Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài Nét Về Văn Bản

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7235)
Vài Nét Về Văn Bản

Trí Khải Đại Sư 
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

 

Vài nét về văn bản

Mười năm trước, khi tôi bắt đầu để tâm đến Phật giáo thì Phật học Thiên Thai Tông (1) lôi cuốn sự chú ý của tôi một cách khác thường. Đây là tông phái Phật giáo đầu tiên xuất hiện ở Trung Hoa đánh dấu một chuyển tiếp sấm sét từ Phật giáo Ấn Độ đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ sáu. Sự thành hình của hệ thống Phật giáo Thiên Thai Tông qua phương pháp Chỉ và Quán đặt căn bản lý thuyếtthực hành cho Phật giáo Trung Hoa. Bởi vì Phật học Thiên Thai Tông mang theo lề lối nhận thức của dân tộc Trung Hoa, tông phái nầy đã vẽ đường cho sự phát triển của những tông phái Phật giáo tiếp nối trên vùng đất Trung quốc. Khuôn mặt nổi bật là người dựng lập nên Thiên Thai Tông, một trong những vị Tổ vĩ đại nhất của Trung Hoa, tức Trí Khải, còn được gọi là ‘bậc hiền triết lỗi lạc nhất của Phật giáo Trung Hoa’ (2). Vì vậy, tôi rất chú tâm vào những tác phẩm còn để lại của Người.

Những tác phẩm quan trọng nhất của Trí Khải Đại Sư được gọi là ‘Thiên Thai Tam Đại Bộ’(T’ien T’ai San ta pu). Bộ sách nầy gồm có : ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú’(Miao Fa Lien hua Ching Wen chu, T34, No.1718), , ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (Miao fa Lien hua Ching Hsuan-I, T33, No. 1716), và Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan, T46, No.1911). Mỗi tác phẩm nhấn mạnh vào mỗi chủ đề đặc thù, tác phẩm thứ nhất giảng chi tiết từng lời kinh Pháp Hoa ; tác phẩm thứ hai trình bày hệ thống Phật học siêu việt của Trí Khải qua những đề mụcý nghĩa vi diệu trong bản kinh Pháp Hoa ; và tác phẩm thứ ba là hệ thống thực hành thâm sâu của riêng Trí Khải về Chỉ và Quán đặt căn bản trên những chú giải của Đại Sư về kinh Pháp Hoa. Trong ba tác phẩm nầy, Huyền Nghĩa là một tác phẩm đầy sáng tạo, trong đó, Trí Khải đã đưa vào một hệ thống toàn thể những giáo lý Phật có mặt đương thời qua phương thức chú giải, dựng lập, tái tạo, và đặt vào chỗ đứng đúng đắn nhất tất cả những khái niệm và tư tưởng từ đất Ấn du nhập vào Trung Hoa, đưa theo nền tảng phát triển của Phật giáo Trung quốc

Đường nét quan trọng của bản kinh Pháp Hoa (3) đối với Thiên Thai Tông thì không còn gì nghi ngờ nữa. Chủ đề của bộ kinh nầy chuyển đạt sự hợp nhất của phương tiện Tam Thừa vào một Phật Thừa tối hậu, gắn liền với tinh thần phổ độ chúng sinh. Vì kinh Pháp Hoa thuyết về Không (Sunya) như thực lý, là cái đồng như trí tuệ thâm sâu của kinh Bát Nhã Ba La Mật, và thuyết về Nhất Thừa Bồ Đề giải thoát rốt ráo của tất cả chúng sinh, phù hợp với giáo lý kinh Đại Niết Bàn, gồm thu những tư tưởng quan trọng và tinh túy của Đại Thừa, trở nên một trong những bản kinh Đại Thừa gây ảnh hưởng mạnh khắp vùng Đông Á.

Sự chọn lựa đề tài nghiên cứu

Trong số những tác phẩm của Trí Khải Đại Sư, tác phẩm Huyền Nghĩa đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của tôi. Ngoài những điểm đáng kể trong tam đại bộ, có lẻ vì tính chất của Huyền Nghĩa- một đường hướng chú giải kinh Pháp Hoahệ thống, giáo pháp tối hậu của Thế Tôn đã hiện nguyên hình trong một tác phẩm sâu thẳm, gồm thu hầu hết hệ thống tư tưởngtriết học Phật giáo của Trí Khải. Với cách chuyển đạt những đề mục chính trong kinh Pháp Hoa liên quan đến Chân Như của Phật Thừa, Trí Khải có thể trình bày nền minh triết của riêng Đại sư về Phật giáo. tác phẩm Huyền Nghĩa khiến người đọc sững sốt, vì những phương thức Trí Khải mang đến với Phật pháp, và cũng vì lối trình bày đầy năng lực qua những phương tiện cấu trúc đa dạng tự phơi bày từ lớp nầy sang lớp khác. Bố cục đa dạng nầy dựa vào những thể loại khác nhau và vô vàn phối cảnh, hòa tan vào một sự thoát thai không ràng buộc vào quy ước (4), mang theo tư tưởng hài hòa, chân thực, và giá trị của Trí Khải.

Tác phẩm duy nhất nầy, với chiều sâu và sự gắn bó, đã đổ đầy vào công trình vĩ đại trong sự khám phá những huyền khải qua toàn thể hệ thống Phật pháp. Hầu hết những lý thuyết và khái niệm Phật giáo có trong nhiều bản kinh khác nhau được đưa về hòa hợp trong hệ thống chú giải của Trí Khải qua đường lối tuyên thuyết và xác định lại vị trí chân thực, đưa giáo pháp Phật về một toàn khối liên tục, gồm thu tất cả những phân nhánh có mặt vào thời đại của Trí Khải. Giải thích ‘Huyền Nghĩa’ qua ba phối cảnh trong ánh sáng của một minh triết dung hòa (Yuan-jung Che-hsueh) (5), chúng tôi mong ước cung cấp được một định lượng đối với tác phẩm nầy và đối với những gì Trí Khải đã cống hiến trong sự thành lập Phật giáo Trung Hoa. Hiển nhiên, không hiểu đúng tác phẩm nầy thì không thể nào nắm bắt được cái thâm diệu của Phật giáo Trung Quốc.

(1) Phối cảnh thứ nhất liên quan đến phương pháp chú giải và trình bày của Trí Khải. Đây là chỗ suy gẫm về văn mạch và bố cục của tác phẩm Huyền Nghĩa để thấy được làm cách nào Trí Khải đã dàn trải học thuyết của Đại Sư qua phương pháp chú giải bản kinh Pháp Hoa.

(2) Phối cảnh thứ hai liên quan đến mục tiêu phổ độ của Trí Khải xuyên qua phương pháp hành trì. Đây là chỗ thấy được kỷ thuật Trí Khải sử dụng để giữ vững hệ thống tư tưởng của Đại Sư.

(3) Phối cảnh thứ ba liên quan đến chiều hướng suy tư của Trí Khải, là cái phản ảnh đường hướng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa trong bầu vũ trụ hài hòa. Đây là chỗ thấy được lề lối hận thức đối với cái những học thuyết của Trí Khải thực sự là, và tại sao Đại Sư có được một nền minh triết dung hòa trọn vẹn đến như vậy.

Với sự hiểu biết của chúng tôi, ba con đường tiến đến tư tưởng của Trí Khải như trên ít được thấy.

Đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu ở đây là đến được với cái hiểu thâm sâu về sự thành tựu của Trí Khải qua lối đi vào Huyền Nghĩa, tương trưng cho học thuyết của Đại sư, và bắt nhịp cho ba phối cảnh nói trên. Tiếp theo là sự thành tựu của Trí Khải qua Huyền Nghĩa, như một tác phẩm đã phản ảnh triết học của Đại Sư. Tập trung vào toàn thể tác phẩm như phương tiện khảo cứu triết lý của Trí Khải, chúng tôi có thể đưa ra một phát họa cụ thể, cho thấy tư tưởng của Trí Khải đi vào con đường thực hành như thế nào. Đường hướng giải thích một tác phẩm đơn độc của Trí Khải tuôn trải dòng tư tưởng của Đại Sư thì không giống với những cách thức chú giải cổ truyền. Triết học của Trí Khải được tôn trọng bởi các học giả Thiên Thai Tông trong các thảo luận về tư tưởng, khái niệm, hệ thống v.v... của Đại Sư. Vì vậy, cách tức tương đối mới mẻ nầy đi vào tư tưởng của Trí Khải như một chứng cớ hiển nhiên về con đường mang triết lý vào thực hành của Trí Khải, cũng là cố gắng của chúng tôi trong việc đào sâu tư tưởng của Đại Sư. Chúng tôi kỳ vọng rằng sự nghiên cứu nầy có thể giúp chúng tôi tiếp nhận được chiều sâu của một nền minh triết tuyệt đối dung hòa, cũng như dối vớI sự cống hiến của Trí Khải vào công trình tạo dựng Phật giáo Trung Hoa.

Bố cục tác phẩm nghiên cứu

Chủ đề Chương Một, Quyển Một

Để nhìn ra được Trí Khải như một nhân vật khác thường trong thời điểm của Đại Sư, Chương Một nói về cuộc đờithời đại của Trí Khải như một giới thiệu căn bản, và cũng như một giới thiệu về tác phẩm. Suốt cả cuộc đời Trí Khải là một sự huyền bí. Sự thành tựu của Trí Khải là kết quả của truyền thống gia tộc, giáo dục, tài năng, kinh nghiệm, và sự dâng hiến đời mình cho hạnh nguyện tôn giáo, như nhu cầu của thời thế.

Chủ đề Chương Hai, Quyển Một 

Dựa vào sự diễn tả của Huyền Nghĩa (là chủ đề của Quyển Hai), Chương Hai nói về những thành tựu của Trí Khải qua Huyền Nghĩa. Chúng tôi hoạch định ba câu hỏi (qua ba phối cảnh đã đề cập ở trên) đưa ra một sự phân tích về tác phẩm.

Câu hỏi thứ nhất trong Chương Hai

Câu hỏi thứ nhất, Trí Khải đã bố cục tác phẩm Huyền Nghĩa như thế nào để chú giải kinh Pháp Hoa, nhắm mục đích trình bày hệ thống tư tưởng của riêng mình, nhìn toàn diện tác phẩm qua bố cục và nội dung. Phần nầy vẽ ra một dàn bài và cấu trúc tổng quát của tác phẩm. Qua câu hỏi nầy, đưa ra sự diễn tả sơ lược về phương thức chú giải kinh điển được Trí Khải sử dụng giải nghĩa kinh Pháp Hoa và trình bày tư tưởng của Đại Sư.

Câu hỏi thứ hai trong Chương Hai

Câu hỏi thứ hai, Trí Khải đã nối kết một cách liên tục và đầy đủ tư tưởng viên dung của mình như thế nào, Đại Sư đã sử dụng kỷ thuật nào khiến những tư tưởng nầy không sa vào lỗi lầm, và không thể bị đánh đổ, qua sáu kỷ thuật : 1. Kỷ thuật quy nguyên, 2. Kỷ thuật định nghĩa, 3. Kỷ thuật phê bình và định giá trị tường tận những lý thuyết khác, 4. Kỷ thuật so sánh, 5. Kỷ thuật diễn tả những ý niệm và khái niệm tường tận và thâm sâu, 6. Kỷ thuật chú giải qua biểu tượng. Qua những kỷ thuật nầy, điều Trí Khải muốn gởi gắm trong ánh sáng triết lý của mình (ám chỉ một sự phổ độ) đã hiển nhiên.

Câu hỏi thứ ba trong Chương Hai

Câu hỏi sau cùng, là cái mà những lý thuyếthệ thống Trí Khải kết cấu để trình bày những đặc tính dung hợp những tín giải khác biệt, như rường cột triết học của Đại Sư, liên quan đến đường lối nhận thức, tức sự điều hòa những tín giải phản ảnh nhận thức luận của người Trung Hoa. Những lý thuyếthệ thống hiển lộ đặc tính nầy đợc tóm lược như sau :1. Hệ thống phân loại, 2. Hợp nhất, 3. Hệ thống nhổ bỏ cái cũ và đưa đến cái mới. qua câu hỏi nầy, không những đề tài thứ ba về vấn đề nhận thức liên quan đến sự thành lập tư tưởng triết học của Trí Khải, là cái biểu trưng cho ý nghĩa thực hành, được khảo sát, mà sự tương quan với phối cảnh thứ nhất qua phương thức chú giải thánh điển, có dụng ý giáo dục, và phối cảnh thứ hai, mang theo ý nghĩa phổ độ cũng được vén màn.

Chủ đề Quyển Hai

Về tác phẩm Huyền Nghĩa, hiện nay chưa có một bản dịch Anh ngữ nào ra đời, ngoại trừ một phần nhỏ nói về ‘Diệu Cảnh’(6). Vì chiều dài của tác phẩm (133 trang qua Taisho edition), chúng tôi chọn lối trình bày và diễn tả tổng quát về tác phẩm thay cho một chú dịch toàn tác phẩm. Qua lối mô tả trong tập sách nầy, chúng tôi cố gắng trình bày toàn bộ tác phẩm.

Quyển Một của tập sách nầy đưa ra mục đích nói trên. Chúng tôi chia làm hai phần chính phù hợp với bố cục của tác phẩm. Phần Ngũ Huyền (Danh, Thể, Tông, Dụng, và Giáo) mà Trí Khải đã sáng tạo như phương tiện chú giải kinh Phật, là những đề mục chú giải kinh Pháp Hoa trong cả hai phần. Phần thứ nhất trình bày những đặc tính tổng quát của Ngũ Huyền trong cách chú giải kinh Pháp Hoa ; phần thứ hai tập trung vào những ý nghĩa đặc thù của Ngũ Huyền trong khi chú giải bản kinh nầy. Vì nội dung đa dạng của phần hai, chúng tôi đã chia phần nầy ra làm năm chương thuận theo Ngũ Huyền. Chương thứ nhất giải thích từng chữ trong đề kinh. chương thứ hai hiển lộ Thể kinh. Chương thứ ba minh định Tông chỉ kinh. Chương tứ tư luận Dụng của kinh. Chương thứ năm nói về đặc tính của giáo lý Pháp Hoa.

Kết luận

Phần tham khảo chính của tập sách nầy là tác phẩm Huyền Nghĩa. Chúng tôi thú nhận rằng tác phẩm Huyền Nghĩa của Trí Khải Đại Sư quá ư phức tạpthâm sâu mà cái học của chúng tôi chưa thể với đến được chỗ cùng tận. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng, sự hiểu biết của chúng tôi về tác phẩm nầy, và về những phương pháp, kỷ thuật Trí Khải sử dụng, sẽ đưa đường cho những khảo cứu sâu hơn từ những người khác.

Tham khảo

1. Trong tập sách nầy, sự phiên âm Hoa Ngữ được ghi theo hệ thống Wale-Giles, một cách tổng quát, ngoại trừ tên vùng đất, thành phố Trung Hoa, và tên các học giả là những vị vẫn còn sống tại Trung Quốc. Sự phiên âm những tên nầy được ghi theo hệ thống Pinyin.
2. So sánh cùng chỗ, David Chappell, Foreword, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, của Paul Swanson, pp.vii.
3. Tóm lược về nội dung kinh Pháp Hoa, đọc Hurvitz, Chih-I, pp. 183-188 ; Kenneth Chen, Buddhism in China, pp. 378-382. Phần phân tích về bản kinh Pháp Hoa, đọc Ren Jiyu, Chung-kuo Fo-chiao Shih, Vol.2, pp.414-445. Phần chính về bản kinh dưới dạng Anh ngữ, đọc Paul Williams, Mahayana Buddhism : The Doctrinal Foundations, Chapter 7.
4. Phần giải thích về cách chú giải tự do của Trí Khải, đọc thí dụ của chúng tôi Chương Hai, Quyển Một.
5. Danh từ ‘Yuan-ju Che-hsueh’ (Triết học viên dung hài hòa), được dùng thông thường ở Trung Hoa để nói về triết học của Trí Khải Đại Sư.
6. Phần nầy được Paul Swanson dịch. Đọc Swanson, Foundations of T’ien T’ai Philosophy, pp.157-256 về bản dịch, và pp. 282-356 về phần ghi chú bản dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12568)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12947)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10593)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant