Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Giới Thiệu

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6685)
Phần Giới Thiệu

Trí Khải Đại Sư
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

Phần giới thiệu
Tác phẩm Huyền Nghĩa của Trí Khải Đại Sư

Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán (Madhyanika) v.v...Trong số những tác phẩm quan trọng, có Leon Hurvitz, Ando Toshio, Mo Tsungsan, David Champell, Paul Swanson, Neal Donner, Ng YuKwan. Ch’en Ying Shan, Pan Guiming, Lee Chih fu, Thomas Cleary (7) ... Tuy nhiên, rất ít sưu khảo đặt nền tảng trên một tác phẩm đơn độc của Trí Khải. Sưu khảo ‘ The Great Calming and Contemplation’ của Neal Donner là một bản phiên dịch có chú thích phẩm I tác phẩm ‘Maha Chỉ Quán’, một trong những công trình chính của Trí Khải Đại Sư. Thomas Cleary với tác phẩm ‘Stopping anh Seeing’ : một văn bản thâm cứu về pháp Thiền quán của Phật giáo là những văn tuyển Anh ngữ của Maha Chỉ Quán được Cleary phiên dịch. Lee Chih-fu với biên tập Miao-fa Lien hua ching Hsuan-I Yen Chiu là một sưu tập tài liệu đặt trọng tâm trên ‘Diêu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa’ đưa ra nhiều trích dẩn từ bản thánh thư Trí Khải Đại Sư đã đề cập đến và cũng là một tâp họp của nhiều tham khảo, chú giải hiện có.

Có nhiều loại sách viết về Phật giáo trong những giai đoạn đời nhà Tùy và Đường. Tính chất của ‘Huyền Nghĩa’ là sự giải thích văn bản huyền khải và làm sáng tỏ nội dung minh triết bằng nhiều lối khác nhau (theo ý tác giả) mà không có những chú giải chi tiết theo thứ tự của bản văn (8), khác với các loại sách chú thích và chú giải (Chu-shu). Chú thích là giải thích chữ và câu và cắt nghĩa ý nghĩa từng câu văn. Chú giảichuyển đạt văn bản mà không đi vào chi tiết (9). Bản chú thích thường ngắn trong khi bản chú giải thì dài. Điều nầy được thấy rõ khi so sánh với tập ‘ Diệu Pháp Liên Hoa’ của Chu Tao sheng (10) (gồm có hai tập sách nhỏ) với ‘Fa-Yun (11) Pháp Hoa Kinh Y Chỉ’ (gồm tám tập sách nhỏ) như một thí dụ. Tập sách trước ngắn và tập sách sau (mặc dù mang tên là I-chi), nằm trong loại sách chú giải cho nên dài hơn.

Tác phẩm ‘Huyền Nghĩa’ của Trí Khải Đại Sư gồm có mười tập và phần chú giải kinh Pháp Hoa theo sau năm loạt phân tích gọi là ‘Ngũ Huyền’ như một hướng dẩn tổng quát. ‘Ngũ Huyền’ là cách sắp xếp riêng của Trí Khải Đại Sư để giải thích kinh Phật. Với phương tiện của ‘Ngũ Huyền’ Danh, Thể, Tông, Dụng, Giáo, sự chú giải không còn có tính cách thụ động theo văn bản từ phẩm kinh nầy sang phẩm kinh khác. Vượt bực hơn, sự chú giải được thực hiện theo cách thức trên và sự phát hiện của văn bản huyền khải cũng đã được trình bày bao quanh những đề mục nầy. Kết quả là tác phẩm Huyền Nghĩa của Trí Khải Đại Sư không hạn hẹp trong tầm kích của một bản văn nhằm giải thích một bản văn mà trở thành trung gian bày tỏ tư tưởng của Đại Sư. Thêm vào đó, Ngũ Huyền áp dụng cách chú giải kinh Pháp Hoahệ thống đối với cấu kết của chính văn mạch Huyền Nghĩa. Trong phạm vi Ngũ Huyền, một cấu trúc thuyết minh rộng lớn và đa dạng được phơi bày, nhắm thẳng vào văn bản Pháp Hoa. David Chappell cũng đã nói lên bóng dáng đặc thù của Huyền Nghĩa : ‘tác phẩm Huyền Nghĩa của Trí Khải Đại Sư hoàn toàntính cách thuyết minh và không theo từng phẩm kinh riêng biệt nào - là một định hướng chú giải thánh thư khác biệt từ những khảo sát nghiêm túc từng là những phương thức chiếm ưu thế thuộc Phật giáo nguyên thủy vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6 khi những mục tiêu chính là sự chính xác, nguyên bản và sâu sắc. (12)

Đường lối chú giải bản kinh Pháp Hoa không phải chỉ trình bày văn bản Pháp Hoa nhưng cũng là sự biểu thị một chân dung hàm súc về Phật học.

Sự chú giải kinh Pháp Hoa đã được hướng dẩn trong hệ thống xếp đặt quy củ của Trí Khải Đại Sư về giáo pháp của Thế Tôn. Điều đó nói lên rằng mỗi ý niệm Phật giáo được hiển minh trong bản văn đều dưới sự so đo cẩn trọng của Tứ Giáo ( Ssu Chiao). Vì thế, sự chú giải kinh Pháp Hoa thật sự là một sự diễn đạt quy mô tư tưởng đặc thù của Trí Khải Đại Sư. Cùng với những chú giải nầy, những nguyên lý và hệ thống Phật học khác nhau được liệt kêgiải thích, đưa tác phẩm Huyền Nghĩa vào toát yếu bách khoa Phật học. Tuy nhiên, giáo nghĩa và khái niệm Phật giáo được liệt kê như một phần luận giải kiểu mẩu hệ thống tư tưởng của Trí Khải, mở bày sắc thái quan điểm thâm huyền và ôm trọn một nguồn triết lý toàn hảo dung hòa. Với tư tưởng minh triết như vậy, người đọc không thấy có sự xung đột giữa sự vật và nguyên lý khác nhau. Tất cả hiện hữu đều tán trợ lẫn nhau. Hiện hữu không phải là những thực thể cá biệt loại trừ nhau. Nhìn nhận điều nầy và chối bỏ điều kia chỉ đưa đến kết quả phiến diện. Không những không có điều gì tách rời mà tất cả thực thể đã là nhau ở điểm cuối cùng. Tất cả thực thể hòa tan vào một nhưng đồng thời mỗi mỗi hiển bày bản sắc khác biệt của Sự Thật Tối Hậu. Triết thuyết nầy tựu hình vào Thực Tướng Trung Đạo ( Chung Tao- Shih Hsiang) (13) gồm ba lối nhìn Không, Giả, Trung (14). Không được nói đến như những hiện hữu ảo hóa, bởi vì tự căn bản sự vật tùy thuộc vào nhân và duyên. Giả mang đặc tính của sự vật từ góc cạnh của những thói quen, tập tục. Dù rằng sự vật chỉ là ảo ảnh, chúng không mang theo những danh xưng cố định và chỉ có mặt một cách tạm thời. Như Swanson đã viết :

‘Thế giới hiện tượng của chúng ta có những thực tại tạm bợ cảm nhận từ mối tương quan hợp nhất, tương sinh, tùy thuộc lẩn nhau của nhân và duyên’(15)

Trung Đạo nhận ra Không với Giả và ngược lại, vượt thoát cả hai quan điểm, nhưng cùng lúc bao gồm cả hai ( Shuang- Che Shuang Chao). Nền minh triết Trung Đạo nầy là một nhận thức toàn hảo trên tất cả nhận thức, có nghĩa rằng không giới hạn ở bất cứ quan điểm nào và cũng không bám vào bất cứ khái niệm cố định nào. Bất cứ hình thức suy tư thiếu linh động và có tính cách đặt để thì thế nào cũng cực đoan, phiến diện và không thể giúp con người đạt đến chân lý.

Mặc dù Trí Khải Đại Sư không phải là người đầu tiên sử dụng danh từ Thực Tướng (Shih Hsiang) hoặc Chân Lý Tối Thượng ( cũng như nhiều danh từ và ý tưởng khác mà Đại Sư đã dùng, lấy từ các bậc tiền bối hoặc từ kinh Phật), điều độc đáo là những danh tự nầy đã được Đại Sư thay đổi khuôn mẫu, xác định lại ý nghĩa, trở nên phong phú, toàn vẹn để có thể phù hợp vào hệ thống tư tưởng của mình. Qua những danh tự đó, tư tưởng của Đại Sư được chuyển đạt. Thêm vào đó, những danh tự nầy mang màu sắc tươi mát qua văn ngôn của Đại Sư, và trở thành phương tiện hình thành những khái niệm mới.

Cũng nên chú ý rằng danh tự Thực Tướng (True Mark) đầu tiên được Cưu Ma La Thập (Kumarujiva) sử dụng (16) qua bản phiên dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Danh tự nầy tương đương với từ Pháp Thân như là Pháp Tánh ( Fa Hsing) hoặc là Pháp Giới, như quốc độ của thực tại tối thượng. Danh tự nầy phơi bày lý nhân duyên (17). Pháp Thân trình bày nguyên lý, nguyên lý nầy chỉ rõ hình tướng chân thực của sự vật như nó là, bản tánh uyên nguyên, thực thể chân chính, khía cạnh thực tiển, và mang chân tướng của những hiện hữu bất biến, không bị hủy diệt, tự tạithường hằng. Vì thế, trong nền minh triết của Trí Khải Đại Sư, Sự Thật Tối Thượng hiện hữu trong tâm phơi bày trên sự vật - nổi bật nguyên lý của tất cả sự vật, nguyên lý đó bao gồm, giảm thiểu những khác biệt và nhận chân tất cả hiện hữu, trở thành tư tưởng thâm sâu, xác quyết, mang danh Trung Đạo. Sự cắm rể của đặc tính vô phân biệt và bao trùm tất cả của sự vật gắn liền vào Phật Thừa như chân lý độc nhất trong giáo pháp của Thế Tôn. Bản tính bất biến, không hủy diệt và thường hằng của Sự Thật được Trí Khải Đại Sư nhìn như Phật Tánh hiện hữu trong tất cả chúng sinh . Chân lý tối thượng như vùng đất của sự thật được Đại Sư làm nổi bật qua Thập Như ThịThập Pháp Giới. Với sự phong phú của danh tự Pháp Thân hiển bài, hình thành tư tưởng nồng cốt của Trí Khải Đại Sư : tất cả đầy đủ như một biểu thịhiển lộ chân lý, và chân lý chính là sự và lý của vạn vật.

Tư tưởng của Trí Khải Đại Sư qua tác phẩm Huyền Nghĩa

Kinh Pháp Hoa đã được chú giải dưới ánh sáng của chân lý Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. Nền minh triết nầy xác định bản chất bách khoa của tư tưởng Huyền Nghĩa, thu gồm toàn thể nguyên lý Phật giáo. Đây là tư tưởng tuyệt diệu, dung hòa của Đại Sư đưa đến lối nhìn thâm sâu tận cùng vạn hữu vượt trên biên giới hạn hẹp của những lối nhìn phiến diện. Đường hướng tư duy như vậy thật bao laphi thường, đánh thức năng lực vượt bực đưa cá thể vào vô hạn, bao trùm tất cả thực tại vũ trụ. Giáo thuyết của Đại Sư về Thập Như Thị đưa ra thực tánh Pháp Thân qua như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, và như thị bản mạc cứu cánh đẳng. Thập Như Thị được diển giải như đặc tính của Mười Pháp Giới (18) Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A tu la, Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật. Trí Khải Đại Sư dùng ý niệm về thập pháp giới và phát huy giáo thuyết rằng một pháp giới bao gồm mười pháp giới (Shih chieh Hu chu), cứ như thế thành hình một trăm pháp giới. Như vậy, một pháp giới nầy không những chỉ bao gồm pháp giới kia mà còn bao gồm Thập Như Thị, đưa đến ý niệm về một trăm pháp giới và một ngàn như thị ( P’ai fa chieh Ch’ien ju shih). Tánh bao la vô tận đã được liên tục nói đến từ bản kinh Pháp Hoa như Phật tánh bất khả tư nghì. Theo dấu Phật Tánh hiển bài trong Pháp Hoa, Trí Khải cho thấy rằng tư tưởng của Đại Sư là kết quả thực chứng của riêng mình. Ở đây, Donald Lopez nói :

‘ Nếu... để hiểu một bài viết, người ta phải kinh nghiệm diễn biến tư tưởng của tác giả, rồi từ đó các nhà chú giải bắt buộc trở nên sáng tỏ’ (19).

Bởi vì sự chú giải kinh bản của Trí Khải Đại Sư đặt căn bản trên cái nhìn quán chiếu vào kinh Pháp Hoa, đã phản ảnh sự khám phá thâm huyền của riêng Đại Sư về giáo pháp của Thế Tôn chứa đựng trong bản kinh. Với sự trực nhận giáo nghĩa Pháp Hoa, Đại Sư có thể đi vào một cách vô ngại toàn thể giáo lý Phật Đà một cách có hệ thống để từ đó nhiều lời dạy khác nhau của Thế Tôn thâm nhập vào nhau và trở nên tuôn chảy liên tục.

Không nghi ngờ rằng tác phẩm Huyền Nghĩa đã nổi bật trở thành một chú giải có uy thế bản kinh Pháp Hoa mặc dù cách thức lý giải của Đại Sư không bó buộc vào thứ tự văn từ của bản kinh.

Đặc tính phương thức chú giải của Trí Khải Đại Sư về kinh Pháp Hoa

Tác phẩm của Trí Khải Đại Sư mang bản sắc vượt ra ngoài khuôn sáo, chính văn, đầy tính chất sáng tạo và theo hệ thống. Lối giải thích vượt ngoài khuôn sáo có thể nhìn thấy qua cách thức chú nghĩa danh từ, thí dụ như danh từ San-mei ( là một chuyển dịch của danh từ samadi, có nghĩa là Chỉ). Trí Khải Đại Sư giải thích danh tự nầy theo nghĩa đen, có nghĩa rằng ‘ba mặt của bóng tối’, theo ý nghĩa của chữ Hán. ‘Bóng tối’ được Đại Sư miêu tả như quán chiếu, và ‘ba mặt’ là Tam Đế: Không, Giả và Trung. Sự hoàn thành ‘San-mei’ vì vậy nối liền ba cách quán chiếu về Không, Giả và Trung Đạo. Khía cạnh sáng tạo và chính văn phần nào phản ảnh năm loại phân tích cửa Trí Khải. Sau cùng, Tứ Giáo (Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo) phân chia giáo nghĩa Thế Tôn vào mục lục có thể nhìn thấy như những thành phần chính hình thành cách thức chú giảihệ thống của Đại Sư. Ý vị hơn, qua tác phẩm Huyền Nghĩa, Tứ Giáo được áp dụng để phân định từng phần chú giải bản kinh Pháp Hoa. Một thí dụ điển hình khác là phần lớn sự chú giải từ tác phẩm Huyền Nghĩa liên quan đến ‘Tích Môn Thập Diệu’ (20).

Bởi vì có quá nhiều khái niệm và lý thuyết Phật học đan kết trong cách lý giải bản kinh Pháp Hoa, những lý thuyết và khái niệm nầy cũng được phân chiahệ thống theo Tứ Giáo. Thí dụ giáo thuyết Mười Hai Nhân DuyênTứ Diệu Đế thuộc Phật giáo truyền thống được khai triển vào bốn loại Mười Hai Nhân Duyên ( như là mười hai nhân duyên của sinh diệt...) (21) và bốn loại Tứ Diệu Đế ( như là Tứ Đế của sinh và diệt, của vô sinh, của vô lượng, và của vô công dụng...) (22) trình bày bốn trình độ thông đạt từ hai học thuyết nầy.(23)

Ảnh hưởng lớn từ tư tưởng Trí Khải Đại Sư

Từ những nhận thức trên, hiển nhiên rằng với hệ thống tư tưởng của Trí Khải Đại Sư qua tác phẩm Huyền Nghĩa, khái niệm Phật học đã chuyển hình và tái lập vóc dáng. Điều nầy đã tạo ra một xung đột lớn trong sự phát triển Phật giáo Trung Hoa. Với cách chú giải đầy tính sáng tạo, phản ảnh nhận thức luận của người Trung Hoa như vậy, Phật giáo Ấn Độ không còn thuần túy sắc thái người Ấn nhưng đã biến thể thành Phật giáo của người Trung quốc. Điều nầy cho chúng ta thấy bằng cách nào trung tâm Phật giáo Trung Quốc đầu tiên - Phật học Thiên Thai Tông được thành lập. Theo định nghĩa của T’ang Yung T’ung, một tông phái được thành hình cần phải hội đủ ba tiêu chuẩn :

(I)Tông phái phải có hệ thống giáo nghĩa riêng. (II) Tông phái gắn liền vào học thuyết của riêng mình phải vượt trội những học thuyết khác. (III) Phải tuyên ngôn rằng tông phái mình có gia thống riêng (24). Theo định nghĩa nầy, Thiên Thai Tông được nhìn nhận là trường phái Phật học đầu tiên có thể được gọi đặc biệtPhật giáo Trung Hoa. Mặc dù tông phái Tam Luận (San Lun) có sớm hơn tông Thiên Thai, nhưng tông phái nầy đã không thoát ra được truyền thống Ấn Độ và đã không thành lập được hệ thống tư tưởng của riêng mình. Vì lý do nầy, Tam Luận Tông đã không thể tồn tại dài lâu trước khi phai tàn (25). Nhìn lại sự kiện triết lý Trung QuánTam Luận Tông gắn liền đã được đồng hóa vào Phật học Thiên Thai Tông qua học thuyết Tam Đế của Trí Khải Đại Sư, và khía cạnh thực tiển của sự gieo trồng về thiền quántrí tuệ mà các bậc tôn túc của Tam Luận Tông nắm giữ cũng đã bị hút vào học thuyết Chỉ và Quán của Trí Khải Đại Sư. Chúng ta có thể đồng ý với cái nhìn chung ở Trung Hoa rằng Thiên Thai Tông có thể chiếm vị thế như là trường phái Phật học Trung quốc đầu tiên. Fang Litian đã đi xa hơn khi chỉ công nhận bốn tông phái: Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Pháp Tướng Tông, và Thiền Tông trong giai đoạn triều đại nhà Tùy và nhà Đường như những tông phái Phật giáo Trung Hoa có đầy đủ tư cách, thấy rằng lý thuyếtgiáo lý của bốn tông phái nầy đã tạo ra những va chạm sâu rộng vào ý thức hệ Trung Hoa. Một cách đương nhiên, Fang Litian đã tuyên bố một cách khẳng định rằng Thiên Thai Tôngtông phái Phật giáo sớm nhất cũng như quan trọng nhất vào triều đại nhà Tùy ở Trung Hoa (26). Ba tông phái còn lại đã phát triển chậm hơn vào đời Đường. Với Hoa Nghiêm Tông, người sáng lậpHiền Thủ (Tu-Shun, 557- 640), nhưng nền tảng thật sự của tông phái nầy quy vào Pháp Tạng ( Fa Tsang, 643-712), là người đã hệ thống hóa giáo lý Hoa Nghiêm Tông vào đời Đường (27). Với tông phái Pháp Tướng, người sáng lập thật sự là Huyền Tông ( Hsuan Tsang, 660- 664) vào đời Đường (28). Với tông phái Thiền, mặc dù vị sơ tổBồ Đề Đạt Ma, người đến Trung quốc vào đời nhà Lương, khoảng năm 526, giáo pháp của tông phái nầy đã không được phát huy cho đến đời Đường với vị tổ thứ sáu là Huệ Năng (638-713) (29). Tiến trình thay hình đổi dạng tràn đầy ý thức hệ Trung Hoa sẽ được thảo luậnđề mục thứ hai, phần I. Ngũ Huyền (hoặc năm loại phân tích) Trí Khải Đại Sư phát minh đã trở nên một trong những tiêu chuẩn chú giải kinh Phật được sử dụng khắp nơi. Ý vị hơn, bắt đầu từ Trí Khải Đại Sư, hệ thống phân loại giáo pháp (P’an Chiao) đã trở thành nguyên lý nền tảng đưa đến sự thành hình nhiều tông phái Phật giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản.(30)

Đến đây, cần nhìn lại lịch sử Trung Hoa từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ sáu. Giai đoạn lịch sử từ đời Ngụy (220-265), Tấn (265-420), Nam Triều (420-589), Bắc Triều ( 386-581) rất mê hoặc. Đó là giai đoạn những kẻ trí thứchọc giả trong nước dấn thân vào những đề tài về bản chất của thực thể (Pen) và hiện tượng(Mo). Điều nầy phản ảnh sự khao khát tư tưởng và suy tư mới nhằm mục đích vẽ một bức tranh sâu sắc về thế giới hiện tượng dưới hình thức những luận đàm Huyền Học ( Hsuan- Hsueh) (31), và tìm kiếm một sự hợp lý để có thể giải quyết những vấn đề ứ đọng trong lảnh vực lý thuyếtthực hành trong thế giới Phật học miền Nam và miền Bắc Trung quốc. Truyền thống phát biểu tư tưởng của người Trung Hoa bằng cách dẩn chứng tư tưởng cổ điển từ Khổng giáoLão giáo chiếm ưu thế, đặc biệt vào giai đoạn nầy. Toàn thể lối nhìn khác nhau từ học thuyết Lão, Trang là những điển hình của huyền học suốt triều đại nhà Ngụy và Tấn cũng như Nam, Bắc triều. Hẳn nhiên, Trí Khải Đại Sư cũng đã theo truyền thống nầy, như trong hai phần chú giải kinh Pháp Hoa. Tuy nhiên, Huyền Nghĩa không chỉ là một tác phẩm chú giải mà còn là một sự diễn đạt truyền thống tư tưởng của Đại Sư. Ando Toshio đã tán thán bước tiến của Trí Khải Đại Sư khi nói rằng :

Nếu ba việc lớn của tông Thiên Thai được xem như là việc chú giải kinh Pháp Hoa, người ta có thể nhìn lại một cách tường tận rằng kinh Pháp Hoa là một bản chú thích tư tưởng cội nguồn của Trí Khải Đại Sư’ (32).

Hẳn nhiên, cách chú giải vượt ngoài những khuôn sáo như thế phản ảnh khuynh hướng thời đại của Trí Khải Đại Sư, hoặc trong trường hợp của những tác phẩm Huyền Học, hoặc trong Bát Nhã, hoặc từ những bài thuyết giảng những bản kinh Phật (tạo ra những truyền thống truyền khẩu) (33).

Trường hợp đầu tiên, những luận đàm về Huyền Học có thể thấy được từ những ý tưởng khác nhau được trình bày qua những chú thích về Lão TửTrang Tử, một lề lối đã tồn tại nhiều thế kỷ. Nói tóm lại, Huyền Học đã đi qua ba giai đoạn, (I) Wang Pi (34) người đại diện giai đoạn đầu tiên, đặt giá trị trên ý niệm Hư Vô (Wu), tương đương với Đạo (Tao) thuộc Lão Tử, nguồn gốc của vũ trụ nơi vạn vật thành hình. Đạo thì vô vi và chỉ lộ bày qua hiện hữu (35) - như sự vật đang có mặt. Hư Vô là yếu tính của mọi sự mọi vật trong thế giới hiện tượng. Tất cả những phức tạp phải được cai quản bởi vị chúa tể (tương đương với Hư Vô trong hệ thống tư tưởng Wang Pi), và tất cả những cái động được điều chế bởi sự tĩnh lặng.(36) (ÌI) Giai đoạn thứ hai của Huyền Học do P’ei Wei làm đại biểu (37) ,là người chủ trương trái ngược với sự nhấn mạnh vào hư vô của Wang Pi, bênh vực cho Hữu Thể (Yu). Trong học thuyết của ông, mục tiêu cuối cùng của Lão Tử là nói lên Hữu, mặc dù Lão Tử nói đến Vô. (III) Giai đoạn thứ ba được đại diện bởi Kuo Hsiang (38), đã dựa vào nền tảng của những nhà tư tưởng đi trước, đặt một gạch nối giữa Hữu và Vô, và đi đến triết thuyết hòa giải Hữu và Vô. Quách Tượng (Kuo Hsiang) biện minh cho học thuyết của mình bằng lối giải thích rằng ngay cả trong hệ thống tư tưởng Wang Pi, Vô được xem trọng nhưng Hữu cũng không thể bị bỏ qua, bởi vì Vô không thể biểu lộ chính nó mà không cần có cái dụng của Hữu. Vô có thể được nhìn như hướng thượng hơn là Hữu, nhưng vấn đềcần phải hòa giải cả hai. Điều nầy nói lên rằng bằng cách đặt một giá trị cho Vô, giá trị của cả hai đã được xác định. Học thuyết hòa giải giữa Hữu và Vô (39) đại diện cho giai đoạn thứ ba của Huyền Học. Như một kết quả của sự hòa giải nầy, từ ngữ Minh Giáo (Ming Chiao- dấu hiệu đạo đức Khổng Tử ) trở thành đồng nghĩa với từ Tự Nhiên (Tzu jan- thuộc học thuyết của Lão Tử).

Thứ hai, học thuyết Bát Nhã (Prajna), liên quan đến bản kinh Bát Nhã, đã được giải thích trong ánh sáng của đạo học Lão, Trang. Như một sự tìm kiếm về bản thể học giữa Hữu và Vô đã quá thịnh hành trong Huyền Học, những luận đàm về Bát Nhã cũng bị va chạm bởi sự nhiệt thành nầy (40). Cái được gọi như là Lục Gia và Thất Tông (Liu Chia Ch’i Tsung) trong bình luận về Bát Nhã chỉ rõ ảnh hưởng của Huyền Học. Sáu Nhà và Bảy Tông có ý nói đến sáu trường phái được phân chia thành bảy khuynh hướng chú giải kinh Đại Bát Nhã. Khuynh hướng đầu tiên là Pen wu Tsung (trường phái nguyên thùy Vô). Khuynh hướng thứ nhì là Pen-wu i Tsung( trường phái nguyên thủy Hư Không), khuynh hướng thứ ba là Chi se Tsung (trường phái Như Thực) , khuynh hướng thứ tư là Shih han Tsung ( trường phái chỉ có Thức), khuynh hướng thứ năm là Huan hua Tsung ( trường phái huyễn hóa), khuynh hướng thứ sáu là Hsin wu Tsung(trường phái Tâm không hiện hữu) và khuynh hướng cuối cùng là Yuan hui Tsung(trường phái chuyển hóa duyên ) (41) . Những khuynh hướng nầy đặt căn bản trên những ý tưởng giải thích khác nhau về Không (Sunyata) nhưng cùng quy hướng về đề tài thuộc bản thể học về tánh và tướng hoặc hữu và vô (42).

Trong số những khuynh hướng nầy, những trường phái có ảnh hưởng mạnh nhất là : (I) trường phái Bản Vô (Pen Wu), là học thuyết của Đạo An (Tao- an), (II) Tâm Không Tông (Hsin-wu) (43) and (III) Như Thực Tông (Chi se), người đại diện là Chih Tao- lin (44) . Điểm hy hữu là ba trường phái nầy hầu như song song với ba nguồn suối tư tưởng lớn trong Huyền Học đã nói ở phần trên do Wang Pi, P’ei Wei và Kuo Hsiang đưa ra : (I) học thuyết Bản Vô tương quan với Wang Pi về Hư Vô, xem trọng thể tánh và coi nhẹ hiện tượng, (II) học thuyết Tâm Không liên quan với P’ei Wei về Hữu Thể, bênh vực hiện tượng,(III) Học thuyết Như Thực tương quan với Kuo Hsiang về tính tự biến hóa, cố gắng phối hợp hai quan điểm khác nhau và xác định sự ràng buộc giữa tánh và tướng.(45)

Thứ ba, giảng thuyết về những văn bản Phật giáo (được biết như truyền thống truyền khẩu) phản chiếu trong những bài chú giải kinh Phật thì thường thường pha trộn với ý tưởng của người chú giải. Trong các bài thuyết giảng nầy, các bậc tôn đức Phật giáo cân nhắc những ý tưởng và khái niệm trong kinh Phật với những suy tư hiểu biết của riêng họ. T’ang Yung T’ung nói về điều nầy như sau:

Các bậc thầy Trung quốc rút ý tưởng của họ ra từ kinh Phật và thành lập những khái niệm của riêng mình ... Khi thuyết kinh, họ thường giữ vững ý tưởng của riêng họ.’ (46)

Từ trường hợp của Huyền HọcBát Nhã, chúng ta có thể xem lại lịch sử và thấy rằng chiều hướng hòa giải những ý kiến khác biệt lúc nào cũng mạnh mẽ trong văn hóa Trung Hoa (47). Hiểu về lai lịch, thấy rằng khái niệm Không khai nguồn từ khái niệm Vô, là khái niệm có ưu thế trong nhận thức luận Trung Hoa. Nếu phương pháp phân loại (có thể ưa lối nhìn chủ quan) là cách thức viết lịch sử thuộc truyền thống, theo những biến cố niên đại và lịch trình khác nhau, đối với Trí Khải Đại Sư, phương pháp nầy lại vô cùng thích hợp để giải quyết những tranh luận, vì vậy Đại Sư đã sử dụng như một đường lối uyển chuyển để phối hợp tất cả những cách nhìn khác nhau. Bằng cách đưa ra nhiều quan điểm trong những đề mục khác biệt, sẽ không còn những xung đột giữa những quan điểm nầy. Đây là một trong những thành đạt lớn của Trí Khải Đại Sư, hệ thống phân chia của Đại Sư đã tạo ra đặc tính nền tảng về sự kết hợp những tín giải khác nhau (syncretism) trong nền minh triết của Đại Sư. Đặc tính kết hợp những tín giải khác nhau là điểm cao nhất trong chiều hướng áp đặt tư tưởng của người Trung Quốc vào giáo dục nước ngoài, để từ đó nhận thức luận của ngoại nhân có thể được đồng hóa với nhận thức luận của người Trung Hoa. Đó cũng là cực điểm trong chiều hướng hòa giải những quan điểm trái nghịch. Chúng ta cũng nên chú ý rằng sự xuất hiện của cao điểm nầy đã đánh dấu bước đầu của Phật giáo Trung Hoa là kết quả của nhu cầu cấp bách vào giai đoạn nầy.

Vào thời của Trí Khải Đại Sư, đối mặt với vô số kinh sách, chú giảibình luận khác nhau, sinh ra một nhu cầu khẩn cấp cần sự hướng đạo thâm sâu để có thể bơi qua những biện luận với mục đích có được một bức tranh rõ ràng cái gì thật sự là chủ đề của giáo pháp Phật. Chỉ khi nào hoài bảo thật sự của Thế Tôn được nắm vững thì những tranh luận trên những nguyên lý Phật giáo mới được giải quyết. Đó chính là Trí Khải, người đã đến giữa quang cảnh như thế ấy để hoàn thành sứ mạng vĩ đại nầy. Đại Sư đã lựa chọn một cách thích đáng bản kinh Diệu Pháp Liên Hoa như một giáo pháp siêu việt, bởi vì bản chất hòa hợp của bản kinh có thể phối hợp tất cả những tông phái Phật giáo, và nói lên tính cách bình đẳng của tất cả chúng sinh. Yếu tính của tông Thiên Thai được phơi bày qua bản kinh nầy với sự chú giải độc đáo của Trí Khải Đại Sư. Khi những khái niệm và nguyên lý trong Phật giáo Ấn Độ được thay khuôn, đổi mẩu, xác định và phân chia lại với nhận thức luận của dân tộc Trung Hoa qua hệ thống tư tưởng của Đại Sư, những nguyên lý nầy trở nên đặc thù thuộc Trung quốc, thành hình những sắc thái chính của Phật học Trung Hoa. Vì thế, Trí Khải Đại Sư xứng đáng được gọi là một trong những bậc thầy lớn nhất trong Phật giáo Trung Hoa, là người đã cống hiến lớn lao đối với Phật giáo Trung quốc đưa đến sự phát triển rực rỡ vào triều đại nhà Đường.

Không phải là một sự ngẫu nhiênTrí Khải Đại Sư đã dâng hiến tài năng kỳ diệu vào Phật giáo Trung Hoa. Như một nhà kết hợp vĩ đại, Đại Sư đã gắn liền với Nhất Thừa đến đổi không còn có một sự phân biệt nào giữa Thanh Văn thừa (Sravakayana) và Đại Thừa (Mahayana). Đại Sư đã làm theo thể thức Phán Giáo (P’an Chiao) là cách hệ thống hóa toàn hảo nguyên lý Phật Đà. Không cần biết đó là một sự kiện lịch sử hay là một sự tạo ra có tính cách thần thoại, sự mô tả lại những điềm lành vào ngày Trí Khải Đại Sư sinh ra, có ý ám chỉ rằng số mạng tiền định của Đại Sư là một bậc thầy Phật giáo vĩ đại, và tuệ nhãn của Đại Sư trong suốt thời kỳ tu tập vào những ngày còn trẻ đã đưa ra những dấu hiệu báo trước rằng chính Đại Sư là người được định phận hòa đồng những khác biệt trong thế giới Phật giáo. Căn bản học vấn, tài năng, kinh nghiệm thiền quán, kiến thứctrí tuệ tạo cho Đại Sư khả năng thực hiện đúng hệ thống tư tưởng của riêng mình, với hệ thống đó Đaị Sư đã hoàn thành việc kết hợp những quan điểm Phật giáo khác nhau. Trong sự thấu đạt của Trí Khải về chân lý, vạn vật là sự bày tỏ của Sự Thật Tối Thượng. Trong đường hướng nầy, Đại Sư cũng đã phối hợp tư tưởng Khổng giáoLão giáo vào Phật giáo (48).

Ý nghĩa kinh Diệu Pháp Liên Hoa
như một chọn lựa để diễn bày nền minh triết của Trí Khải Đại Sư

Lý do Trí Khải Đại Sư đã chọn kinh Pháp Hoa để lý giải và làm học thuyết nền tảng cho Thiên Thai tông rõ ràng có sự liên hệ với bản chất hòa đồng của kinh Pháp Hoa để có thể phối hợp tất cả sự phân chia của Phật giáo. Điều nầy có thể thấy trong giáo pháp về chúng sinh, xác định rằng mọi người đều có Phật tánh ( điều đó khiến cho mọi người đều có khả năng thành Phật). Tất cả những khác biệt của những hiện hữu có thể buộc trói lẩn nhau thì đã được làm vơi đi dưới một Phật thừa độc nhất. Như William Theodore de Bary đã nhận định: ‘ Với Trí Khải Đại Sư, kinh Phàp Hoa không chỉ đơn thuần là một bản văn lý thuyết nhưng cũng chính là một bản đồ đưa đến sự cứu rỗi xuyên qua tu tập’. (49)

Nói tóm lại, bản kinh làm đại biểu trước Ngài Cưu Ma La Thập là kinh Ma ha Bát Nhã Ba La Mật (Mahaprajnaparamitasutra) và kinh Duy ma Cật (Vimalakirtinirdesasutra), hướng về Không. Sau đó, kinh Pháp HoaĐại Bát Niết Bàn là hai bản kinhảnh hưởng lớn, chỉ thẳng vào Phật thừaPhật tánh, chuyển đạt lối nhìn về hiện hữu trong mối tương quan lẩn nhau. Thật sự, kinh Pháp Hoa theo cùng với kinh Bát Nhã đã được phiên dịch sớm hơn, và kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa được dịch một khoảng thời gian ngắn sau đó, là ba nền tảng gìn giữ cột trụ kinh điển Phật giáo trong suốt thời đại khởi nguyên nhà Tấn, Bắc và Nam Triều (50).

Trí Khải Đại Sư đã tô đậm những nét độc nhất vô nhị của kinh Pháp Hoa bằng cách so sánh kinh Pháp Hoa với những kinh khác:

Tất cả những bản kinh khác nhau nầy nhắm mục đích cung ứng ý muốn của chúng sinh, đưa họ đến chỗ lợi ích. Những bản văn nầy không nói lên được bản hoài của Thế Tôn, và nơi mà bản hoài đó hướng về. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì không như vậy. Nhìn vào những học thuyết tô điểm hệ thống tư tưởng Phật Đà, phương pháp quán chiếu của Đại thừaTiểu thừa, Thập-lực và Tứ-vô-sở-úy của Phật, những quy luật và phong tục khác nhau của tôn giáo, kinh Pháp Hoa hoàn toàn không nói đến, bởi vì những điều trên đã được đề cập đến trong những bản kinh trước đó. Kinh Pháp Hoa chỉ nói về việc làm căn bản của giáo pháp Như Lai, làm cách nào đi đến giáo pháp đốn và tiệm trong sự trung dungcuối cùng tiến đến mục tiêu tối hậu bằng cách tiết lộ nguyên lý vĩ đại cứu rỗi vũ trụ. Kinh Pháp Hoa phơi bày rường cột những lời dạy của Phật và đưa ra những phương tiện thích hợpThế Tôn đã dùng để phổ độ chúng sinh (51).

Mou tsung-san cũng lập lại tính trác tuyệt của kinh Pháp Hoa trong đường hướng giống như quan điểm của Trí Khải Đại Sư. Sự tuyệt luân của bản kinh được chỉ rõ từ sự kiện bản kinh không liên hệ gì đến việc diễn đạt những học thuyết cố định, nhưng tạo lập sự dung hợp và giáo pháp tối hậu nhằm mục đích nói rõ ý định thật sự của Thế Tôn trong việc phổ độ chúng sinh với những lời dạy khác nhau. Mou Tsung-san đã nhìn bản tánh của tập thánh điển nầy như thuộc vào vị thế siêu việt (52). Điều nầy nói lên rằng kinh Pháp Hoa liên quan đến trí tuệchân lý. Muốn hiểu được chân lý trong bản kinh nầy, trước tiên chúng ta phải có kiến thức căn bản từ những kinh văn Phật giáo khác (53). Hurvitz cũng có cái nhìn tương tự khi ông chú giải thực tánh kinh Pháp Hoa. Ông nói rằng kinh Pháp Hoa nhận sự có mặt của giáo pháp Tiểu thừa ( Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Duyên Khởi, Thực Tính của vạn pháp, pháp hư dối của bản ngã, sự buông xã v.v...) và giáo pháp bình đẳng của Đại thừa ( pháp tánh như huyễn, Bồ tát đạo, lục độ v.v...) như thực tại tự nhiên (54). Ngắn gọn hơn, Kenneth Ch’en đã đưa ra một toát yếu về kinh Pháp Hoa như sau:

Kinh Pháp Hoa là một bản kinh phổ thông nhất ở Trung Hoa vì bản kinh nầy được tất cả các viện Phật họcTrung quốc học tập và đọc thuộc lòng, vì bản kinh chứa đựng văn mạch thâm sâu nhất từ sự cách mạng học thuyết Đại thừa về vị Phật bất tử và sự phổ độ, và cũng vì bản kinh nầy là cảm hứng nghệ thuật và tu tập Phật giáo từ một nghìn năm trăm năm qua ở Trung Hoa. Pháp Hoa nối liền với giáo pháp đầy năng lực, hoặc là một bản hòa tấu kỳ diệu, cuốn hút và làm con người chú ý vì biểu tượng đích thực, lộng lẫy, huyền ảo, so sánhẩn dụ’ (55).

Gene Geeves giải thích địa vị đầy ý nghĩa của kinh Pháp Hoa khi nói:

Nhiều người đã nghĩ rằng, kinh Pháp Hoa, đôi khi được gọi là bộ Tân Ước của Phật giáo, là bản kinh Phật giáo quan trọng nhất bởi vì bản kinh nầy bao gồm và tạo ý nghĩa cho tất cả những giáo pháp Phật giáo khác. Điều chúng ta có thể nói là kinh Pháp Hoa cực kỳ quan trọng ở Đông Á, thực sự nổi bật trong tất cả các học viện Phật giáo.

...Qua lịch sử Nhật Bản và Trung Hoa, kinh Pháp Hoa trác tuyệt trong tất cả các đề tài nghệ thuật. Tàng kinh nầy là nguyên tố phía sau thúc giục nhiều biến đổi cải thiện lớn lao về xã hội và chính trị’.(56)

Phụ chú về bản dịch kinh Pháp Hoa và những chú giải

Có sáu bản dịch kinh Pháp Hoa được thực hiện ở Trung Hoa, trong số đó, ba bản vẫn còn lưu hành. Đó là Cheng Fa Hua Ching (mười tập) của Chu-fa Hu (57) vào năm 286., Miao Fa Lien Hua Ching ( bảy tập) của ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) vào năm 406. (58), và T’ien Ping Miao fa lien hua Ching (tám tập) của Jnanagupta (59) và Dharmagupta (60) vào năm 601. (61) Tất cả ba bản dịch nầy hiện lưu trử tại văn phòng biên tập Taisho. Trong ba bản dịch nầy, hai bản đầu tiên đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo Trung quốc, nhưng bản dịch có ảnh hưởng mạnh và phổ thông nhất là ấn bản của ngài Cưu Ma La Thập, cũng là thuật tác mà Trí Khải Đại Sư đã lấy đó làm căn bản cho chú giải của Đại Sư. Điều nầy nói lên rằng ngài Cưu Ma La Thập không những chỉ dịch kinh Pháp Hoa mà còn cùng lúc chú thích bản kinh nầy.(62) Sau khi Cưu Ma La Thập hoàn tất thuật tác nầy, một người học trò là Seng-jui viết Fa Hua Ching Hou- hsu và một người học trò khác là Hui-kuan viết Fa hua Tsung-yao Hsu, cả hai trước tác nầy đều được ghi lại trong Ch’u San-tsang-chi Chi. (63) Trong số những đồ đệ, T’an-ying (64) và Hui-kuan chuyên chú giải và nghiên cứu kinh Pháp Hoa. Vị trước viết Fa hua i Shu (bốn tập) và vị sau chú giải kinh Pháp Hoa. (65) Mật ngữ của kinh Pháp Hoa được Seng-jui chỉ bày như ‘ kho tàng bí mật của chư Phật và là yếu tính của tất cả kinh điển’.(66)

Không phải ngẫu nhiênTrí Khải Đại Sư chọn bản thuật tác của ngài Cưu Ma La Thập. Như một trong số những dịch giả phong phú nhất đã diễn dịch kinh sách Phật trong lịch sử Trung Hoa, Cưu Ma La Thập (344-413) đã cống hiến lớn lao vào những bước đầu của Phật giáo Đại thừa ở Trung Hoa, đặc biệt học thuyết Trung quán (Madhyamaka) của Long Thọ Bồ Tát (Nagarjuna). Mặt khác, nhận thực bản chú dịch của ngài nổi bật, mang niềm an lạc tuôn chảy phản ảnh ưu tiên trong sự chuyên chở ý nghĩa như đối lập với cách phiên dịch tỉ mỉ từng chữ, những bản chú dịch của ngài về những chính văn mang hạt giống Đại thừa thường phổ thông hơn cả những bài phiên dịch khuôn đúc. Hơn nữa, sự nhấn mạnh của ngài Cưu Ma La Thập trên những học thuyết về chân lý tối thượng, Trung Đạo, tột cùng Không v.v... sau đó Trí Khải Đại Sư đã theo chân và trở thành rường cột diễn đạt tư tưởng của Đại Sư. Trong những bản dịch quan trọng nầy thiết yếu là sự thành hình những khái niệm nồng cốt được sử dụng trong tư tưởng của Đại Sư gồm có kinh Pháp Hoa là tàng kinh nói lên Phật thừa, (Mulamadhyamakakarika) biện luận sự bám chặt vào Không với cái nhìn Trung Đạo, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Mahaprajnaparamitasutra) là tàng kinh được nhìn như bộ sách bách khoa của Phật giáo Đại thừa, bộ kinh Duy Ma Cật (Vimilakirtinirdesasutra) thì liên quan đến sự chứng đắc giải thoát bất tư nghì của Bồ tát.

Có nhiều bản dịch kinh Pháp Hoa dưới dạng Anh ngữ đang lưu hành như những bản dịch của H. Kern, Saddharma-Pundarika hoặc The Lotus of the True Law: London, Clarendon Press, 1884; New York, Dover Publications, 1963; W.E. Soohill dịch The Lotus of the Wonderful Law hoặc The Lotus Gospel : Saddharma- Pundarika Sutra, Miao Fa Lien hua Ching, Oxford: Clarendon Press, 1930; NJ: Humanities Press, 1987. Bumo Kato dịch The Threefold Lotus Sutra: Innumerable Meanings, The Lotus Flower of the Wonderful Law, and Meditation on the Bodhisatva Universal Virtue, Tokyo: Kosei Publishing Company,1971,1975: Leon Hurvitz dịch Scripture of the Lotus Blossom of the Five Dharma, New York: Columbia University Press,1976; The Buddhist Text Translation Society dịch The Wonderful Dharma Lotus Flower Sutra với lời chú giải của Tripitaka Master Hua, San Francisco: Sino American Buddhist Association, Vol .1, 1976; Vol. 2, 1977; Vols. 3-5, 1979; Vols. 6-8, 1980; Vol. 9, 1981; Vol. 10, 1982; Senchu Murano dịch The Lotus Sutra: The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful Dharma, Tokyo: Nichiren Shu Shimbun, 1974, 1991; Tsugunari Kubo and Akira Yuyama dịch The Lotus Sutra: The White Lotus of the marvelous Law, Tokyo and Berkeley: BukkyoDendoKyokai and Numata Center for Buddhist Translation and Research, 1993; Burton Watson dịch The Lotus Sutra, New York, Columbia University Press, 1993.

Với những bản chú giải kinh Pháp Hoa trước thời Trí Khải Đại Sư, chúng ta đã nói đến bản chú giải Diệu Pháp Liên Hoa kinh (Miao Fa Lien Hua Ching Shu) của Tao-Sheng (hai tập) (67) . Tập chú giải nầy một phần là những bài thuyết giảng của ngài Cưu Ma La Thập về kinh Pháp Hoa được Tao-sheng ghi lại, một phần là tư tưởng của soạn giả, giải thích thực tánh của Nhất thừa đề xướng trong bản kinh. Nhất thừa gồm nhân và quả của Phật tánh. Bản chú giải thứ hai do Liu Ch’iu (68) soạn có tên là Vô Lượng Nghĩa Kinh ( Wu-liang I Ching Hsu) được ghi lại trong Ch’u san Tsang chi Chi. Bản nầy nói lên rằng sở dĩ những lời dạy khác nhau của Thế Tôn vì để thích hợp với những căn cơ khác biệt của chúng sinh. Bản chú giải cũng đưa ra sự phân biệt giữa những giáo pháp bất liễu nghĩa và liễu nghĩa. Lời dạy bất liễu nghĩa là phương pháp tiệm tu đưa hành giả bước vào giáo pháp liễu nghĩa như một đốn giáo đạt đến giải thoát. (69) Bản thứ ba là Fa Hua Ching I Chi (tám tập) do Fa Yun biên soạn, là bản chú giải sâu sắc và có ảnh hưởng lớn nhất về kinh Pháp Hoa trước Trí Khải Đại Sư. Trong bản chú giải nầy, Fa Yun giữ vững rằng kinh Pháp Hoa dạy Nhất thừa gồm nhân và quả, và tất cả các thừa khác đồng quy về Nhất thừa. Để chú giải tạng kinh Pháp Hoa, Fa- yun giải thích tên kinh, bàn luận nghĩa kinh, và chia bản kinh thành ba đề mục. Đề mục thứ nhất, Hsu Fen- là bài tựa nói về nhân duyên kinh ra đời. Đề mục thứ hai, Cheng tsung Fen- liên quan đến giáo pháp trọng yếu của kinh. Đề mục cuối cùng, Liu Tsung Fen là phần kết, đặc biệt tán thán công đức kinhdiễn tả chi tiết về phẩm chất đáng ca ngợihành giả có thể có được bằng tu tậptruyền đạt giáo pháp nầy. Sâu rộng hơn, Fa Yun cống hiến những giải thích thêm vào ý nghĩa mỗi phẩm kinh. Ngoài những bản chú giải kể trên, còn có những chú giải nổi tiếng vào giai đoạn sau Trí Khải Đại Sư, như những luận về Pháp Hoa Kinh ( Fa Hua Hsuan Lun, Fa Hua I Shu, Fa Hua Yu I), được Chi Tsang (70) biên soạn vào đời nhà Tùy, và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán (Miao Fa Lien Hua Ching Hsuan Tsan) K’ui Chi (71) biên soạn vào đời Đường. Tuy nhiên, tất cả những chú giải nầy chưa bao giờ tạo ra những tác động mãnh liệt như với hai bản chú giải của Trí Khải Đại Sư, đặc biệt tác phẩm Huyền Nghĩa. Ando Toshio đã so sánh những khảo luận về kinh Pháp Hoavô cùng tri ân sự thành tựu của Trí Khải Đại Sư như sau:

Cái học về kinh Pháp Hoa được Kuang Chai thực hiện thì được pha sắc bởi truyền thống Chân Tánh. Giả Tướng cũng không thể vượt qua giới hạn của truyền thống Tam Luận. Đến thời Tzu-en, học thuyết của ông bao phủ hơn bởi tông phái Pháp Tạng. Chất đề hồ thuần khiết nhất từ lời kinh Pháp Hoa vi diệu- sự siêu việt của Bát Giáo, là cái đã thấm vào tận nguồn tim, thì hẳn đã thành hình từ Trí Khải’.(72)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11634)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11958)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12556)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17975)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15338)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10604)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14838)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16571)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12664)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11844)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11947)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13044)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10299)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12188)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16609)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12214)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11473)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10681)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant