Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11818)
Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác

CHƯƠNG NĂM
CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

Gìn giữ tâm ý

1. Ai giữ giới Bồ tát 
Phải giữ gìn tâm ý 
Nếu không, không duy trì
Bất cứ giới luật nào.

2. Voi điên tuy gây hại
Nhưng không thể nào bằng
Con “voi tâm“ phóng dật
Mang đến bao tai ương

3. Luôn dùng thừng chánh niệm 
Cột chặt “voi tâm“ điên
Thì tai ương biến mất
Phước lành hiện đến liền. 

4-5. Điều phục được tâm ý
điều phục tất cả
Sư tử, voi, gấu, rắn 
Và tất cả kẻ thù
Cùng lính canh địa ngục
Quỷ Dạ xoa, La Sát
Đều bị trói tất cả.

6. Phật đã tuyên bố rằng 
Hiểm họa và lo sợ
Với khổ đau vô tận
Đều do tâm phát sinh. 

7-8. Hình cụ trong địa ngục 
Do ai tạo tác nên? 
Nền sắt nóng hỏa ngục 
Nữ nhân kia từ đâu? 

Phật dạy rằng tất cả 
Do ác tâm biến ra 
Bởi thế trong ba cõi 
Tâm mình đáng sợ nhất. 

9-10. Nếu bố thí cao cả
Đạt được nhờ xóa nghèo
Chẳng lẽ Phật xưa kia
Không đạt hạnh bố thí
thế gian vẫn nghèo? 

Bởi vậy tâm bố thí
Cả tài sản, công đức
bố thí rốt ráo
Phát xuất từ nội tâm

11. Lùa cá tôm đến đâu
Để khỏi bị săn giết?
Vĩnh viễn dứt ác tâm
thành tựu giới độ

12. Sân si đầy thế gian 
Làm sao hàng phục hết? 
Hàng phục được tâm sân 
hàng phục tất cả. 

13-14. Làm sao đủ da thuộc 
Để phủ kín địa cầu? 
Nhưng chiếc dép da này
Sẽ bao trùm mặt đất. 

Cũng vậy với ngoại cảnh
Tuy chưa làm chủ được 
Nhưng làm chủ tâm mình
Có gì quí giá hơn?

15. Làm thiện bằng thân, miệng
Nhưng tâm lại tán loạn
Thì khó đạt được phước
Để lên cõi Phạm Thiên (5)
Trong khi chỉ một mình
Tâm thanh tịnh cũng đủ.

16. Phật dạy dù tụng niệm 
Tu khổ hạnh lâu năm 
Mà tâm cứ tán loạn 
Thì cũng vô ích thôi. 

17. Những ai tìm hạnh phúc
Chạy trốn mọi khổ đau
Sẽ tiếp tục lạc đường
Nếu không hiểu cái tâm
Kỳ diệu chứa mọi pháp.

Chánh niệm và tỉnh giác

18. Bởi thế nên cẩn thận 
Gìn giữ trọn tâm ý
Giữ giới tu luyện tâm 
Đâu cần tu pháp khác. 

19. Giữa đám đông hỗn loạn
Ta gìn giữ vết thương
Không để ai đụng đến;
Giữa cuộc đời hung ác
Ta phải giữ tâm mình
Như ta giữ vết thương. 

20. Ta gìn giữ vết thương 
Vì sợ người đụng đau
Sao ta không giữ gìn
Vết thương của tâm ta
Cho khỏi bị đè bẹp
Dưới chân núi địa ngục? 

21. Nếu hành trì như vậy 
Ta cứng rắn, tinh tấn
Dù ở giữa người ác 
Hay ở giữa người lành. 

22. Thà để mất lợi dưỡng 
Mất tài sản, thanh danh
Mất thân xác, mạng sống
Quyết không để mất tâm. 

23. Tôi chấp tay nguyện cầu
Cho những ai ước mong 
Gìn giữ được tâm ý
Đều luôn luôn duy trì
Chánh niệm và tỉnh giác

24. Người đau không đủ sức
Làm bất cứ việc gì 
Cũng vậy, bất cứ ai 
Thiếu chánh niệm, tỉnh giác 
Sẽ không còn đủ sức
Để làm những việc lành

25. Người tâm không chánh niệm 
Không còn ghi trong trí 
Lời giáo huấn tu hành 
Như nước rỉ bình nứt. 

26. Biết bao người thông thái
Sùng tíntinh tấn
Nhưng vì không chánh niệm
Nên phạm tội ô uế. 

27. Tên giặc không chánh niệm 
Luôn rình cướp tỉnh giác
Vét sạch phước tích lũy
Đưa người vào nẻo ác. 

28. Ái dục như lũ giặc
Cướp gia tài phước đức
Hủy hoại tâm chánh niệm
Phá đường đến cõi lành . 

29. Tuyệt không để chánh niệm 
Rời khỏi cửa tỉnh giác;
Nếu nó đi lang thang
Phải gọi nó quay lại;
Nó phải nghĩ cảnh khổ 
Trong ba cõi địa ngục 
Để an trú chánh niệm

30. Hạnh phúc thay những ai 
Sống cạnh thầy đáng kính
Tuân theo lời giáo huấn 
Để trau dồi chánh niệm

31-32. “Chư Phật, chư Bồ tát
Nhìn thấu suốt mọi điều
Ta đứng trước các ngài
Đâu dấu được điều chi”. 

Nếu có suy nghĩ ấy
Sẽ sinh lòng hổ thẹn 
Và trong tâm luôn luôn
Có mặt của chư Phật. 

33. Chánh niệm như lính canh
Trước cửa ngõ của tâm
Nhờ đó mà tỉnh giác
Mãi mãi được có mặt.

34. Nếu ý xấu manh nha 
Phải thấy ngay tai họa.
Vậy phải giữ chánh niệm 
Như cây bám chặt đất . 

35. Không bao giờ nên nhìn 
Dáo dác và mông lung 
Mắt thường nhìn thẳng xuống
Như trong lúc ngồi thiền

36. Để cho mắt nghỉ ngơi 
Thỉnh thoảng nhìn chân trời 
Khi có người xuất hiện 
Hãy nhìn thẳng chào hỏi. 

37. Trên đường, nên đứng lại
Nhìn rõ khắp bốn phương 
Lúc dừng nghỉ dưỡng sức 
Hãy quan sát sau lưng . 

38. Kiểm tra kỹ trước sau 
Rồi nhận định hoàn cảnh
Tùy nhu cầu hành động
tiến tới hay lui. 

39-40. Trước khi ta hành động
Nên ý thức rõ ràng
”Đây tư thế của thân”
Và trong khi hành động
Cũng luôn luôn quán xét
Tư thế của thân mình. 

Cũng vậy, thường quán xét 
Tâm ý như voi điên
Buộc vào trụ chánh niệm
Không cho nó chạy loạn. 

41. Người tu tập thiền định 
Luôn luôn giữ chánh niệm
Thường quán sát tự hỏi 
Tâm ý mình ở đâu? 

42. Lúc nguy, khi lễ lạc
Hoặc trong khi bố thí
Khó giữ được chánh niệm 
Nên buông giới hạnh nhỏ. 

43-44. Quyết định làm việc này
Không nên nghĩ việc khác 
Tâm trí phải chuyên chú 
Làm xong từng việc đã. 

Được vậy việc mới thành 
Nếu không, thì hai việc 
Chẳng việc nào hoàn tất
Chánh niệm chẳng gia tăng

45. Hãy quyết tâm từ bỏ 
Xem kịch, nói chuyện phiếm 
Hãy tinh tấn đoạn trừ 
Tâm tham đắm thứ ấy. 

46. Hãy nhớ lời đức Phật 
Từ bỏ việc vô nghĩa
Như bức cỏ, vẽ đường
Đập đất đá vỡ tan

47. Trước khi muốn đi đứng 
Hoặc trước khi nói năng 
Phải kiểm soát tâm ý
Đưa nó vào chánh niệm

48. Nếu ý khởi tham ái 
Tâm manh nha nổi giận 
Hãy tạm dừng nói, làm 
Như cây đứng lặng yên. 

49-50. Khi tâm ý lăng xăng 
Ngạo mạn hoặc kiêu căng 
Tự mãn hoặc thô bạo 
Lém lĩnh hoặc lừa dối 

Tự khen và chê người 
Nói những lời khinh bạc 
Nói những lời gây gổ 
Hãy như cây đứng yên

51. Muốn lợi lộc, danh tiếng 
Muốn sai sử người khác 
Muốn kẻ khác hầu hạ 
Hãy như cây đứng yên

52. Khi muốn nói và làm 
Khiến người mất lợi ích 
Để mưu cầu lợi mình 
Hãy như cây đứng yên

53. Khi bồn chồn lười biếng
Nhát sợ, không biết thẹn 
Nói vô nghĩa, thiên vị 
Hãy như cây đứng yên

54. Khi thấy tâm ô nhiễm
Lăng xăng việc vô nghĩa
Hãy dùng phép đối trị
Kiên trì an định tâm. 

55-57. Không nên để phân tâm
Vì những việc tranh chấp
Hãy luôn đem an vui
Làm cho người hạnh phúc.
Với đức tin thâm sâu 
Vững vàngkiên quyết 
Biết xấu, sợ nhân quả.

Đừng sinh tâm chê bai
Kẻ ngược ngạo, ngu si
Nên mở lòng thương họ
Vì họ bị vô minh

Vả lại tôi đã nguyện
Vì lợi mình lợi người 
Tôi không nên phạm tội 
Vậy phải luôn quán tưởng 
Rằng tôi là vô ngã
Tôi là một ảo tưởng

58. Nên luôn tư duy rằng 
Nhiều kiếp mới thành người 
Vậy phải giữ tâm sáng 
Vững như núi Tu Di.

Thân

59. Hỡi này tâm ý ơi
Ngươi tự vệ ra sao
Khi kên kên háu đói 
Mổ xé thân thể ngươi? 

60. Sao ngươi xem thân này 
bản ngã của ngươi? 
Ngươi với nó khác nhau 
Mất nó ăn nhằm gì! 

61. Này tâm ý ngu si 
Ngươi xem khúc gỗ sạch
Không phải là thân ngươi
Nên ngươi không bám víu
Sao lại bám bộ máy 
Cấu tạo từ bẩn dơ? 

62-63. Hãy dùng tâm quán tưởng 
Tách da ra khỏi thịt 
Dùng trí tuệ làm dao 
Tách thịt rời khỏi xương. 

Rồi chẻ tách xương ra 
Phân tách tủy bên trong 
Quan sát cho thật kỹ 
Thực chất nó là gì? 

64. Dẫu tìm tòi cẩn thận
Vẫn không thấy bản chất 
Của bất cứ vật nào.
Tại sao còn tham luyến 
Nâng niu tấm thân này? 

65. Ngươi không thể nào ăn
Thân thể dơ bẩn này 
Không uống máu, ăn lòng
Vậy giữ nó làm chi? 

66. Tốt nhất xem thân này
thức ăn quạ, cáo
Chỉ nên giữ thân này
Giúp ta làm việc thiện

67. Dù ngươi bám giữ thân 
Thần chết cũng không tha 
Cướp lấy thẩy cho quạ 
Ngươi làm gì được đây? 

68-69. Khi tớ bỏ ra đi 
Chủ không cho cơm áo 
Thân này sẽ bỏ ngươi 
Cưng dưỡng nó làm gì? 

Trả đủ lương cho nó 
Chớ cho thêm quá mức
Ôi tâm của ta ơi! 
Đối với thân của ngươi 
Hãy xử sự như thế. 

70. Hãy xem thân như thuyền 
Dùng để chở chúng sinh
Đưa họ từ bờ khổ 
Sang bên bờ giải thoát

71. Hãy tự chủ thân tâm 
Luôn lộ vẻ vui tươi 
Đừng cau mày giận dữ 
Hãy làm người bạn tốt,
Chân thành của chúng sinh

72. Khi di dời ghế giường 
Đừng gây tiếng động lớn 
Mở cửa cũng nhẹ nhàng 
Luôn tránh tiếng ồn ào

73. Sếu, mèo và kẻ trộm 
Hành động rất lặng lẽ 
Để đạt được mục tiêu 
Bồ tát cũng nên thế . 

74. Làm học trò tất cả
Cung kính nhận lời khuyên
Của bậc thầy hướng dẫn
Dù ta chẳng yêu cầu.

Nguyên tắc ứng xử

75. Ai khéo giảng chánh pháp
Ta nên ngõ lời khen
Ai làm phước làm lành
Ta vui mừng ca tụng

76. Kín đáo khen người khác 
công đức của họ 
Nghe người khác khen mình 
Tự xét xứng đáng không? 

77-78. Ai làm được việc gì 
Mang lại nguồn hạnh phúc
Không thể mua bằng tiền
Thì ta hãy cùng vui 
Với công đức kẻ ấy. 

Làm vậy không gây hại
Đời sau được vui hơn
Nếu sinh lòng ganh tị
Ta sẽ gặt khổ đau
Đời sau càng khổ nữa. 

79. Nói năng phải minh bạch 
Dễ nghe, thấm tận tim
Phát xuất nơi từ tâm
Nhu hòa và chính xác

80. Hãy nhìn ngắm chúng sinh 
Với lòng dạ từ bi
Và nghĩ rằng nhờ họ 
Mà ta sẽ thành Phật

81. Phước lớn được thành tựu 
Nhờ tín tâm vững bền 
Nhờ đối trị việc ác 
Nhờ cúng ba ruộng phước (6) 

82. Phát xuất tận đáy lòng 
Ta thường làm việc thiện 
Điều lành hãy tự làm 
Không giao cho kẻ khác. 

83. Bố thítrì giới 
Phải tăng tiến mỗi ngày
Đừng chê nhỏ, theo lớn 
Nên thực hiện mọi hạnh. 

84. Nhận thức được như vậy
Nên hiến mình làm thiện
Có thể phạm giới cấm
Vì lợi ích chúng sinh

85. Chỉ ăn những gì cần
Chia sớt thức ăn uống
Cho những vị tu sĩ 
Cho kẻ khổ, cô đơn
Cho người rơi xuống thấp
Bồ tát cho tất cả
Trừ ba bộ áo quần. 

86. Thân phục vụ chánh pháp 
Nên không để tổn thương 
Nhờ vậy mau thực hiện
Ước nguyện cứu chúng sinh

87. Không hy sinh thân mạng
Cho kẻ thiếu từ bi
Bồ tát chỉ xả thân
mục đích tối thượng

88. Không thuyết pháp cho người 
thái độ bệnh hoạn 
Đội mũ, không cung kính 
Cầm gậy, cầm binh khí . 

89. Không thuyết pháp cho người 
Khác phái ở một mình 
Không nói pháp thâm sâu 
Cho kẻ thiếu thông minh 
Nhưng cũng phải cung kính 
Mọi pháp dù sâu cạn (7)

90. Không nên giảng Tiểu thừa
Cho người đủ điều kiện
Lãnh hội pháp Đại thừa
Không được thu hút người
Bằng cách giảng sai kinh
Và sai chú Mật tông (8) 

91. Không được nhổ nước bọt
Và vứt tăm xỉa răng
Bừa bãi nơi công cộng
Không được phép phóng uế
Lên đất đai canh tác
Và nguồn nước sạch trong. 

92. Khi ăn chớ đầy miệng 
Há miệng, nhai ra tiếng
Ngồi không đong đưa chân 
Không xoa tay vào nhau. 

93. Không đi xe, ngủ đêm 
Chung với người khác phái 
Hầu tránh sự dị nghị 
Khiến người mất niềm tin

94. Không nên dùng ngón tay 
Chỉ đường hoặc ra lệnh 
Mà phải tỏ lịch sự 
Đưa nguyên bàn tay phải . 

95. Không đưa tay vẫy gọi
Trừ khi gọi gấp rút
Búng ngón tay thành tiếng 
Bằng không mất uy nghi

96. Hãy ngủ trong chánh niệm 
Nằm đúng theo tư thế
Như khi Phật nhập diệt 
Lúc tỉnh giấc, dậy liền. 

97. Phật dạy vô số hạnh 
Không thể nào kể hết 
Pháp thanh lọc tâm này 
Nên gắng thực hành ngay. 

98. Ngày như đêm ba lần 
Tụng niệm Kinh Ba Phần (9) 
Y theo tâm Bồ đề 
Giải trừ dần ác nghiệp

99. Bất cứ hoàn cảnh nào
Do ta hoặc người tạo
Phải tinh tấn thực hành 
Những lời đức Phật dạy. 

100. Bất cứ giáo pháp nào
Đưa đến sự giải thoát
Con Phật đều thực hành
Được vậy, sẽ gặt phước. 

101. Bồ tát làm mọi hạnh
Vì lợi ích chúng sinh
Trực tiếp hay gián tiếp
hồi hướng tất cả
sự nghiệp giác ngộ

102. Dù phải mất tính mạng 
Bồ tát không xa lìa 
Các bậc thiện trí thức 
Tinh thông nghĩa đại thừa

Nguồn gốc giới luật

103. Để biết cách hầu Thầy
Nên học những phép tắc
Trong truyện Cát Tường Sinh (10) 
Và thêm các kinh khác. 

104. Nên đọc các tạng kinh
Có trình bày giới luật
Trước hết hãy tìm đọc 
”Thánh xứ hư không tạng”. 

105. Kinh “Học xứ tập yếu” 
Đã diễn rộng lý do 
Vì sao phải tu hành
Vậy cần đọc bộ luận 
”Chúng học xứ tập yếu”. 

106. Hoặc cũng nên tìm đọc 
”Nhất thiết kinh tập yếu” 
Và cũng cần đọc kỹ 
Song luận của Long Thọ

107. Kinh luận trên ghi rõ 
Điều cấm, điều nên theo
Tu đúng lời kinh dạy 
Giữ lòng tin trên đời. 

108. Định nghĩa của chánh niệm
Tóm gọn lại như sau: 
Luôn quán sát thật kỹ
Trạng thái Thân và Tâm. 

109. Tụng niệm để thực hành 
Đọc suông không có ích 
Nếu chỉ đọc toa thuốc 
Làm sao trị bệnh lành?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12335)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13006)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53029)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21388)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19235)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13312)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16072)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13116)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14502)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20467)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19559)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18649)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12181)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12298)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13856)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13988)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11707)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15056)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant