Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài Nét Về Văn Bản

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7232)
Vài Nét Về Văn Bản

Trí Khải Đại Sư 
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

 

Vài nét về văn bản

Mười năm trước, khi tôi bắt đầu để tâm đến Phật giáo thì Phật học Thiên Thai Tông (1) lôi cuốn sự chú ý của tôi một cách khác thường. Đây là tông phái Phật giáo đầu tiên xuất hiện ở Trung Hoa đánh dấu một chuyển tiếp sấm sét từ Phật giáo Ấn Độ đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ sáu. Sự thành hình của hệ thống Phật giáo Thiên Thai Tông qua phương pháp Chỉ và Quán đặt căn bản lý thuyếtthực hành cho Phật giáo Trung Hoa. Bởi vì Phật học Thiên Thai Tông mang theo lề lối nhận thức của dân tộc Trung Hoa, tông phái nầy đã vẽ đường cho sự phát triển của những tông phái Phật giáo tiếp nối trên vùng đất Trung quốc. Khuôn mặt nổi bật là người dựng lập nên Thiên Thai Tông, một trong những vị Tổ vĩ đại nhất của Trung Hoa, tức Trí Khải, còn được gọi là ‘bậc hiền triết lỗi lạc nhất của Phật giáo Trung Hoa’ (2). Vì vậy, tôi rất chú tâm vào những tác phẩm còn để lại của Người.

Những tác phẩm quan trọng nhất của Trí Khải Đại Sư được gọi là ‘Thiên Thai Tam Đại Bộ’(T’ien T’ai San ta pu). Bộ sách nầy gồm có : ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú’(Miao Fa Lien hua Ching Wen chu, T34, No.1718), , ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (Miao fa Lien hua Ching Hsuan-I, T33, No. 1716), và Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan, T46, No.1911). Mỗi tác phẩm nhấn mạnh vào mỗi chủ đề đặc thù, tác phẩm thứ nhất giảng chi tiết từng lời kinh Pháp Hoa ; tác phẩm thứ hai trình bày hệ thống Phật học siêu việt của Trí Khải qua những đề mụcý nghĩa vi diệu trong bản kinh Pháp Hoa ; và tác phẩm thứ ba là hệ thống thực hành thâm sâu của riêng Trí Khải về Chỉ và Quán đặt căn bản trên những chú giải của Đại Sư về kinh Pháp Hoa. Trong ba tác phẩm nầy, Huyền Nghĩa là một tác phẩm đầy sáng tạo, trong đó, Trí Khải đã đưa vào một hệ thống toàn thể những giáo lý Phật có mặt đương thời qua phương thức chú giải, dựng lập, tái tạo, và đặt vào chỗ đứng đúng đắn nhất tất cả những khái niệm và tư tưởng từ đất Ấn du nhập vào Trung Hoa, đưa theo nền tảng phát triển của Phật giáo Trung quốc

Đường nét quan trọng của bản kinh Pháp Hoa (3) đối với Thiên Thai Tông thì không còn gì nghi ngờ nữa. Chủ đề của bộ kinh nầy chuyển đạt sự hợp nhất của phương tiện Tam Thừa vào một Phật Thừa tối hậu, gắn liền với tinh thần phổ độ chúng sinh. Vì kinh Pháp Hoa thuyết về Không (Sunya) như thực lý, là cái đồng như trí tuệ thâm sâu của kinh Bát Nhã Ba La Mật, và thuyết về Nhất Thừa Bồ Đề giải thoát rốt ráo của tất cả chúng sinh, phù hợp với giáo lý kinh Đại Niết Bàn, gồm thu những tư tưởng quan trọng và tinh túy của Đại Thừa, trở nên một trong những bản kinh Đại Thừa gây ảnh hưởng mạnh khắp vùng Đông Á.

Sự chọn lựa đề tài nghiên cứu

Trong số những tác phẩm của Trí Khải Đại Sư, tác phẩm Huyền Nghĩa đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của tôi. Ngoài những điểm đáng kể trong tam đại bộ, có lẻ vì tính chất của Huyền Nghĩa- một đường hướng chú giải kinh Pháp Hoahệ thống, giáo pháp tối hậu của Thế Tôn đã hiện nguyên hình trong một tác phẩm sâu thẳm, gồm thu hầu hết hệ thống tư tưởngtriết học Phật giáo của Trí Khải. Với cách chuyển đạt những đề mục chính trong kinh Pháp Hoa liên quan đến Chân Như của Phật Thừa, Trí Khải có thể trình bày nền minh triết của riêng Đại sư về Phật giáo. tác phẩm Huyền Nghĩa khiến người đọc sững sốt, vì những phương thức Trí Khải mang đến với Phật pháp, và cũng vì lối trình bày đầy năng lực qua những phương tiện cấu trúc đa dạng tự phơi bày từ lớp nầy sang lớp khác. Bố cục đa dạng nầy dựa vào những thể loại khác nhau và vô vàn phối cảnh, hòa tan vào một sự thoát thai không ràng buộc vào quy ước (4), mang theo tư tưởng hài hòa, chân thực, và giá trị của Trí Khải.

Tác phẩm duy nhất nầy, với chiều sâu và sự gắn bó, đã đổ đầy vào công trình vĩ đại trong sự khám phá những huyền khải qua toàn thể hệ thống Phật pháp. Hầu hết những lý thuyết và khái niệm Phật giáo có trong nhiều bản kinh khác nhau được đưa về hòa hợp trong hệ thống chú giải của Trí Khải qua đường lối tuyên thuyết và xác định lại vị trí chân thực, đưa giáo pháp Phật về một toàn khối liên tục, gồm thu tất cả những phân nhánh có mặt vào thời đại của Trí Khải. Giải thích ‘Huyền Nghĩa’ qua ba phối cảnh trong ánh sáng của một minh triết dung hòa (Yuan-jung Che-hsueh) (5), chúng tôi mong ước cung cấp được một định lượng đối với tác phẩm nầy và đối với những gì Trí Khải đã cống hiến trong sự thành lập Phật giáo Trung Hoa. Hiển nhiên, không hiểu đúng tác phẩm nầy thì không thể nào nắm bắt được cái thâm diệu của Phật giáo Trung Quốc.

(1) Phối cảnh thứ nhất liên quan đến phương pháp chú giải và trình bày của Trí Khải. Đây là chỗ suy gẫm về văn mạch và bố cục của tác phẩm Huyền Nghĩa để thấy được làm cách nào Trí Khải đã dàn trải học thuyết của Đại Sư qua phương pháp chú giải bản kinh Pháp Hoa.

(2) Phối cảnh thứ hai liên quan đến mục tiêu phổ độ của Trí Khải xuyên qua phương pháp hành trì. Đây là chỗ thấy được kỷ thuật Trí Khải sử dụng để giữ vững hệ thống tư tưởng của Đại Sư.

(3) Phối cảnh thứ ba liên quan đến chiều hướng suy tư của Trí Khải, là cái phản ảnh đường hướng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa trong bầu vũ trụ hài hòa. Đây là chỗ thấy được lề lối hận thức đối với cái những học thuyết của Trí Khải thực sự là, và tại sao Đại Sư có được một nền minh triết dung hòa trọn vẹn đến như vậy.

Với sự hiểu biết của chúng tôi, ba con đường tiến đến tư tưởng của Trí Khải như trên ít được thấy.

Đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu ở đây là đến được với cái hiểu thâm sâu về sự thành tựu của Trí Khải qua lối đi vào Huyền Nghĩa, tương trưng cho học thuyết của Đại sư, và bắt nhịp cho ba phối cảnh nói trên. Tiếp theo là sự thành tựu của Trí Khải qua Huyền Nghĩa, như một tác phẩm đã phản ảnh triết học của Đại Sư. Tập trung vào toàn thể tác phẩm như phương tiện khảo cứu triết lý của Trí Khải, chúng tôi có thể đưa ra một phát họa cụ thể, cho thấy tư tưởng của Trí Khải đi vào con đường thực hành như thế nào. Đường hướng giải thích một tác phẩm đơn độc của Trí Khải tuôn trải dòng tư tưởng của Đại Sư thì không giống với những cách thức chú giải cổ truyền. Triết học của Trí Khải được tôn trọng bởi các học giả Thiên Thai Tông trong các thảo luận về tư tưởng, khái niệm, hệ thống v.v... của Đại Sư. Vì vậy, cách tức tương đối mới mẻ nầy đi vào tư tưởng của Trí Khải như một chứng cớ hiển nhiên về con đường mang triết lý vào thực hành của Trí Khải, cũng là cố gắng của chúng tôi trong việc đào sâu tư tưởng của Đại Sư. Chúng tôi kỳ vọng rằng sự nghiên cứu nầy có thể giúp chúng tôi tiếp nhận được chiều sâu của một nền minh triết tuyệt đối dung hòa, cũng như dối vớI sự cống hiến của Trí Khải vào công trình tạo dựng Phật giáo Trung Hoa.

Bố cục tác phẩm nghiên cứu

Chủ đề Chương Một, Quyển Một

Để nhìn ra được Trí Khải như một nhân vật khác thường trong thời điểm của Đại Sư, Chương Một nói về cuộc đờithời đại của Trí Khải như một giới thiệu căn bản, và cũng như một giới thiệu về tác phẩm. Suốt cả cuộc đời Trí Khải là một sự huyền bí. Sự thành tựu của Trí Khải là kết quả của truyền thống gia tộc, giáo dục, tài năng, kinh nghiệm, và sự dâng hiến đời mình cho hạnh nguyện tôn giáo, như nhu cầu của thời thế.

Chủ đề Chương Hai, Quyển Một 

Dựa vào sự diễn tả của Huyền Nghĩa (là chủ đề của Quyển Hai), Chương Hai nói về những thành tựu của Trí Khải qua Huyền Nghĩa. Chúng tôi hoạch định ba câu hỏi (qua ba phối cảnh đã đề cập ở trên) đưa ra một sự phân tích về tác phẩm.

Câu hỏi thứ nhất trong Chương Hai

Câu hỏi thứ nhất, Trí Khải đã bố cục tác phẩm Huyền Nghĩa như thế nào để chú giải kinh Pháp Hoa, nhắm mục đích trình bày hệ thống tư tưởng của riêng mình, nhìn toàn diện tác phẩm qua bố cục và nội dung. Phần nầy vẽ ra một dàn bài và cấu trúc tổng quát của tác phẩm. Qua câu hỏi nầy, đưa ra sự diễn tả sơ lược về phương thức chú giải kinh điển được Trí Khải sử dụng giải nghĩa kinh Pháp Hoa và trình bày tư tưởng của Đại Sư.

Câu hỏi thứ hai trong Chương Hai

Câu hỏi thứ hai, Trí Khải đã nối kết một cách liên tục và đầy đủ tư tưởng viên dung của mình như thế nào, Đại Sư đã sử dụng kỷ thuật nào khiến những tư tưởng nầy không sa vào lỗi lầm, và không thể bị đánh đổ, qua sáu kỷ thuật : 1. Kỷ thuật quy nguyên, 2. Kỷ thuật định nghĩa, 3. Kỷ thuật phê bình và định giá trị tường tận những lý thuyết khác, 4. Kỷ thuật so sánh, 5. Kỷ thuật diễn tả những ý niệm và khái niệm tường tận và thâm sâu, 6. Kỷ thuật chú giải qua biểu tượng. Qua những kỷ thuật nầy, điều Trí Khải muốn gởi gắm trong ánh sáng triết lý của mình (ám chỉ một sự phổ độ) đã hiển nhiên.

Câu hỏi thứ ba trong Chương Hai

Câu hỏi sau cùng, là cái mà những lý thuyếthệ thống Trí Khải kết cấu để trình bày những đặc tính dung hợp những tín giải khác biệt, như rường cột triết học của Đại Sư, liên quan đến đường lối nhận thức, tức sự điều hòa những tín giải phản ảnh nhận thức luận của người Trung Hoa. Những lý thuyếthệ thống hiển lộ đặc tính nầy đợc tóm lược như sau :1. Hệ thống phân loại, 2. Hợp nhất, 3. Hệ thống nhổ bỏ cái cũ và đưa đến cái mới. qua câu hỏi nầy, không những đề tài thứ ba về vấn đề nhận thức liên quan đến sự thành lập tư tưởng triết học của Trí Khải, là cái biểu trưng cho ý nghĩa thực hành, được khảo sát, mà sự tương quan với phối cảnh thứ nhất qua phương thức chú giải thánh điển, có dụng ý giáo dục, và phối cảnh thứ hai, mang theo ý nghĩa phổ độ cũng được vén màn.

Chủ đề Quyển Hai

Về tác phẩm Huyền Nghĩa, hiện nay chưa có một bản dịch Anh ngữ nào ra đời, ngoại trừ một phần nhỏ nói về ‘Diệu Cảnh’(6). Vì chiều dài của tác phẩm (133 trang qua Taisho edition), chúng tôi chọn lối trình bày và diễn tả tổng quát về tác phẩm thay cho một chú dịch toàn tác phẩm. Qua lối mô tả trong tập sách nầy, chúng tôi cố gắng trình bày toàn bộ tác phẩm.

Quyển Một của tập sách nầy đưa ra mục đích nói trên. Chúng tôi chia làm hai phần chính phù hợp với bố cục của tác phẩm. Phần Ngũ Huyền (Danh, Thể, Tông, Dụng, và Giáo) mà Trí Khải đã sáng tạo như phương tiện chú giải kinh Phật, là những đề mục chú giải kinh Pháp Hoa trong cả hai phần. Phần thứ nhất trình bày những đặc tính tổng quát của Ngũ Huyền trong cách chú giải kinh Pháp Hoa ; phần thứ hai tập trung vào những ý nghĩa đặc thù của Ngũ Huyền trong khi chú giải bản kinh nầy. Vì nội dung đa dạng của phần hai, chúng tôi đã chia phần nầy ra làm năm chương thuận theo Ngũ Huyền. Chương thứ nhất giải thích từng chữ trong đề kinh. chương thứ hai hiển lộ Thể kinh. Chương thứ ba minh định Tông chỉ kinh. Chương tứ tư luận Dụng của kinh. Chương thứ năm nói về đặc tính của giáo lý Pháp Hoa.

Kết luận

Phần tham khảo chính của tập sách nầy là tác phẩm Huyền Nghĩa. Chúng tôi thú nhận rằng tác phẩm Huyền Nghĩa của Trí Khải Đại Sư quá ư phức tạpthâm sâu mà cái học của chúng tôi chưa thể với đến được chỗ cùng tận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng, sự hiểu biết của chúng tôi về tác phẩm nầy, và về những phương pháp, kỷ thuật Trí Khải sử dụng, sẽ đưa đường cho những khảo cứu sâu hơn từ những người khác.

Tham khảo

1. Trong tập sách nầy, sự phiên âm Hoa Ngữ được ghi theo hệ thống Wale-Giles, một cách tổng quát, ngoại trừ tên vùng đất, thành phố Trung Hoa, và tên các học giả là những vị vẫn còn sống tại Trung Quốc. Sự phiên âm những tên nầy được ghi theo hệ thống Pinyin.
2. So sánh cùng chỗ, David Chappell, Foreword, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, của Paul Swanson, pp.vii.
3. Tóm lược về nội dung kinh Pháp Hoa, đọc Hurvitz, Chih-I, pp. 183-188 ; Kenneth Chen, Buddhism in China, pp. 378-382. Phần phân tích về bản kinh Pháp Hoa, đọc Ren Jiyu, Chung-kuo Fo-chiao Shih, Vol.2, pp.414-445. Phần chính về bản kinh dưới dạng Anh ngữ, đọc Paul Williams, Mahayana Buddhism : The Doctrinal Foundations, Chapter 7.
4. Phần giải thích về cách chú giải tự do của Trí Khải, đọc thí dụ của chúng tôi Chương Hai, Quyển Một.
5. Danh từ ‘Yuan-ju Che-hsueh’ (Triết học viên dung hài hòa), được dùng thông thường ở Trung Hoa để nói về triết học của Trí Khải Đại Sư.
6. Phần nầy được Paul Swanson dịch. Đọc Swanson, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, pp.157-256 về bản dịch, và pp. 282-356 về phần ghi chú bản dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14639)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11692)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12638)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10178)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11948)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15156)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10948)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10392)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12340)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16277)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14128)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11636)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14643)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11903)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16687)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12623)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11231)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11929)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51762)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15324)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13859)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11353)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13075)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12663)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13101)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12352)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54040)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14268)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9846)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57605)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14353)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19979)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17362)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13217)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11824)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13378)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14552)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12363)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12039)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11958)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13174)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12412)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13529)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13230)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25374)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12097)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11742)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41942)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28167)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38575)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14611)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12587)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16106)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant