Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lá Thư Thay Lời Tựa

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7048)
Lá Thư Thay Lời Tựa

Trí Khải Đại Sư 
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

 

Lá thư thay lời tựa

Trong số chín bản kinh Đại thừa được biết như Phương Đẳng (Vaipulya sutra), kinh Pháp Hoa quan trọng nhất, là bản kinh đại biểu và cực kỳ phổ thông. Thánh điển nầy được xem là giáo pháp cuối cùngtối thượng của Thế Tôn, cùng lúc vừa là nền tảng vừa là cực điểm vinh quang của tư tưởnghành trì thuộc Phật giáo. Bản kinh tự nói lên là ‘vua của các Kinh’, là phần tinh túythâm diệu nhất của giáo pháp Thế Tôn. Tàng kinh xưng tánsùng bái Phật cùng khen ngợi Bồ tát hạnh. Bản kinh hứa hẹn rằng theo đường Phật giúp chúng sinh đạt đến giải thoát và đến mục tiêu cuối cùng, thành Phật. Bản kinh biểu dương Phật giáo như vị cứu tinh hoặc là một tôn giáo mang lại tự do, ban vô úycứu khổ hằng triệu người trên toàn thể Á Châu. Điều nầy cũng giải thích cho sự siêu quần của giáo pháp. ngôn từ của thánh điển rất biểu thị, dẩn khởi và chiêu cảm. Tư tưởng được diễn bày, học thuyết sâu sắc và những nhắn gởi được thông đạt qua những ẩn dụtương tự những sự ám chỉ ngấm ngầm cần được đưa ra.

Giáo pháp kinh Pháp Hoa biện minh học thuyết Nhất Thừa (Ekayama) là giáo thuyết bao hàm và dung hòa Thanh văn, Duyên giácBồ tát. Giáo nghĩa giải thích nguyên lý Không. Không cũng được diễn tả như Tathata, Samata, Dharmakaya, Nirvana, Paramartha, Satya, Parinispana, Madyamapratipad v.v... Trong một đường hướng hy hữu, bản kinh đưa ra học thuyết Nhị Đế của Long Thọ Bồ Tát để làm thế nào hai chân lý Thế Tục đếThắng Nghĩa đế được phân biệt, liên quantối thượng. Thế tục đế có cho đời sống thế gianthắng nghĩa đế có để đạt đến Niết bàn. Thực tại là một nhưng có hai đường lối trực nghiệm. Rốt ráo, không hề có một khác biệt mảy may giữa hai điều trên. Thế tục đếphương tiệnthắng nghĩa đếmục tiêu.

Tựa đề tập sách nầy rất dẩn khởi và ý nghĩa. Các nhà chú giảihọc giả khác nhau đã chia ra nhiều phân nhánh sâu rộng về tựa đề nầy. Danh từ Saddharma nghĩa là pháp như thực hoặc cái nhìn về đường lối của đời và thực tại. Danh từ Pundarika tiêu biểu cho hoa sen trắngbiểu tượng của sự thuần khiết, toàn hảo và là biểu trưng cho sự tinh vẹn. Pháp được Phật thuyết ra và thực hành có thể sánh với hoa sen trắng. Một trong những ý nghĩa như hoa sen mọc trong nước bùn lầy nhưng không bị ô nhiểm và không ngừng lan tỏa hương thơm, như pháp Phật đã bừng lên từ những hỗn loạn của địa cầu nhưng đã phổ độ cho muôn loài vượt qua sợ hải. Xa hơn, chúng sinh được khuyến nhủ nhận ra Phật tánh qua hạnh nguyện Bồ Tát, là người sống giữa đời ác trược nhưng không bị ảnh hưởng ví như hoa sen vươn lên từ vũng lầy nhưng không mất hương thơm. Điều tương tự nầy cũng tìm thấy trong thánh thư Bhagavadgita là bản văn tiêu biểu cho văn hóa Ấn Độ.

Dựa vào kinh Pháp Hoa, Thiên Thai tông của Phật giáo Trung Hoa đã ra đời. Tên của tông phái được đặt theo tên ngọn núi Thiên Thai nơi vị sáng lập tông phái sống. Tông phái nầy được đặc biệt công nhậntông phái Phật giáo đầu tiên ở Trung quốc, mặc dù trước Thiên Thai tông cũng có những tông phái sớm hơn mang ảnh hưởng dân tộc Ấn. Thiên Thai tông nhìn kinh Pháp Hoa như một bản kinh đầy uy lực vi diệu trong văn hóatư tưởng Phật giáo. Sắc thái đặc thù của Thiên Thai tông hiển minh Tam Đế, được gọi là ‘bất khả tư nghì’ dựa vào học thuyết Trung Đạo của Long Thọ Bồ Tát song đôi với tông phái Duy Thức (Vijnanavada) của Thết Thân (Vasubandhu) và những tông phái khác. Học thuyết về Tam Đế là :

(a) Không quán : hủy diệt ảo tưởng của ý niệm từ giác quan và đưa về trí tuệ bát Nhã.

(b) Giả quán : xóa tan sự ô nhiểm của thế giớimang đến sự cứu rổi cho tất cả tội lổi.

(c) Trung quán : Hủy diệt ảo ảnh là nguồn gốc của vô minhđạt đến trí tuệ giải thoát.

Triết thuyết nền tảng của tông Thiên Thai có thể được biểu trưng bằng một vòng tròn đồng tâm, ví như vòng tròn trong vòng tròn, tất cả vòng tròn có chung một tâm điểm. Đó là một-trong-ba và ba-trong-một. Một vòng tròn là Không (samsara). Vòng thứ hai là vòng tròn của Niết Bàn (Nirvana) hoặc như thực, bao gồm vòng tròn đầu tiên. Vòng thứ ba là vòng tròn đồng nhất giữa Không và Niết Bàn. Tất cả hòa nhập vào một vòng tròn viên mãn. Một vòng tròn vô thủy vô chung nên là biểu tượng toàn hảo cho thể tánh.

Trí Khải Đại Sư là người sáng lập ra tông Thiên Thai. Đại sư là một thiền sư và cũng là một nhà tư tưởng vĩ đại, người mà sự hiểu biếtchú giải giáo thuyết và phương pháp hành trì của Phật giáo căn cứ trên cái học thâm viễn cũng như thực chứng thiền định của riêng mình, đã đưa Đại sư đến chỗ thấy và nhận ra được Phật tánh trong thể tánh tinh vẹn nhất, chân thực nhất như Trung Đạo. Trí Khải có được một trí tuệ đầy sáng tạo, tinh tuyền và thấm nhuần. Đại Sưtác giả của nhiều tác phẩm, nhưng tác phẩm quan trọng nhất được gọi là ‘Tam Đại Bộ của tông Thiên Thai’. Đại Sư đã chú giải kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mậtkinh Đại Niết Bàn. Tuy nhiên, với Trí Khải, kinh Pháp Hoa được nhìn như một toát yếu của giáo pháp Thế Tôn. Dựa vào thánh điển nầy, Đại Sư biên soạn tập ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa’.Về giá trị của tập sách nầy, giáo sư Haiyan Shen viết như sau: ‘...vì tánh chất của Huyền Nghĩa, một chú giảihệ thống bộ kinh Pháp Hoa, giáo pháp tối thượng của Thế Tôn, đã trở nên một tác phẩm thâm diệu nhất, chứa đựng hầu hết hệ thống tư tưởng và minh triết của Trí Khải Đại Sư trong lảnh vực Phật giáo. Chuyên chở những đề mục lớn trong kinh Pháp Hoa liên quan đến chân lý rốt ráo Nhất thừa, Đại Sư có thể hiển dương triết học của riêng Đại Sư về Phật giáo.’(p.xiv)

Với mục đích giải thích tư tưởng của mình, Trí Khải đã chọn chú giải kinh Pháp Hoa bởi vì theo Đại Sư bản kinh nầy hòa hợp yếu tính của tất cả những kinh khác. Lời kinh thâm nhập hài hòa đã được Trí Khải ôm ấp và đưa đường tư tưởng của Đại Sư. Trong sự chú nghĩa và giải thích nội dung kinh Pháp Hoa, Trí Khải đã phô bày một năng khiếu chú giải thánh điển hiếm có, đưa ra nhiều ẩn tàng quan trọng, mầm mống khó nắm bắt như hoa sen và những điều tương tự khác gồm chứa trong bản văn. Đại Sư giải đáp những ý nghĩa thâm sâu của bản kinh, nếu không, thì rất khó mà lảnh hội được và từ đó tái lập tư tưởng Phật học với tri giải đầy uy thế về những thánh thư còn lại. Trí Khải giải thích các bản kinh trong đường lối như tấu lên một cung đàn cùng âm giai hòa hợp với các ý thức hệ Khổng giáoLão giáo. Như vậy, trong nổ lực đưa đường nét Trung Hoa vào Phật giáo, Đại Sư đã hòa đồng Phật giáo, Khổng GiáoLão giáo. Điều nầy thực sự là một nhu cầu của mọi thời và Trí Khải đã hoàn tất trong một phương cách thiện xảo

Tập sách với tựa đề ‘ Pháp Hoa Huyền Nghĩa’(The Profound Meaning of the Lotus Sutra) của giáo sư Haiyan Shen là một thuyết minh uyên bác, tràn đầy tư tưởng và tường tận về giáo thuyết Phật Đà của Trí Khải Đại Sư là giáo thuyết đã xây dựng nền tảng cho thể cách của một tông phái danh tiếng, Thiên Thai tông. Căn cứ vào những khảo sát về các tác phẩm của Trí Khải Đại Sư và những áng văn chú giải trong lảnh vực nầy, đây là một khảo cứu cần mẩn và trong sáng, xứng đáng được tất cả tán dương. Tập sách triển khai minh tuệ luận lý, biệt tài phân tích và tư tưởng thấm nhuần của giáo sư.

Với nội dung chi tiết và khéo sắp xếp, những ghi chú tường tận và thư tịch rộng rãi, tập sách biểu hiệu một khảo cưú đáng kể về Thiên Thai tông. Từ đó có thể chứng minh là một đánh dấu quan trọng và cũng là một cống hiến ý nghĩa cho sự khảo nghiệm về tông phái nầy trong Phật học Trung Hoa. Giáo sư xứng đáng nhận lời chúc mừng về khảo sát thông thái nầy, chắc chắn sẽ trở nên một điểm quan trọng trong Phật giáo Trung quốc. Dù rằng tập sách chỉ nghiên cưú và phân tích một trong nhiều tác phẩm của Trí Khải Đại Sư, sự chọn lựa của tập sách nầy rất ý nghĩa, vì như Giáo sư đã viết, tác phẩm được chọn biểu trưng đầy uy lực. Giáo sư viết: ‘Tác phẩm độc đáo nầy, với trí lực tuôn chảy đã làm được một công trình vĩnh cửu, đưa ra một quan điểm toàn triệt về toàn thể hệ thống Phật giáo. Hầu hết giáo nghĩa và khái niệm Phật học rải rác khắp nơi qua nhiều thánh điển khác nhau đã được Trí Khải hợp lại vào hệ thống chú giải của Đại Sư bằng cách xác định lại để từ đó có thể hình thành một giáo pháp liên kết chặt chẻ toàn thể những lời dạy của Thế Tôn, bao gồm tất cả những học phái Phật giáo có mặt vào thời Trí Khải Đại Sư.’( p.XVI).

Hy vọng rằng tập sách nầy sẽ được sự chú ý của nhiều học giả trên thế giới trong lảnh vực Phật học và Hán học. Chắc chắn sẽ giúp ích trong sự tìm hiểu tư tưởng căn bản của tông Thiên Thai và minh triết toàn vẹn hài hòa của Trí Khải đã cống hiến rất nhiều vào sự thành hình Phật giáo Trung Hoa.

S.R.Bhatt
Cưụ Giáo sư và Khoa trưởng
Phân khoa Triết học, Đại học Delhi
Mp 23, Pitam Pura
Delhi, 110088
India
Ngày 20 tháng 7, 2005
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33290)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30416)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30444)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7993)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12216)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11615)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12846)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34807)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52281)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10761)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10726)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16302)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21861)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9634)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7136)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12779)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16246)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16545)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13876)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16611)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13845)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14338)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9223)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11287)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16349)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14365)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16210)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11805)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14029)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15004)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11971)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20739)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13246)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10975)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20725)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14378)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31868)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant