Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Sáu: Nhẫn Nhục

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12239)
Chương Sáu: Nhẫn Nhục


CHƯƠNG SÁU 
NHẪN NHỤC 

Sân hận 

1. Một cơn giận phá hủy 
Công đức ngàn kiếp tu 
Tích lũy từ bố thí,
Từ cúng dường Thế tôn

2. Sân hận vô cùng ác 
Nhẫn nhục vô cùng lành 
Bởi thế bằng mọi cách 
Phải siêng tu nhẫn nhục. 

3. Ngày nào trong tâm ta 
Nọc hận thù tồn tại 
Ta sẽ không ngủ yên 
Mất an lành, hạnh phúc

4-5. Một người chủ nổi giận 
Có thể bị giết chết 
Bởi kẻ được ông giúp 
Mà trở nên giàu sang
Và người khác kinh trọng. 

Với tấm lòng sân hận 
ban ơn cho ai
Họ cũng không hạnh phúc
Bạn bè cũng lánh xa.

6. Sân hận là kẻ địch 
Tạo nên nhiều khổ đau 
Ai khắc phục sân hận 
Vui đời này, kiếp sau

7. Những thứ không vừa ý 
Hoặc lòng tham bị chận 
Đều nuôi dưỡng sân hận
Và làm khốn khổ tôi. 

8. Vì vậy tôi muốn diệt 
Những chất nuôi dưỡng này.
Sân hận duy chỉ biết 
Làm hại tôi mà thôi. 

Nhẫn nhục

Nhẫn nhục đối với đau khổ

9. Dù gặp cảnh ngược đãi 
Nên giữ tâm an vui. 
Bực tức không sinh lợi 
Lại cướp mất phước lành. 

10. Nếu có cách cứu chữa
Những tình huống rắc rối
Thì khổ đau làm gì?
Nếu khônggiải pháp 
Khổ đau không lợi chi! 

11. Ta không muốn cho mình 
Cũng như cho bạn bè
Bị khổ đau, khinh dễ 
Bị chửi mắng, vu oan ; 
Duy chỉ có kẻ thù
Muốn chúng ta như thế. 

12. Hạnh phúc khó đạt thay 
Đau khổ thường xảy đến
Nhưng giải thoát chỉ đạt 
Khi thắng vượt khổ đau 
Bởi vậy, tâm ta ơi 
Hãy dũng cảm kiên định! 

13. Người nào tu khổ hạnh
Thờ nữ thần Durga (11)
Tự thiêu, xẻ thịt mình
Không hy vọng giải thoát
Sao ta không can đảm 
Chịu khổ vì giải thoát? 

14. Nhờ tập luyện thường xuyên 
Điều gì cũng thành tựu 
Trước cố chịu khổ nhỏ 
Sau chịu được khổ lớn. 

15. Những loại khổ tầm thường 
Do muỗi mòng, rít cắn 
Hoặc đói khát, nhức ngứa 
Chúng không vô dụng đâu! 

16. Chẳng nên mất nhẫn nhục 
Khi khổ vì nóng lạnh
Hay kiệt sức bệnh đau 
Hoặc tra tấn, ngục tù 
Nếu ta mất nhẫn nhục 
Đau khổ càng tăng thêm. 

17-18. Có người thấy máu chảy 
Lòng dũng cảm càng tăng;
Có người thấy máu chảy 
Lại té xỉu bất tỉnh.

Điều ấy tùy thuộc tâm 
Vững mạnh hay yếu đuối 
Bồ tát phải tự chủ 
Vượt qua mọi khổ đau. 

19. Dù trải qua thống khổ
Bậc trí vẫn an nhiên 
Quyết đánh giặc phiền não 
Không lo sợ tật nguyền.

20. Kẻ anh hùng hiển vinh 
Nhờ chiến công oanh liệt 
Còn chiến sĩ nhát gan 
Chỉ đâm thây đã chết. 

21. Khổ cũng có điều hay: 
Giúp ta trừ kiêu mạn 
Mở lòng thương chúng sinh 
Bỏ ác và kính Phật. 

Nhẫn nhục trước bất công

22. Ta không giận gan, tim 
Và bộ phận trong người
Dù chúng là nơi sinh 
Bao đau đớn, bệnh tật 
Sao đối với hữu tình
Lại nổi lòng sân hận? 
Họ cũng là nạn nhân
Của đau đớn tật nguyền.

23. Dù không ai muốn bệnh 
Bệnh vẩn đến hoành hành; 
Dù không mong sân hận 
Sân hận vẫn phá phách. 

24. Nào có ai nghĩ trước: 
“Bây giờ ta nổi sân”
Và sân đâu toan tính:
”Bây giờ ta xuất hiện” 

25. Tất cả mọi lỗi lầm 
Và hành động độc ác 
Đều do nhân duyên sinh 
Không có gì tự phát. 

26. Nhân duyên lúc tập hợp
Không hề có ý nghĩ
“Ta sinh một thứ gì” 
Một cái gì được sinh
Trước đó đâu có nghĩ:
“Ta phải được sinh ra” 

27. Những gì được gán gọi
Là chất liệu nguyên sơ
Hoặc gán là “Cái Ta” 
Đều không tự sinh ra
Sau khi nghĩ: “Ta sinh”. 

28. Bởi vì trước khi sinh
Không có gì hiện hữu
Vậy cũng không có gì
Khởi ý muốn được sinh
Bởi vì luôn bám víu 
Vào cái Ta vĩnh cửu
Nếu không thể tách rời
Đối tượng của “Cái Ta”
Là chất liệu nguyên sơ
mãi mãi như vậy. 

29. Nếu cái ta vĩnh hằng 
Thì nó phải bất động
Giống như là hư không;
Làm sao cái bất động
Lại có thể hành động
Ngay trong khi nối kết
Với những nhân duyên khác. 

30. Nếu tiếp xúc duyên khác
Cái ta vẫn như xưa
Vậy thì trong hai thứ
Cái Ta và duyên khác
Ai tác động ai đây?
Nếu bảo “Ta” tác động
Thì điều này không đúng;
Cái Ta không tác động
Vì nó không thể có
Một lúc hai tự tánh 
[Bất độngbiến đổi]. 

31. Như vậy mọi sự vật
Đều sinh từ nhiều duyên
Và bất cứ duyên nào
Cũng lệ thuộc duyên khác;
Ý thức được như vậy
Ta không bị phiền nhiễu
Vì tất cả hiện tượng
Đều chỉ là ảo tưởng
Sinh từ những ảo thuật! 

32. (Hỏi) Nếu mọi vật là ảo
Thì “Ai” chế ngự giận? 
Và nếu nói chẳng có “ai”
Thì cần chi trừ giận?

(Đáp) Thực ra cần trừ giận 
Vì dòng thác nhân quả 
Vẫn luôn luôn tiếp diễn
Nhờ chế ngự được giận
Mà cắt đứt khổ đau . 

33. Bởi vậy khi nhận thấy 
Bạn, thù muốn hại ta 
Hãy nghĩ là duyên sinh 
Và giữ tâm thanh tịnh

34. Nếu mọi sự phát sinh 
Do ý muốn con người 
Thì thế giới an lạc 
Bởi chẳng ai chọn khổ. 

35-36. Vì vô ý tự hại
Bởi vật nhọn, gai đâm
Vì giận, đói nữ sắc
Nên cấu xé lẫn nhau
Chịu đói khát khổ sở;

Có kẻ lại tự tử
Như thắt cổ, nhảy sông 
Hoặc uống những chất độc
Hay gây ra tội ác

37. Dưới bạo lực ái dục
Con người tự hủy mình 
 - Hủy cái thân quý báu
Thế thì sao tránh khỏi
Làm hại những người khác?

38. Kẻ điên vì ái dục 
Luôn tìm cách tác hại 
Nếu không thương xót được 
Thì đừng nên giận họ . 

39. Nếu bản chất kẻ ấy 
Là chuyên hãm hại người 
Giận họ cũng vô lý 
Khác nào giận lửa đốt . 

40. Nếu bản chất họ lành 
Phạm lỗi vì vô tình 
Giận họ cũng vô lý 
Khác nào giận không khí
Bị nhiễm khói sặc sụa. 

41. Khi bị đánh bằng gậy 
Ta oán người cầm gậy 
Song chính là cơn giận 
Đã sai khiến họ đánh 
Vậy nên ghét cơn giận

42. Xưa tôi làm khổ người 
Nay người hãm hại tôi 
Tôi đành phải nhận lãnh 
Quả báo tôi đã gieo. 

43. Vũ khí của kẻ kia 
Và thân này của tôi 
Cả hai là nguyên nhân 
Tác thành sự đau khổ 
Kẻ kia có vũ khí
Còn tôi có thân này
Vậy phải giận ai đây? 

44. Thân như vết thương nặng, 
Chạm nhẹ cũng đau điếng 
Mù quáng tôi ôm giữ
Thử hỏi khi nó đau 
Tại sao tôi tức giận? 

45. Tôi không muốn khổ đau
Nhưng vì sự ngu muội 
Mà tạo ra nguyên nhân 
Gây nên sự đau khổ.
Đó là lỗi của mình 
Sao lại giận người khác? 

46. Chính hành động của tôi 
Đã tạo nên địa ngục 
rừng kiếm, núi đao 
Vậy nên giận ai đây? 

47. Chính hành động của tôi 
Đã khiêu khích người khác
Và khiến họ hại tôi
Họ bị đọa địa ngục 
Vậy tôi đã hại họ. 

48. Nhờ những kẻ hại tôi 
Mà tôi tu nhẫn nhục 
Trừ được nhiều tội lỗi;
Vì tôi đã nhẫn nhục 
Nên họ sa địa ngục 
Chịu đau khổ lâu dài

49. Chính tôi làm hại họ 
Khi họ làm lợi tôi 
Sao tôi còn lật lọng 
Hỡi cái tâm hồ đồ. 

50. Nhờ tâm được thanh lọc 
Tôi không đoạ địa ngục 
Tôi đã tự cứu mình 
Kẻ kia được thứ chi? 

51. Nếu ăn miếng trả miếng 
Tôi chẳng cứu vớt họ 
Họ phải chịu đọa đày 
Còn tôi thì thất bại 
Trên con đường tu tập.

Nhẫn nhục qua nhận thức thực tại

52. Tâm không có hình thể 
Nên không bị tổn thương 
Nếu bám chắc vào thân
Khi thân này đau khổ
Tâm sẽ bị khổ đau. 

53. Lời khinh khi, thô ác 
Tiếng mắng chưởi, vu oan 
Không làm hại thân được 
Sao tâm lại nổi sân? 

54. Có kẻ dèm pha ta
Nhưng sự “không ưa “ ấy
Từ nay đến đời sau
cắn xé ta đâu 
Sao ta ganh ghét họ? 

55. Nếu ta ganh ghét họ
Vì sợ mất lợi lộc 
Lúc chết lợi cũng mất 
Nghiệp ác vẫn còn hoài. 

56. Tốt nhất thà chết sớm 
Hơn sống làm nghề ác 
Sống lâu đâu thoát được 
Khổ đau của cái chết . 

57-58. Hai người nằm chiêm bao 
Kẻ thấy vui trăm năm 
Người sướng trong khoảnh khắc 
Nhưng khi bừng tỉnh giấc
Hạnh phúc đều biến tan . 

Cuộc đời như giấc mộng 
Dù tuổi thọ ngắn dài 
Khi sinh mạng chấm dứt
Hạnh phúc đều tiêu tan

59. Dù tiền rừng bạc biển 
lạc thú lâu dài 
Lúc chết tay trống trơn 
Mình trần như bị cướp. 

60. Có kẻ quan niệm rằng
Nhờ của để mà sống 
Để giải ác, tích thiện 
Nhưng nổi sân vì lợi 
Thì phước mất, tội sinh. 

61. Nếu chỉ vì mưu sinh 
Mà làm chuyện thất đức 
Một đời sống như vậy 
Cuối cùng lãnh ác đọa
Sống như thế ích chi? 

62. Ta ghét kẻ nói xấu 
Làm ta mất tín nhiệm 
Sao ta không ghét kẻ 
Nói xấu bao người khác? 

63. Sao ngươi vẫn bình thản 
Với kẻ chê người khác 
Bởi ngươi không dính vào; 
Sao ngươi không nhẫn nhịn 
Với kẻ vu oan ngươi
Mà chính ngay kẻ ấy
Bị ái dục chi phối? 

64. Đối với người phá tượng 
Đập chùa, chê chánh pháp 
Ta không nên nổi giận 
Bởi vì bậc Giác ngộ 
Không vì vậy khổ đau. 

65. Với kẻ xúc phạm Thầy 
Và người thân của ta 
Ta nên dằn cơn giận 
Mà nên quán chiếu rằng
Đó là nhân duyên sinh. 

66. Khổ sinh từ nhân duyên 
Cố ý hay vô tình 
Chúng sinh không thể thoát
Chỉ chúng sinh hữu tình 
Mới ý thức được khổ
Vậy ta nên nhẫn chịu. 

67. Người làm ác bởi si 
Kẻ nổi giận vì mê 
Vậy ai người có lỗi 
Vậy kẻ nào vô tội? 

68. Xưa ta đã tạo nghiệp 
Nay ta nhận quả báo 
Mọi sự sinh từ nghiệp 
Sao ta trách giận người? 

69. Khi đã hiểu như vậy, 
Ta cố làm việc lành 
Cầu mong mọi chúng sinh 
Biết yêu thương lẫn nhau. 

70-71. Một ngôi nhà bốc lửa 
Có thể lan nhà bên 
Ta phải rút tranh rạ 
Và thứ dễ bắt lửa; 
Cũng vậy phải loại ngay 
Bao ý niệm tham đắm 
Bắt mồi cho lửa sân 
Thiêu rụi kho công đức

72. Kẻ tử tù được thả 
Sau khi bị chặt tay 
Phải chăng là bất hạnh? 
Kham chịu khổ thế gian
Để thoát khổ địa ngục
Phải chăng là bất hạnh? 

73. Nay ta không chịu nổi 
Một chút khổ nho nhỏ 
Sao ta không diệt sân
Vì nó là nguyên nhân 
Sinh ra khổ địa ngục? 

74. Vì sân nên ngàn lần
Tôi đã bị đau khổ
Vì lửa địa ngục đốt.
Điều này chẳng lợi gì 
Cho ta và kẻ khác! 

75. Đau khổ của đời này 
So ra tương đối nhẹ 
Mà còn đem lợi lớn;
Vậy ta nên vui vẻ
Nhẫn chịu khổ nhỏ này
Vì nó giúp xua tan 
Đau khổ của chúng sinh

Ganh tỵ

76. Có những kẻ hân hoan 
Và không ngớt ca ngợi
Công đức của người khác. 
Tâm ý của ta ơi!
Sao không biết hân hoan 
Nhập cuộc khen ngợi này! 

77. Đó là một niềm vui
Không thể nào chê trách
Đó là nguồn hạnh phúc 
thánh nhân không chê 
Đó cũng là phương tiện
Để thu phục lòng người. 

78. Nếu ngươi không chấp nhận 
Niềm an vui kẻ khác
[Bởi vì ngươi ganh tỵ
Thì ngươi sẽ mất sạch 
Tất cả những phước đức 
Hiện rõ hay ẩn tàng. 

79. Ai khen công đức ta 
Ta mong họ an vui 
Ai khen công đức người 
Sao ngươi lại thờ ơ? 

80. Ta phát tâm Bồ đề 
Cầu mọi loài an vui 
Nay chúng sinh hạnh phúc 
Sao ngươi lại sân hận? 

81. Lúc đầu ngươi phát tâm 
Cầu mọi người thành Phật 
Được ba cõi cúng dường
Nay sao ngươi sầu khổ 
Khi người khác được cúng?

82. Đối với gia đình ngươi 
Ngươi phải lo cấp dưỡng 
Nay kẻ khác cung phụng 
Sao ngươi lại nổi sân? 

83. Không cầu mong chúng sinh 
Được một chút toại ý 
Thì sao cầu mong chúng 
Được thành tựu giác ngộ? 

84. Các lễ vật cúng dường 
Không đến tay khất sĩ 
Ắt còn tại thí chủ 
Chúng không thuộc phần ta
Ta bận tâm làm gì
Với việc cho hay không? 

85. Khất sĩ có nên chăng 
Bỏ phước báo cúng dường? 
Thí chủ có nên chăng 
Kềm hãm hạnh bố thí?
Ngươi còn hận nỗi gì! 

86. Ngươi chẳng hối lỗi mình 
Do nghiệp ác gây ra 
Lại tranh chấp với người 
Biết tô bồi phước đức? 

87-88. Kẻ thù ngươi gặp nạn 
Có gì để ngươi vui? 
Không phải vì ngươi muốn 
tai nạn xảy ra. 

Dù kẻ kia bị nạn 
Theo ý ngươi mong muốn 
Thì ngươi được lợi gì? 
Và nếu ngươi nói rằng 
“ Thế là tôi mãn nguyện” 
 Thì tai ương lớn hơn
Bám chặt ngươi sau này. 

89. Đó là lưỡi câu sắc 
ái dục tung ra
Lúc cá đã cắn câu 
Ngục tốt mua nấu nhừ 
Trong nồi đồng địa ngục

90-91. Khen ngợi và vinh quang 
Không tăng thêm công đức
Không nâng cao tuổi thọ
Và khỏe mạnh, sống lâu
Cũng không khiến thân thể 
Được vui thú, khinh an

Tuy chúng là những thứ 
Mà người khôn ở đời 
Tìm thấy được lợi thế
Và với kẻ mua vui 
Thì rượu chè bài bạc. 

92. Vì mưu cầu danh vọng 
Mà mất của, tán mạng. 
Danh vọng nuốt được chăng? 
Chết rồi ai vui hưởng ?

93. Khi lâu đài cát sụp, 
Trẻ nít liền khóc than 
Tâm ta như tâm chúng
Khi danh vọng suy tàn

94. Lời khentiếng vang
Nó chẳng có trí óc 
Vậy thì nó làm sao
Có thể khen tôi được?
Nhưng với ý nghĩ rằng
Ai đó vui vì tôi
Thì đó là lý do
Khiến cho lòng tôi vui.

95. Nếu niềm vui của tôi 
Đến từ vui của người
Thì dù trường hợp nào 
Tôi vẫn được vui tươi
Vậy sao tôi không vui
Khi có người sung sướng
Mở lời khen kẻ khác? 

96. À thế ra cuối cùng 
Ta vui vì được khen 
Một thái độ như vậy 
Khác gì trò trẻ con? 

98. Danh vọnglời khen 
Quấy nhiễu tâm thanh tịnh
Làm suy nỗi lo sợ
Trước sinh tử luân hồi
Chúng nẩy sinh ganh tỵ 
Đối với người đức độ
Vì vậy bao công đức
Được chính tôi tạo ra
Sẽ trở thành mây khói.

Kẻ thùân nhân

99. Những kẻ nào chống đối 
Và chôn danh vọng tôi 
Chính họ là những người 
Ngăn tôi vào nẻo ác. 

100. Người tầm cầu giải thoát 
Không để lợi danh buộc 
Sao ta lại tức giận 
Kẻ cởi trói cho ta? 

101. Khi tôi muốn đi đến 
Một nơi đầy thống khổ
Nhờ phước lành của Phật 
Khiến người muốn hại tôi
Đóng cửa chận đuờng đi
Không cho vào chốn khổ
Tai sao tôi giận họ? 

102. Bảo rằng: “Họ cản trở 
Công đức tôi muốn làm” 
Cũng không nên giận họ
con đường tôi chọn
Là tu hạnh nhẫn nhục
Vậy sự ngăn chận ấy
điều kiện rất tốt
Giúp cho tôi tu hành

103. Tự mình đã gây lỗi 
Lại không nhẫn nhịn người 
Là tôi tự cản trở 
Việc tu tạo phước đức

104. Cái này không thể có 
Nếu cái kia không có 
Và nếu cái này có 
Thì cái kia là nhân; 
Kẻ hại ta là nhân 
Giúp ta tu nhẫn nhục
Sao bảo họ phản phúc? 

105. Người xin đến đúng thời 
Không ngăn việc bố thí 
Khất sĩ đi truyền giới 
Không phải là trở ngại
Cho người muốn xuất gia

106. Những kẻ đi ăn xin
Có mặt khắp mọi nơi
Ngược lại rất khó tìm
Những kẻ muốn hại người 
Đâu có ai hại tôi 
Nếu tôi không hại ai. 

107. Kẻ thù tự đến tôi 
Như kho báu trong nhà 
Không nhọc công tìm kiếm 
Kẻ thù ấy giúp tôi
Trên đường đến giác ngộ! 

108. Có kẻ thù và tôi 
Mới tác thành hạnh nhẫn 
Quả báo công đức ấy 
Nên dành cho kẻ thù 
Đã tạo duyên tu nhẫn. 

109. Nếu nghĩ rằng kẻ thù 
Không có ý giúp tôi 
Để triễn khai hạnh nhẫn 
Nên không đáng coi trọng 
Thì tôi cũng không nên
Cung kính với chánh pháp
chánh pháp vô tư
Trong việc tôi tu hành

110. Nếu không trọng kẻ thù 
Bởì muốn hãm hại tôi 
Vậy làm sao tu nhẫn? 
Tu với y sĩ ư
Kẻ hết lòng chữa bệnh? 

111. Khi nhận biết ác ý 
Của kẻ thù nghịch ta
Hãy phát khởi nhẫn nhục 
Họ là nguồn nhẫn nhục
Vậy nên cung kính họ 
Như cung kính chánh pháp

Yêu thương chúng sinh

112. Bởi vậy đức Phật dạy 
Chúng sinh và chư Phật 
Đều là ruộng phước tốt 
Nhờ cúng dường cả hai 
Nhiều người sẽ giác ngộ

113. Nhờ chúng sinh và Phật 
Mà ta đạt hạnh Phật 
Sao chỉ cung kính Phật 
Mà không kính chúng sinh? 

114. Chủ trương của chư Phật 
Không đồng với chúng sinh 
Song tác động ngang nhau 
Đều giúp ta thành Phật

115. Chúng sinh không số lượng 
Nên cúng dường tất cả
Nhờ vậy mà nhận được 
Phước đức lớn vô biên 
Công đức Phật vô lượng
Nhờ cúng dường đức Phật
Cũng được phước không lường. 

116. Chư Phật và chúng sinh 
Tất cả đều giúp ta
Thành tựu được hạnh Phật 
Song không chúng sinh nào
Có thể so với Phật
Vì biển công đức Phật
Vốn vô lượng vô biên

117. Tuy vậy với chúng sinh 
Có chút ít công đức 
Thì ba cõi hợp lại 
Không đủ để cúng dường

118. Tất cả mỗi chúng sinh 
Đều có sẵn Phật tính 
Nên cúng dường chúng sinh 
cúng dường Phật tính. 

119. Phật là bạn chúng sinh 
Ban vô lượng ân đức
Vậy muốn báo ơn Phật 
Hãy cứu giúp chúng sinh

120. Hãy làm lợi chúng sinh 
Mới đủ báo ơn Phật
Phật từng bỏ thân mạng 
Tự vào ngục Vô gián 
Để cứu độ chúng sinh 
Vậy ta nên cứu độ 
Cho tất cả sinh linh
Và ngay cả kẻ thù

121. Phật cứu độ chúng sinh 
Không tiếc nuối thân mình 
Sao tôi vẫn ngạo mạn 
Không phục vụ chúng sinh? 

122. Người vui, Phật vui theo 
Người khổ, Phật thương xót 
Giúp muôn loài hạnh phúc 
Thì Phật cùng hân hoan 
Làm đau khổ chúng sinh 
Tức làm tổn thương Phật. 

123. Khi thân bị lửa vây 
Làm sao vui sướng được 
Khi thấy chúng sinh khổ 
Các bậc Đại Từ Bi
Không thể nào an lạc

124. Quá khứ tôi gây khổ 
Cho bao nhiêu chúng sinh 
Vô tình làm buồn Phật 
Nay tôi xin sám hối 
Xin Phật tha thứ cho. 

125. Để dâng Phật niềm vui 
Từ nay đến tương lai 
Tôi phục vụ muôn loài 
Với trái tim thành khẩn 
Dầu tôi bị chà đạp 
Vẫn ráng làm Phật vui. 

126. Phật với tâm Đại bi 
Xem chúng sinh như mình 
Tất cả có Phật tính 
Sao ta không tôn kính? 

127. Tôn thờ Đức Thế tôn 
Đạt mục tiêu giải thoát 
Xoá đau khổ trần gian 
nhiệm vụ của tôi. 

128-129. Vị đại thần của Vua 
Đàn áp, hại dân chúng 
Kẻ nhìn xa trông rộng 
Chẳng thay đổi được gì
Bởi sau lưng ông ấy 
Còn thế lực của Vua. 

130. Đối với kẻ yếu đuối 
Đã gây nên tội lỗi 
Cũng không nên tiêu diệt 
Bởi vì sau lưng hắn 
thế lực quỷ sứ
Đang giữ cửa địa ngục
cửa Phật từ bi
Bởi vậy với chúng sinh
Ta cần phải phục vụ
Như ta là kẻ hầu
Của vị vua dễ cáu. 

131. Sự trừng phạt của vua 
Được so sánh nổi chăng 
Với thống khổ địa ngục 
Do quả báo hành động
Ngược đãi hại chúng sinh? 

132. Sự ban ơn của vua 
Đủ so sánh được chăng 
Với thành tựu Phật quả 
Từ hành động lợi tha
Giúp chúng sinh an lạc? 

133-134. Khoan nói đến Phật quả 
Kết tựu từ hành động 
Quý trọng mọi chúng sinh 
Ngay trong cõi đời này
Kẻ nhẫn nhục nhận được
Bao hạnh phúc tràn đầy 
Của một vị Đế vương 
Ví như được danh vọng 
Được sắc đẹp, vui tươi 
Được sức khỏe, trường thọ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33154)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6535)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11251)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30427)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12163)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12237)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11584)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12791)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34728)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52247)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10728)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10496)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10698)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10457)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13063)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21818)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9605)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7110)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10381)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16217)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16514)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13790)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11733)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11251)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12685)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11790)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12614)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14985)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11951)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14520)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20668)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13206)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10930)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20681)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20355)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17645)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12011)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant