh, không có trụ xứ đích xác nhất định nào. Nay nói “từ phương đông tới”, đó là căn cứ vào một hóa thân ứng hiện nhìn thấy nghe thấy của chúng sinh mà nói. 
Kinh Bảo Vân nói : Bồ tát có mười loại pháp gọi là thiện năng tác hóa :
1) Bản thân ở một nước Phật, chẳng hề động mà có thể thăm hỏi thuyết pháp ở khắp mọi nước Phật.
2) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể nghe và tiếp thụ được lý sâu ở khắp các cõi Phật.
3) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể cúng dàng khắp cả mười phương chư Phật.
4) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể trang nghiêm Bồ đề, thảy đều đầy đủ ở khắp các nước Phật.
5) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể cung kính cúng dàng tôn trọng tán thán mỗi khi có vị Phật nào ở mọi nước Phật, mới thành đạo ngồi ở đạo tràng dưới cây Bồ đề.
6) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà tự thân có thể thị hiện ở mọi cõi Phật, ngồi ở đạo tràng, hiện thành Phật đạo.
7) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể thị hiện chuyển pháp luân ở mọi cõi Phật.
8) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể thị hiện nhập Niết bàn ở mọi cõi Phật.
9) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể vì những ai cần thụ hóa ở mọi cõi Phật mà đều hiện thân.
10) Bồ tát chứng đắc vô tác thần thông, đối với hết thảy mười phương cõi Phật, chẳng khởi ý tưởng là phải biến hóa, chẳng khởi ý tưởng là phải dùng thần thông mà thảy đều thị hiện tùy theo thân cần thị hiện tương ứng để độ chúng sinh cần độ.
Nghiệm theo đây thì thấy Phổ Hiền đã thành Phật từ lâu, nhưng thị hiện làm Bồ tát để khuyến khích việc tu diệu hạnh
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : tuy đắc Phật đạo nhưng chẳng bỏ đạo Bồ tát, đó gọi là Bồ tát hạnh.
*
-Kinh văn : “Bạch Phật rằng…” tới “được kinh Pháp Hoa này”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : bẩm bạch, nghe kinh. Có 2 mục :
1) Mục đầu nói về dụng ý tới đây.
2) Mục sau thỉnh cầu giải đáp nghi hoặc
Cho rằng ngay lúc Phật tại thế mà pháp còn khó đạt được, thì sau khi Phật diệt độ rồi không ai làm chủ thì làm sao mà đạt được kinh, được nghe, tư duytu hành (Văn Tư Tu) để sinh tin thuận ? 
Thêm nữa, khi Phật tại thế thì chúng sinh Hoặc nhẹ nghiệp mỏng nên còn có thể đạt được kinh này, sau khi Phật diệt độ rồi thì chúng sinh nghiệp dày Hoặc nặng, làm sao mà đạt được kinh, vì khó tin, khó được nghe, khó tư duy, khó tu hành.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Phổ Hiền” tới “ắt đạt được kinh này”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ ba : Phật bảo cho 4 pháp. Có 3 bước :
- Bước đầu : nêu lên.
- Bước hai : nói rõ.
- Bước cuối : kết luận.
Bốn pháp đó là :
1) “Được chư Phật hộ niệm” : có nghĩa là đòi hỏi phải căn thục. 
Bát Nhã luận nói rằng : Khéo hộ niệm cho các Bồ tát là thuyết cho Bồ tát căn thục. Người mà căn chưa thục thì chỉ nghe ngôn ngữ mà chưa đạt được lý. Căn thục thì có thể đạt được Giáo và Lý.
2) “Vun trồng các gốc đức” : nghĩa là đòi hỏi trước hết phải tu cả hai nhân phúc tuệ, khởi các căn như Tín v.v… thì mới đến được cái mức nghe Giáo thì đạt được Lý..
3) “Nhập chính định tụ” : nghĩa là chính kiến quyết định.
4) “Phát tâm đại bi, cứu tế chúng sinh”. 
Pháp đầu là Tư lương đạo, năng văn năng tư. Pháp thứ hai là Gia hành đạo, năng tu định quán. Pháp thứ ba là Kiến đạo, năng chứng thâm lý. Pháp cuối cùngTu đạo, năng tập năng chứng. 
Y vào bốn vị này, mỗi vị đều tăng trưởng
Thêm nữa, ngoài gặp Phật giúp, trong tu gốc đức, quyết định chẳng hủy báng, từ bi quảng đại, đều tại địa tiền thì mới có thể đạt được cả hai thứ Giáo và Lý của kinh.
Nhưng theo Du Già thì “nhập chính định tụ” nghĩa là phải nhập Sơ địa. Ở đây nói rằng chẳng phải thế.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phổ Hiền” tới “trong đời trược ác”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư : Phổ Hiền khuyến phát. Có 4 mục :
1. Thuyết minh về việc hộ trì.
2. Lợi ích trong kiếp này.
3. Đoạn từ “Nếu chỉ sao chép thì người ấy sau khi mệnh chung sẽ được sinh trên cõi trời Đao Lợi” trở xuống : lợi ích trong kiếp sau.
4. Đoạn từ “Có những công đức lợi ích như vậy” trở xuống : kết luận khuyên hãy phát tâm
Đây là mục đầu. 
Kinh Đại Tập, phần Nguyệt Tạng nói : “Sau khi Phật diệt độ : 
- 500 năm đầu là Giải thoát kiên cố.
- 500 năm thứ hai là Thiền định kiên cố.
- 500 năm thứ ba là Đa văn kiên cố.
- 500 năm thứ tư là Tạo dựng chùa tháp v.v… Phúc đức kiên cố
- 500 năm thứ năm là Đấu tranh kiên cố ”.
“500 năm sau” : có ba cách giải thích :
a) Một là nay đang là 500 năm thứ ba, là Đa văn kiên cố, vì y vào đại thừa chính pháp 1000 năm, sau chính pháp cho nên nói là 500 năm sau.
b) Hai là nay đang là 500 năm thứ năm. “500 năm sau” nói trong kinh này phải là (500 năm) cuối cùng. Căn cứ vào hai cách giải thích trên thì trước đây sau đây nếu có ai thụ trì kinh này tuy chẳng phải là chẳng ủng hộ, nhưng con người trong thời gian sau đây phần nhiều tệ ác, người tin là khó, cho nên cần phải ủng hộ.
c) Ba là Thế tôn ký biệt về thời gian, các chủng loại nhất nhất đều 500 năm, đều gọi là “500 năm sau, sau khi Phật diệt độ”. Trong các khoảng thời gian này, Bồ tát đều ủng hộ cả. 
Do trong việc ủng hộ, Thập Địa luận nói có ba hộ pháp :
1) Hộ giáo pháp : đó là sao chép đọc tụng, diễn thuyết cho người khác.
2) Hộ hành pháp : tư duy tu tập, trong lúc tu hành, nếu có gì khó khăn trở ngại thì nhiếp thụ, cứu giúp.
3) Hộ chứng pháp : tam Phật Bồ đề nhiếp chứng pháp này, giáo hóa truyền thụ. 
Tức là thể hiện Bồ tát trong thời chính pháp ủng hộ ba pháp này, vì vẫn còn có chứng; trong thời tượng pháp thì Hộ giáo (pháp) và Hộ hành pháp, vì không còn có chứng nữa; sau thời mạt pháp thì chỉ có Hộ giáo pháp, vì không còn hành nữa. 
Bí yếu của thiền pháp chẳng phải là tông chỉ của đại thừa, nên chẳng cần hòa hợp. Điều mà kinh Bi Hoa và ngài Chân Đế nói là “năm mươi năm sau sau khi Như Lai diệt độ”, xét về lý mà nói thì e rằng câu văn viết lầm. Có người nói rằng : (đó là nói) sau khi Phật diệt độ tới thời kỳ con người thọ năm mươi tuổi, cho nên cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Nếu có người thụ trì” tới “đều chẳng được tiện”. 
Tán rằng : dưới làø mục thứ hai : Lợi íchtrong kiếp này. Có 3 phần :
1. Phần đầu thuyết minh về ba phẩm tu được lợi ích khác nhau.
2. Phần hai là đoạn từ “Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành ở cõi Diêm Phù Đề” trở xuống, nói rõ kinh được lưu hành ở đời đó là nhờ lực Phổ Hiền
3. Phần cuối là đoạn từ “Nếu có ai thụ trì, đọc tụng v.v…” trở xuống, nói rõ người có khả năng lưu hành kinh này thì phù hợp với hạnh Phổ Hiền
Trong văn phần đầu có 3 mục :
a) Mục đầu : ủng hộ cho hạng hạ phẩm thụ trì.
b) Mục hai : ủng hộ cho hạng trung phẩm thụ trì. Đó là đoạn từ “người đó hoặc đi hoặc đứng” trở xuống.
c) Mục cuối : ủng hộ cho hạng thượng phẩm thụ trì. Đó là đoạn từ “Bạch Thế tôn ! nếu đời sau” trở xuống.
Mục đầu có 2 ý :
1) Đầu tiên nêu rõ mọi ác pháp ác nhân đều chẳng làm gì được.
2) Sau đó nói riêng 12 hạng phi nhân cũng chẳng làm gì được. 
* Chữ [伺] đọc là Tứ. Sách Ngọc Thiên giải thích [伺] Tứ có nghĩa là rình mò, dòm dỏ.
*
-Kinh văn : “Người đó hoặc đi hoặc đứng” tới “Đà la ni”. 
Tán rằng : đây là ủng hộ cho hạng trung phẩm thụ trì. Có 4 ý :
1) Ủng hộ khi đọc.
2) Ủng hộ cho khi tư duy.
3) Nếu quên thì khiến nhớ.
4) Nhìn thấy thì thêm tinh tiến
Thêm tinh tiến có ba :
a) Nhìn thấy thì vui thích, thêm tinh tiến.
b) Đạt được định.
c) Đạt được tổng trì.
“Pháp âm phương tiện đà la ni” là trí định để tăng thêm lực thực hành việc thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Thế tôn” tới “lực thần thông”. 
Tán rằng : đây là ủng hộ cho hạng thượng phẩm thụ trì. Có 5 ý :
1) Dạy cho biết quỹ tắc ba lần bảy ngày tinh tiến.
2) Khiến được thấy, được truyền đạo, được nghe pháp, đạt được tổng trì.
3) Kẻ ác chẳng làm tổn hại được.
4) Chính thuyết thần chú.
5) Kết luận : lực của bản thân mình. 
“Người tìm kiếm” là người cần tu Pháp Hoa hoặc là tất cả những người mà thiện nguyện có ý mong cầu tu tập kinh Pháp Hoa này, thì “trong thời gian ba lần bảy ngày phải nhất tâm tinh tiến”. 
Phổ Hiền Quán Kinh thuyết minh về hành pháp có năm :
1/- Ba lần bảy ngày thì thấy.
2/- Bảy lần bảy ngày được thấy.
3/- Một lần sinh được thấy.
4/- Hai lần sinh được thấy.
5/- Ba lần sinh được thấy. 
Trong này theo thuyết xưa : Thượng phẩm tinh tiến thì ba lần bảy ngày là thấy được. Cho đến phẩm thứ năm phải tu trong ba lần sinh mới được thấy. Thêm nữa, điều này chẳng nhất định. Đầu tiên thấy thân hạ liệt thì có thể chỉ một lần bảy ngày. Cho tới ba lần sinh thì được thấy thân thù thắng. Vì sự tu hành khác nhau, cho nên phải qua thời gian dài mới thấy được (thân) thù thắng
Về tinh tiến thì kinh đó (chỉ Phổ Hiền Quán Kinh) nói có 6 pháp :
1) Trang nghiêm đạo tràng.
2) Tẩy rửa bản thân cho sạch sẽ.
3) Sáu thời lễ bái.
4) Khải thỉnh lục sư.
5) Đêm ngày đọc tụng kinh điển đại thừa.
6) Tư duy về đạo lý Không pháp rất sâu. 
Lúc làm pháp quán này thì lập tức thấy Phổ Hiền, có thể diệt được trăm vạn ức A tăng kỳ tội nặng sinh tử
Chưa thấy văn nói về Khải thỉnh lục sư, nay tạm thời giải thích như sau : Thích CaHòa thượng, Văn Thù Sư LợiA xà lê. Di Lặc Bồ tát là Giáo thụ sư. Mười phương Phật là Tôn chứng sư. Mười phương Bồ tát Ma ha tát là đồng pháp lữ. Bồ tát Phổ HiềnSám hối giới chủ. Đủ lục sư như thế mới có thể sám hối, thụ tam tụ giới v.v… Khải thỉnh như vậy thì mới thấy Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Nếu kinh Pháp Hoa” tới “lực uy thần”. 
Tán rằng : đây là phần thứ 2 của mục thứ hai : kinh được lưu hành ở đời là do lực của Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Nếu có ai thụ trì” tới “tay xoa đầu người ấy”. 
Tán rằng : đây là phần cuối của mục thứ hai : người nào có thể lưu hành được kinh này thì phù hợp với hạnh Phổ Hiền. Cho nên được Phật xoa đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu chỉ sao chép” tới “vui chơi thỏa thích”. 
Tán rằng : dưới đây là mục thứ ba của đoạn lớn thứ tư : Lợi ích trong kiếp sau. Có 3 phần :
1. Hạ phẩm tu thì sinh ở cõi trời Đao Lợi v.v…
2. Trung phẩm tu như thụ trì v.v… thì sinh ở cõi trời Dạ ma v.v… 
3. Thượng phẩm tu thì được ngàn Phật trao tay v.v… 
Đây là phần đầu, có 3 ý :
1) Nơi sinh của người chỉ sao chép.
2) Tướng đón tiếp.
3) Thân trạng. 
Sinh ở cõi trời Tứ Thiên Vương cũng là hạ phẩm sinh, lược đi chẳng nêu.
*
-Kinh văn : “Huống chi thụ trì” tới “tu hành đúng pháp”. 
Tán rằng : đây là trung phẩm tu thụ trì v.v… . Sinh ở cõi trời Dạ Ma và hai cõi trời ở trên chẳng thấy Phật. Văn lược đi, vì không có quả.
*
-Kinh văn : “Nếu có người” tới “mà sinh ở trong”. 
Tán rằng : đây là thượng phẩm tu, được ngàn Phật trao tay. Có 4 ý :
1) Ngàn Phật trao tay.
2) Khiến không sợ hãi.
3) Chốn vãng sinh.
4) Thấy Bồ tát.
Ba phẩm tu sinh đã nói ở trên mới chỉ nêu một tướng, chẳng phải là đã nói hết lẽ thực. Nói cho hết lẽ thực thì trong mười pháp hành mỗi pháp đều có ba phẩm, vì chỉ như trung phẩm đã có thụ trì cho đến giải nghĩa ; thượng phẩm cũng có, tùy theo sự tự tu tập, có thượng có hạ. 
“Tu hành đúng pháp”, đều có hạ có thượng. Nay chỉ ở trung phẩm nói là có, còn thượng phẩm thì không. Đó là căn cứ vào một tướng mà nói.
Mười pháp hành trên, Biện Trung Biên luận nói :
- Tám pháp hành đầu là Văn tuệ, là hạ phẩm.
- Pháp hành thứ chín là Tư tuệ, là trung phẩm.
- Pháp hành thứ mười là Tu tuệ, là thượng phẩm.
Ở trong văn tuệ : sao chép, cúng dàng, thí tha là hạ, vì là dễ ; nghe giảng, duyệt đọc, phúng tụng là trung ; thụ trì, khai diễn là thượng, vì khó. 
Thêm nữa, tu một, hai, ba pháp hành là hạ ; bốn, năm, sáu pháp hành là trung ; bảy, tám, chín, mười pháp hành là thượng, vì điều mong mỏi của mỗi loại thì khác nhau.
*
-Kinh văn : “Có những công đức lợi ích như vậy” tới “khiến chẳng đoạn tuyệt”. 
Tán rằng : trong đoạn lớn thứ tư : Phổ Hiền khuyến phát, đây là mục thứ tư : kết luận khuyên hãy phát tâm. Có 2 ý :
1) Đầu tiên là nói rõ thắng pháp khuyên hãy tu hành.
2) Sau đó là hộ pháp khiến hành.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Thích Ca” tới “danh hiệu Bồ tát Phổ Hiền”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn lớn thứ năm trong phẩm : Thích Ca tán khuyến. Có 3 phần :
- Phần đầu : ca ngợi Phổ Hiền.
- Phần hai : tán thán người trì kinh.
- Phần ba : tướng thuận nghịch đối với hành giả
Đây là phần đầu, có 3 ý :
1) Tán thán việc hộ trợ kinh (này).
2) Tán thán hạnh nguyện của Phổ Hiền.
3) Hộ người trì danh hiệu Phổ Hiền
Tán thán hạnh nguyện có 3 nhân :
a) Tự lợi
b) Lợi tha.
c) Khen người.
*
-Kinh văn : “Phổ Hiền nếu có” tới “được áo che cho”. 
Tán rằng : dưới làø tán thán người trì kinh. Có 4 điều :
1. Thuận Phật hành.
2. Lìa mọi ác.
3. Sẽ được xuất thế.
4. Nhất định chán sinh tử
Điều đầu tiên này có 6 ý :
1) Vì thấy Phật nên biết được ba loại thân : lý, trí, hóa.
2) Như đích thân nghe pháp từ miệng Phật nên hiểu được giáo ý.
3) Là pháp cúng dàng để cúng dàng Phật.
4) Được Phật tán thán, vì hợp với bản tâm của Phật thì Phật tùy hỉ.
5) Được Phật xoa đầu, được Phật giáo hóa gia bị cho bản tâm, như thụ ký cho.
6) Được y Phật che cho, vì có đầy đủ (các hạnh) tàm quý, nhu hòa, nhẫn nhục v.v…
*
-Kinh văn : “Người như vậy” tới “hạnh của Phổ Hiền”. 
Tán rằng : đây là lìa các điều ác. Có 5 ý :
1) Chán sự vinh hoa sung sướng của thế gian.
2) Chẳng thích ác duyên.
3) Tâm khéo điều hòa thanh tịnh.
4) Diệt trừ phiền não.
5) Tu hành, ít dục.
“Chẳng thích ác duyên” có 3 thứ :
a) Tà hạnh.
b) Ác nghiệp.
c) Văn chương, nghệ thuật v.v… của ngoại đạo
“Tâm khéo điều hòa thanh tịnh” có 3 thứ :
a) Chất trực
b) Chính niệm.
c) Phúc đức
“Diệt trừ phiền não” có 3 thứ :
a) Trừ tam độc.
b) Diệt ghen ghét.
c) Trừ tam mạn.
“Tu hành, ít dục” có 3 thứ :
a) Ít dục. 
b) Tri túc (biết đủ).
c) Tu hạnh Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Phổ Hiền ! Nếu Như Lai” tới “trên pháp tòa”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba : sẽ được xuất thế. Có 5 ý :
1) Hướng đạo tràng. 4) Chuyển pháp luân.
2) Phá ma chúng. 5) Thăng pháp tòa.
3) Đăng chính giác.
*
-Kinh văn : “Phổ Hiền ! nếu ở…” tới “được phúc báo của mình”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : nhất định chán sinh tử. Có 2 ý : 
1) Chẳng tham của cải đồ vật.
2) Được quả báo hiện tiền.
*
-Kinh văn : “Nếu có người” tới “được quả báo hiện tiền”. 
Tán rằng : trong đoạn lớn thứ năm của phẩm này : nói về Thích Ca khuyến tán. Dưới đây là phần thứ ba nói về tướng thuận nghịch đối với hành giả
Có 5 ý. Trong đây có 2 ý :
1) Kẻ hủy báng (kinh này) thì (sẽ bị quả báo) không có mắt, vì đã hủy báng pháp nhãn thanh tịnh.
2) Người tán thán (kinh này) thì được hiện báo, vì tâm, điền đều thù thắng.
*
-Kinh văn: “Nếu lại thấy người thụ trì” tới “phải như kính Phật”. 
Tán rằng : trong này có 3 ý :
1) Kẻ nào bới lỗi lầm của hành giả, thì bị bệnh hủi cùi.
2) Kẻ nào khinh rẻ chê cười hành giả, thì đắc tội.
3) Khuyên hãy sinh tâm cung kính
Kẻ khinh rẻ chê cười đắc tội sẽ bị mười thứ bệnh, như trong kinh văn đã nói, có thể biết được. 
* Chữ [繚] trong từ Liễu lệ [繚戾] : xoáy tít - chỉ nước, đọc là Liễu. Trong sách Thuyết Văn chỉ có chữ Liễu [了] trong từ Liễu đạt [了達] (hiểu thấu). Chữ [寥] Liêu trong từ Liêu thái [寥菜] (rau răm), chữ [暸] Liễu trong cụm từ “Mục tinh lãng liễu” [目精朗暸] (con mắt tinh sáng). 
Ngoài ra không có chữ nào đọc âm Liễu như chữ [了] cả. Có hai chữ [燎] Liệu trong từ Liệu trá (đốt nướng) và chữ [繚] Liêu trong từ Liêu nhiễu [繚繞] (vòng quanh, quấn quít). Nay chữ [繚] này đọc là Liễu.
Chữ [睞] trong từ [角睞] đọc là Lai. Theo sách Ngọc Thiên thì từ Giác lai [角睞] có nghĩa là mắt lác.
*
-Kinh văn : “Lúc nói phẩm Phổ Hiền này” tới “làm lễ rồi đi”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ sáu trong phẩm nói về đại chúng đương thời được ích lợi
Có hai phần :
1) Phần đầu nói về ý được ích lợi.
2) Phần sau nói về ý phụng hành.

***

LỜI CUỐI SÁCH

Cơ tôi đây trong thời gian vân du thuyết pháp trên đường dừng lại Bác Lăng, các giới Tăng tục học tập đạo Phật có bảo tôi giảng kinh này. Vì bản thân tôi chẳng thể tu học nghĩa cũ, cho nên đành phải tự mình soạn ra văn mới, tối soạn sớm giảng, khi giảng xong thì kinh sớ (tức bộ Pháp Hoa Huyền Tán này) cũng viết xong. 

Than nỗi, (bản thân tôi) học ít, biết nông, cho nên nghĩa lý biên xong thì ngôn từ cũng hết. Nghĩa kinh vốn rất sâu xa súc tích, (cho nên tôi) tuy vụng về cũng cố gắng tán tụng thêm để thành sáng tỏ

Tôi nem nép thận trọng y vào thánh giáo, xoáy vào một mực lấy ở huyền tông. Thế mà vẫn còn sợ là ngôn từ sơ suất, sai với tôn chỉ trong kinh, trái với những điều viện dẫn

Kinh này là bộ kinh điển quan trọng nhất đối với người đang tu đạo, người ta ai chẳng tán tụng lời văn sâu xa của kinh này. Đã chẳng thể lặng im không nói, nên đành phải trình bày những suy nghĩ ngông cuồng hời hợt của mình. Những mong các bậc thức đạt quân tử phủ chính cho tôi !

Vậy tôi xin kết thúc bằng bài tụng rằng :

Hạnh, Lý tiếp thu từ các kinh.
Lược tán nhất thừa chân pháp nghĩa.
Đôi lời chân thực thí quần sinh.
Nguyện cùng chóng thành Vô thượng quả.

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ MƯỜI 
(HẾT)

Đây là sách đã viết xong tại phòng Trí luận sư Phiên kinh viện, chùa Đại Từ Ân tại Tây kinh (tức Tràng An, Trung Quốc, đời Đường) vào năm Điều Lộ thứ hai tháng chín. 
Sách này được biên soạn in ấn ra, đó là nhờ công tích của vị sư hoằng pháp dịch kinh, nhờ công đức cao cả tốt đẹp của các vị đại vương, tiểu vương. Sách này phải biên soạn nhiều lần mới xong. Nhưng (đại sư Khuy Cơ) vẫn chuyên tâm vào việc biên soạn, chẳng để ý tới các việc khác. Chưa được bao lâu thì (ngài) đã bỗng nhiên nhập diệt. Thần (của ngài) tuy đi rồi, nhưng phong độ (của ngài) vẫn còn mãi. 
Mỗi khi giảng bộ kinh sớ này lại hằng thương nhớ tới ngài. Những mong nhờ phúc thiện này mà được Tam hội sơ đăng, nhờ sự huân tu này mà tới bậc thượng phẩm, vượt biển Chân như, giỡn sóng Bát nhã, có trí tuệ từ bi xót thương chúng sinh bị đau khổ, đưa họ tới cõi Niết bàn Cực lạc, cùng vô cùng giới, tận vô tận sinh, đều diệt khổ nhân, cùng lên Lạc quả.
- Niên hiệu Bảo An năm thứ ba, tức năm Nhâm Dần, tháng 7 ngày 11, tức ngày Đinh Mão, giờ Thân sao chép xong, sư trụ trì chùa Pháp Long là Tăng Giác đem in.

Nguyện nhờ công đức chép Pháp Hoa.
Cùng ơn từ bi giải đại thừa.
Cha mẹ bảy đời của Đại sư.
Cùng cả pháp giới mau thành Phật.

***

- Niên hiệu Thiên Thừa năm đầu, tức năm Tân Hợi tháng 6, ngày 21, tức ngày Bính Tuất, sư Nhiếp Kiến bắt đầu từ hạ tuần tháng Giêng năm ngoái đem so với bản của Thiện Minh phòng ở chùa Dược Sư. Đắc nghiệp [xxx] xong.
“để được lợi ích vãng sinh tới cõi Cực lạc [xxx]”.

- Niên hiệu Bảo An năm thứ ba, tháng Chạp ngày 13, lấy bản của Viên Như phòng chùa Hưng Phúc, di điểm xong thì đem in.
“để khiến cho pháp được trụ lâu dàilợi ích cho cõi người, cõi trời”.

Bản di điểm này đều là bản của bậc cao danh. Thêm nữa, [ x ] bản đều là bản di điểm, những điều di điểm đều viết bằng son, còn các chữ khác đều viết bằng mực thường, để cho hạng mạt học mê muội được sáng tỏ vậy.
- Niên hiệu Đại Chính năm thứ mười, tháng 7 ngày 20, sau khi đối chiếu bản của Sư Tăng Giác in với điểm bản của năm sư, thêm một bản nữa đem giao xong. Ngày đó giảng phẩm Thọ Lượng xong.

Hạ an cư, giảng ba kinh.
Mạt học là Định Dận, quán chủ chùa Pháp Long 
kính bút.

 

*** 

HỒI HƯỚNG.

Nguyện đem Công đức ấn tống bộ sách này, hồi hướng Tây phương, trang nghiêm Tịnh độ. Nguyện từ đời vô thủy cho đến sau này, hết thảy kẻ oán người thân, Thất tổ Cửu huyền, Sư Tăng Cha mẹ, đời nay và nhiều đời về trước. Rộng cùng mười phương pháp giới, tất cả chúng sinh, thiện ác tri thức, tám nạn ba đường, cỏ cây sâu bọ, loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài ẩm thấp sinh, loài biến hoá sinh, hoặc nhầm mà giết, hoặc cố ý giết, tất cả muôn loài, nguyện cởi hết thảy các oan khiên, tiêu tất cả các tội nghiệp, đồng chứng đại Bồ đề, đồng sinh Cực lạc quốc.
Nam mô Đại từ Đại bi Cứu nạn Linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát Ma Ha Tát, tác đại chứng minh.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 
Huyền Tán 

Tác GiảKhuy Cơ
Dịch Giả : Thích Chân Thường

Chịu Trách Nhiệm Xuất Bản
Nguyễn Thanh Xuân

Biên Tập: Đỗ Thị Quỳnh
Sửa Bản In: Chơn Hạnh 
Trình Bày: Chúc Thanh 
Bìa: Giác Hạnh

Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nhà Số 4 Lô 11 Trần Duy Hưng – Hà Nội
Đt: 04.5566701 Fax: 04.5566702

Số lượng in: 2.000 bản, khổ 16x24
Tại Xí Nghiệp In Người Lao Động
Số xuất bản 96-446/XB-QLXB ngày 16.04.2004
In xong và nộp lưu chiểu quý 1 năm 2005.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7885)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34457)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10628)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10388)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21646)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12532)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14385)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant