Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 1

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6087)
Quyển 1

KIM CƯƠNG BÁT NHÃ LUẬN
Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1510a, 2 quyển, Kim Cương Bát Nhã Luận ,
Vô Trước Bồ Tát tạo Tùy Đạt Ma Cấp Đa dịch
Nguyên Huệ Việt dịch

 

LUẬN KIM CƯƠNG BÁT NHÃ
QUYỂN 1

Xuất sinh pháp Phật không gì hơn
Hiển bày pháp giới là bậc nhất
Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp
Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
Tiểu Kim Cương Ba-la-mật nầy
Do tên như thế nêu uy lực
Bậc Trí đã thuyết giảng giáo, nghĩa
Nghe rồi chuyển vì chúng con nói.
Quy mạng hết thảy bậc Giác ngộ
Đều đem tâm chánh xin đảnh lễ
Con nên tinh tấn lập nghĩa ấy
Giải thích nối tiếp vì mình người.

Thành lập 7 thứ “Nghĩa cú” rồi, thì Bát-nhã Ba-la-mật ấy tức được thành lập. 7 Nghĩa cú là: 

1. Chủng tánh không dứt.
2. Phát khởi hành tướng.
3. Nêu trụ xứ của hành.
4. Đối trị.
5. Không lỗi.
6. Nêu địa.
7. Lập danh.

7 Nghĩa cú nầy, được thành lập từ trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, nên gọi là Nghĩa cú. Nơi 6 Nghĩa cú trước là hiển bày, chỉ rõ đối tượng hành tác rốt ráo của Bồ-tát. Nghĩa cú thứ 7 là nêu rõ việc thành lập pháp môn ấy. Nên nhận biết như thế. Bát-nhã Ba-la-mật nầy, vì Phật chủng không đoạn dứt nên lưu hành ở đời. Vì nhằm hiển bày về việc sẽ đạt được nghĩa Phật chủng không đoạn dứt ấy, nên Thượng tọa Tu-bồ-đề, ngay từ đầu đã nói: Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Vì sao Đức Như Lai đã dùng sự khéo gồm thâu bậc nhất để thâu nhận các vị Đại Bồ-tát hiện có v.v…? Ở đây, khéo gồm thâu: Nghĩa là các vị Bồ-tát đã thuần thục đối với lúc Phật chứng đắc Chánh giác, Chuyển pháp luân, đem năm thứ nghĩa hợp với pháp Bồ-tát mà kiến lập.

Phó chúc: Là các vị Bồ-tát đã được thâu nhận kia, ở nơi lúc Đức Phật Bát-Niết-bàn, cũng dùng năm nghĩa ấy để kiến lập như thế. Hai thứ khéo gồm thâu và phó chúc ấy là hiển bày về Chủng tánh không dứt. (Nghĩa cú thứ 1)

* Phát khởi hành tướng (Nghĩa cú thứ 2): Như kinh nêu: Bồ-tát làm thế nào nên trụ v.v…?

Bồ-tát nên trụ: Nghĩa là muốn nguyện.

Nên tu hành: Nghĩa là tương ưng với Tam-ma-bát-để (Chánh định).

Nên hàng phục tâm: Nghĩa là điều phục mọi tán loạn.

Ở đây, muốn là đang cầu. Nguyện là vì điều mong cầu nên tâm tư niệm.

Tương ưng với Tam-ma-bát-để: Là Tam-ma-đề (Tam-muội) không phân biệt.

Điều phục mọi tán loạn: Là nếu tâm Tam-ma-bát-để kia bị phân tán thì chế ngự khiến an trụ trở lại.

Câu thứ 1 là hiển bày về thâu giữ đạo. Câu thứ 2 là hiển bày về thành tựu đạo. Câu thứ 3 là làm rõ việc đạo không lỗi.

* Nêu trụ xứ của hành (Nghĩa cú thứ 3): Nghĩa là nêu rõ trụ xứ của việc phát khởi hành tướng kia. Ở đây lại có 18 thứ nên biết. Đó là:

1. Phát tâm.

2. Hành Ba-la-mật tương ưng.

3. Muốn được Sắc thân.

4. Muốn được Pháp thân.

5. Ở trong tu đạo đạt được pháp thù thắng không kiêu mạn.

6. Không lìa khi Phật xuất hiện.

7. Nguyện làm thanh tịnh cõi Phật.

8. Thành thục chúng sinh.

9. Xa lìa sự thuận theo nẻo tán loạn của ngoại luận.

10. Sắc thân cùng chúng sinh thân giữ lấy chỗ hợp với quán làm rõ hành tương ưng.

11. Cúng dường, hầu cận Như Lai.

12. Xa lìa mọi thứ lợi dưỡng cùng các thứ mệt nhọc thiếu thốn, bức bách khiến không khởi tinh tấn và thối chuyển.

13. Chịu khổ.

14. Lìa vị tịch tĩnh.

15. Nơi lúc chứng đạo, xa lìa mọi hỷ động.

16. Cầu được chỉ dạy, trao truyền.

17. Chứng đạo.

18. Trên là cầu đạt Phật địa.

Đó là 18 thứ trụ xứ. Trong ấy, Bồ-tát nên trụ như thế để hóa độ tất cả chúng sinh đạt đến Niết-bàn. Phát tâm rồi, ở trong các Ba-la-mật tu hành tương ưng. Vì nhằm đạt được Sắc thân cùng Pháp thân của Như Lai, nên phát sinh vui thích, mong muốn, nên xa lìa mọi chướng ngại nơi tâm trong chứng đạo. Đã lìa bỏ các thứ kiêu mạn, hỷ động v.v… nơi tâm rồi, vì chứng đạo nên cầu được chỉ dạy, khuyên bảo, sau đấy tất được chứng đạo. Từ đây trở lên đều là cầu đạt Phật địa. Thứ lớp ấy được nối tiếp như vậy, ở đây là phát tâm, nên kinh nêu: Bồ-tát ấy nên sinh tâm như thế v.v… Là hành Ba-la-mật tương ưng, nên kinh nêu: Bồ-tát không trụ nơi vật để hành bố thí v.v… Vì muốn đạt được Sắc thân, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào, có nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v…

Pháp thân lại có 2 thứ: 1. Pháp thân ngôn thuyết. 2. Pháp thân chứng đắc.

Pháp thân chứng đắc nầy cũng có 2 thứ: 1. Trí tướng. 2. Phước tướng.

Pháp thân ngôn thuyết: Nghĩa là như Tu-đa-la v.v… Vì muốn đạt được Pháp thân nầy, nên kinh nói: Thế Tôn! Như có chúng sinh nơi đời vị lai v.v…

Tưởng đối với nghĩa không điên đảo, đó là tưởng thật, nên biết theo như ngôn thuyết chấp nghĩa thì đấy không phải là tưởng thật.

Vì muốn đạt được Pháp thân trí tướng, nên kinh nêu: Có pháp để Như Lai chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng chăng? v.v… Vì muốn đạt được Pháp thân phước tướng, nên kinh nêu: Nếu nơi Tam thiên đại thiên thế giới nầy v.v…

Vì trong tu đạo được pháp thù thắng không kiêu mạn, nên kinh nêu: Tu-lô-đa-a-nhã-na-phả khởi suy niệm v.v…

Vì không hề lìa lúc Phật xuất thế, nên kinh nói: Có pháp để Như Lai, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng v.v…

Vì nguyện làm thanh tịnh cõi Phật, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Như có người nói như vầy: Như Lai đã thành tựu việc trang nghiêm quốc độ v.v…

Vì nhằm thành thục chúng sinh, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví nhưtrượng phu v.v…

Vì nhằm xa lìa việc thuận theo nẻo tán loạn của ngoại luận, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như số cát hiện có của sông Hằng Già, lại có từng ấy sông Hằng Già v.v…

Sắc thân cùng Chúng sinh thân luôn giữ lấy trung quán, làm rõ hành tương ưng, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Như số vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…

Vì nhằm cúng dường, hầu cận Như Lai, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng ba mươi hai tướng đại trượng phu để thấy Như Lai Ứng Chánh Biến Giác chăng? v.v…

xa lìa mọi lợi dưỡng, các thứ mệt nhọc, thiếu thốn bức bách, khiến đối với tinh tấn hoặc thối chuyển, hoặc không phát khởi, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu người nữ hoặc người nam xả bỏ Hằng già hà sa số thân v.v… Ở đây, thân có mệt mỏi, tâm có bức bách, do hai thứ ấy nên đối với tinh tấn kia, hoặc thối mất, hoặc không phát khởi.

Vì nhằm chịu khổ nên kinh nói: Nếu Như Lai hành Nhẫn Ba-la-mật v.v…

Vì nhằm lìa bỏ sự tham vị tịch tĩnh, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu người nữ hoặc người nam, đối với pháp môn nầy thọ trì v.v…

Vì nhằm vào lúc chứng đạo lìa bỏ mọi hỷ động, nên kinh nói: Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát nên trụ v.v…

Vì nhằm cầu được chỉ dạy, khuyên bảo, nên kinh nói: Có pháp nào để Như Lai, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng, đạt được Chánh giác về đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? v.v…

Vì nhằm chứng đạo, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví như người nam có thân cao lớn, đẹp đẽ v.v…

Ở đây, thân đẹp đẽ: Là thân đạt đến, thân thành tựu được chuyển y rốt ráo.

Thân cao lớn: Là thân gồm thâu tất cả thân chúng sinh.

Từ đây trở lên đều là cầu đạt Phật địa, nên biết Phật địa ấy lại có 6 thứ đầy đủ, gồm thâu chuyển y đầy đủ:

1. Quốc độ thanh tịnh đầy đủ.

2. Kiến trí thanh tịnh vô thượng đầy đủ.

3. Thân tùy hình hảo đầy đủ.

4. Tướng thân đầy đủ.

5. Ngữ đầy đủ.

6. Tâm đầy đủ.

Trong tâm đầy đủ nầy lại có niệm xứ, có chánh giác, có pháp lợi lớn được thiết lập, có sự thâu giữ lấy Pháp thân, có không trụ nơi sinh tử Niết-bàn, có hành trụ thanh tịnh, nên biết.

Nơi hành trụ thanh tịnh ấy, nên biết lại có hành trụ oai nghi, có hành trụ quán danh sắc tự tại, có hành trụ không nhiễm.

Trong hành trụ không nhiễm nầy, nên biết lại có: Thuyết pháp không nhiễm, lưu chuyển không nhiễm.

quốc độ thanh tịnh đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói như vầy: Ta làm trang nghiêm quốc độ, thành tựu v.v…

Vì kiến trí thanh tịnh vô thượng đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lainhục nhãn chăng? Cho đến: Như Tam thiên đại thiên thế giới nầy v.v…

Vì thân tùy hình hảo đầy đủ, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng sắc thân thành tựu để thấy Như Lai chăng? v.v…

Vì tướng thân đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v…

ngôn ngữ đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có khởi suy niệm: Ta đã thuyết pháp chăng? v.v…

Ở trong tâm đầy đủ, là niệm xứ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Phi chúng sinh, phi chẳng chúng sinh v.v…

chánh giác, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Từng có pháp để Như Lai đạt chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng?

thiết lập pháp lợi lớn, nên kinh nói: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Trong Tam thiên đại thiên thế giới, hiện có núi Tu-di v.v…

Vì nhằm thâu giữ lấy Pháp thân, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v… Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Như Lai có thể dùng tướng đầy đủ để đạt chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Chớ nên nghĩ như thế: Nghĩa nầy là làm rõ thể của tướng đầy đủ là “phi Bồ-đề”, cũng không dùng tướng đầy đủ làm nhân, do tướng là tự tánh của sắc.

Vì không trụ nơi Niết-bàn, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Người suy niệm như thế để phát khởi, hành thừa Bồ-tát, có pháp để nói đoạn dứt chăng? v.v…

Vì không trụ nơi lưu chuyển, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát ở nơi tụ phước, không nên thọ nhận, không nên chấp giữ v.v…

Thọ nhận: Là nói về có.

Chấp giữ: Là chấp giữ đạo kia.

Như tụ phước, cùng trong quả đều không nên chấp giữ.

Ở trong hành trụ thanh tịnh, vì hành trụ oai nghi, nên kinh nói: Nếu có người nói như vầy: Như Lai hoặc đã v.v…

Vì hành trụ quán danh sắc làm rõ tự tại, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như các thiện nam, thiện nữ đem số lượng vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…

Ở trong hành trụ không nhiễm, vì thuyết pháp không nhiễm, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như Bồ-tát đem vô lượng vô số thế giới v.v…

lưu chuyển không nhiễm, nên kinh nói:

Như sao, màng, đèn, huyễn

Sương, bọt, mộng, chớp, mây

Nơi các pháp hữu vi

Phải nên quán như thế.

Kệ nầy hiển bày 4 thứ tướng hữu vi. Đó là:

1. Tướng tự tánh.

2. Tướng tham vướng trụ nơi vị.

3. Tướng thuận theo lỗi lầm.

4. Tướng tùy thuận xuất ly.

+ Ở đây, tướng tự tánh: Là cộng tướng nơi kiến, thức. Tướng nầy như ánh sao, nên thấy như thế. Vì sao? Vì trong chỗ tăm tối của không trí thì có ánh sáng kia. Còn trong chỗ sáng tỏ của có trí thì không có ánh sáng ấy. Ngã kiến của người, pháp như “màng mắt nhặm”, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do chấp giữ lấy vô nghĩa. “Thức” như đèn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì khát ái thấm nhuần nơi thủ, duyên nên càng tỏ rõ.

+ Ở đây, tướng tham vướng trụ nơi vị: Là vị tham chấp về cảnh giới điên đảo. Tướng ấy như huyễn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do kiến điên đảo.

+ Ở đây, tướng thuận theo lỗi lầm: Là thuận theo như vô thường v.v… Tướng ấy được ví dụ như sương móc: Là hiển bày thể của tướng là không có, do thuận theo vô thường.

Tướng ấy được ví dụ như bọt nước: Là hiển bày sự thuận theo thể của khổ, do thọ như bọt nước, nên nếu có thọ đều là khổ, nên thuận theo Hữu. Nên biết khổ ấy là sinh, nên là khổ khổ. Hoại diệt nên là hoại khổ. Không cùng lìa nên là hành khổ.

Lại ở trong thiền thứ tư cùng vô sắc, lập thọ không khổ không lạc, cho là hơn hết.

+ Ở trong tướng tùy thuận xuất ly: Do tùy thuận người, pháp vô ngã để duyên dựa, nên được xuất ly, nên nói vô ngã dùng làm xuất ly.

Tùy thuận: Là các hành như quá khứ v.v… Dùng mộng v.v… để ví dụ, là hiển bày hành quá khứ kia. Do là xứ được nhớ nghĩ nên như mộng.

Hiện tại: Là thời gian trụ không lâu, nên như ánh chớp.

Vị lai: Là chủng tử thô ác kia giống như hư không, dẫn tâm xuất nên như mây. Như thế là nhận biết về hành của ba đời chuyển sinh rồi, tức thông tỏ về vô ngã. Đây là hiển bày tướng tùy thuận xuất ly.

Trụ xứ kia cùng tóm lược làm 8 thứ cũng được đầy đủ:

1. Trụ xứ gồm thâu.

2. Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh.

3. Trụ xứ dục.

4. Trụ xứ lìa chướng ngại.

5. Trụ xứ tâm tịnh.

6. Trụ xứ cứu cánh.

7. Trụ xứ rộng lớn.

8. Trụ xứ sâu xa.

Ở đây:

Trụ xứ gồm thâu: Nghĩa là phát tâm.

Trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh: Là hành Ba-la-mật tương ưng.

Trụ xứ dục: Là muốn đạt được Sắc thân, Pháp thân.

Trụ xứ lìa chướng ngại: Là mười hai thứ còn lại.

Trụ xứ tâm tịnh: Nghĩa là chứng đạo.

Trụ xứ cứu cánh: Là từ đây trở lên đều cầu đạt Phật địa.

Trụ xứ rộng lớn cùng sâu xa: Là chung cho hết thảy xứ.

Ở trong Trụ xứ thứ 1: Như nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có v.v… Đây là rộng lớn. Nếu lại nói: Hoặc Bồ-tát nơi chúng sinh tưởng chuyển v.v… Đây là sâu xa.

Trong Trụ xứ thứ 2: Như nói Bồ-tát không trụ nơi sự để hành bố thí v.v… Đây là sâu xa. Nếu lại nói: Tụ phước hiện có kia là không thể lường tính v.v… Đây là rộng lớn.

Như thế, ở trong các trụ xứ còn lại, nên biết là rộng lớn, sâu xa cùng theo chỗ tương ưng.

* Đã nói về Trụ xứ. Còn thế nào là Đối trị? (Nghĩa cú thứ 4)

Như vậy là hành tướng tương ưng kia, lúc hành các Trụ xứ, nên biết có 2 thứ đối trị: Là hành tà và hành chánh cùng kiến. Ở đây, kiến nghĩa là phân biệt.

Ở trong Trụ xứ thứ 1: Như nói Bồ-tát nên sinh tâm như thế nơi chúng sinh hiện có v.v… Đây là đối trị hành tà. Sinh tâm như thế là hành tà của Bồ-tát. Hoặc lại nói: Nếu Bồ-tát nơi chúng sinh tưởng chuyển v.v… Đây là đối trị hành chánh cùng kiến (phân biệt). Phân biệt chấp ấy nơi Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là “Ta nên khiến chúng sinh được diệt độ”.

Ở trong Trụ xứ thứ 2: Như nói: Nên hành bố thí. Đây là đối trị hành tà, không phải không bố thí là hành tà của Bồ-tát. Nếu lại nói: Trụ nơi sự v.v…, là đối trị hành chánh cùng kiến, vì phân biệt chấp ấy nơi Bồ-tát cũng nên đoạn trừ. Nghĩa là nên hành bố thí v.v…

* Thế nào là không lỗi? (Nghĩa cú thứ 5) Vì đã lìa hai biên. Thế nào là 2 biên? Là biên tăng ích và biên tổn giảm. Nếu ở trong sự vô ngã của pháp, mà chấp là không, là biên tổn giảm, do tụ phước kia không có tự tánh phân biệt. Hoặc lại nói: Thế nên Như Lai nói tụ phước. Đây là ngăn chận biên tổn giảm, do tụ phước kia không như ngôn từtự tánh, nhưng có sự để có thể nêu, do Như Lai nói tụ phước. Đây là được hiển thị như thế.

“Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy Như Lai nói là phi Phật pháp”: Đây là nhằm ngăn chận biên tăng ích.

Đó gọi là Phật pháp: Đây là nhằm ngăn chận biên tổn giảm.

Ở đây, Như Lai nói là phi Phật pháp: Là hiển bày nghĩa không chung.

Đó gọi là Phật pháp: Là hiển bày nghĩa tương ưng.

Thế nào là tương ưng? Nếu Phật pháp như nói có tự tánh, thì Như Lai không nói là Phật pháp, do tuy không nói, cũng tự nhận biết. Vì vậy không có tự tánhthế đế, nên Như Lai nói là Phật pháp. Như thế, nơi tất cả xứ đều hiển thị nghĩa không chung và tương ưng, nên biết.

Lại nữa, Phật pháp nên biết là gồm thâu sự Ba-la-mật cùng Bồ-đề phần pháp như niệm xứ v.v… Bồ-tát lìa hai biên nầy, nên ở nơi sự đối trị kia không còn có lỗi nữa, nên gọi là không lỗi.

* Thế nào là địa? (Nghĩa cú thứ 6) Địa nầy có 3 thứ: Là địa Tín hành, địa Tâm tịnh và địa Như Lai.

Ở đây, 16 Trụ xứ đã hiển bày địa Tín hành. Trụ xứ chứng đạo là địa Tâm tịnh. Trụ xứ cứu cánh là địa Như Lai.

* Thế nào là lập danh? (Nghĩa cú thứ 7) Gọi là kim cương năng đoạn: Tên gọi nầy có 2 nghĩa tương ưng, nên biết. Như nói hành nhập chánh kiến, hành nhập tà kiến.

Kim cương: Là vi tế, cứng chắc. Vi tế: Là nhân của trí. Cứng chắc: Là không thể hủy hoại.

Năng đoạn: Là đối tượng đoạn dứt của văn tu tư trong Bát-nhã (Trí tuệ) Ba-la-mật. Như xứ đoạn của kim cương mà đoạn dứt, nên gọi là kim cương năng đoạn.

Lại như vẽ hình kim cương, trước, sau là rộng, giữa thì hẹp. Như vậy, trong Bát-nhã Ba-la-mật, hẹp là địa Tâm tịnh. Đầu, sau rộng, là địa Tín hành, địa Như Lai. Đây là hiển bày nghĩa không chung. Nên biết năm thứ Nghĩa cú kia càng lên trên là càng nương dựa. Chúng đều nương dựa nơi địa, nên nói thân Tu-đa-la nối tiếp không dứt. Nghĩa cú nầy nay sẽ nói.

Đức Thế Tôn vì sao dùng oai nghi của tịch tĩnh mà an tọa? Là nhằm hiển thị người tịch tĩnh, đối với pháp mới có thể nhận biết, mới có thể thuyết giảng. Vì sao Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa hỏi? Có 6 nhân duyên:

1. Vì đoạn trừ nghi.

2. Vì dấy khởi tin, hiểu.

3. Vì hội nhập nghĩa thâm diệu.

4. Vì không thối chuyển.

5. Vì sinh hoan hỷ.

6. Vì khiến cho chánh pháp trụ lâu.

Tức là Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho Phật chủng không đoạn dứt. Vì sao do đấy khiến Phật chủng không đoạn dứt? Nếu có người nghi, tức được đoạn nghi. Các Bồ-tát có vui thích phước đức nhưng tâm chưa thành thục, nghe nhiều phước đức, nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật khởi tin, hiểu. Người tâm đã thành thục thì hội nhập nơi nghĩa thâm diệu. Người đã được không bị khinh thường, do tham thọ trì tu hành, do có nhiều công đức nên không còn thối chuyển. Người đã được thuận thâu cùng tâm tịnh, ở nơi pháp tự nhập và thấy rõ, sinh hoan hỷ. Nên có thể khiến nơi đời vị lai, giáo pháp Đại thừa được trụ lâu.

Nếu lược nói, thì người nghi khiến thấy rõ, nên tâm vui thích phước đức. Các Bồ-tát đã thành thục thì cùng thâu nhận. Kẻ đã được không bị khinh thường, khiến tâm tinh tấn. Người đã được tâm tịnh thì khiến hoan hỷ.

Các Bồ-tát có 7 thứ lớn, nên “Chúng sinh lớn” nầy gọi là Ma-ha Tát-đóa. Những gì là 7 thứ lớn? Đó là:

1. Pháp lớn.

2. Tâm lớn.

3. Tin hiểu lớn.

4. Tâm tịnh lớn.

5. Tư lương lớn.

6. Thời lớn.

7. Quả báo lớn.

Như trong phần Bồ-tát Địa Trì đã nói.

Kinh nói: Khéo gồm thâu bậc nhất. Khéo gồm thâu: Là ở nơi chỗ các Bồ-tát, cái gì là khéo gồm thâu, cái gì là bậc nhất? Lợi lạc tương ưng, là khéo gồm thâu bậc nhất. Nên biết có 6 thứ:

1. Thời.

2. Sai biệt.

3. Cao lớn.

4. Kiên cố.

5. Phổ biến.

6. Dị tướng.

+ Thế nào là thời? Là pháp hiện thấy cùng vị lai. Bồ-tát kia khéo gồm thâu. Lạc là pháp hiện thấy. Lợi là đời vị lai.

+ Thế nào là sai biệt? Đối với Tam-muội thế gianxuất thế gian, các bậc Thanh-văn, Độc-giác khéo gồm thâu, trong ấy có sai biệt.

+ Thế nào là cao lớn? Sự khéo gồm thâu nầy là vô thượng.

+ Thế nào là kiên cố? Nghĩa là rốt ráo, trọn vẹn.

+ Thế nào là phổ biến? Là tự nhiên đối với thân tự, tha khéo gồm thâu.

+ Thế nào là dị tướng? Tức ở trong chỗ các Bồ-tát chưa tịnh, khéo gồm thâu là hơn hết.

Kinh nói: Phó chúc bậc nhất.

Thế nào là phó chúc bậc nhất? Có 6 thứ nhân duyên:

1. Nhập xứ.

2. Được pháp như thế.

3. Chuyển giáo.

4. Không lỗi.

5. Bi.

6. Tôn trọng.

+ Thế nào là nhập xứ? Là ở nơi trụ xứ của thiện hữu, khéo phó chúc.

+ Thế nào là được pháp như thế? Là Bồ-tát đã được khéo gồm thâu, ở nơi trú xứ khác, cũng khéo gồm thâu pháp như thế.

+ Thế nào là chuyển giáo? Tức các vị ấy, đối với các Bồ-tát khác, phải nên khéo gồm thâu. Đó gọi là chuyển giáo.

Ba thứ nầy, theo như thứ lớp đó, tức là không lỗi. Cùng bi và tôn trọng, nên biết.

Do đâu chỉ hỏi về phát khởi hành? Vì Bồ-tát thừa là sự sai biệt của ba thứ Bồ-đề. Do khéo thưa hỏi, nên đối với Thượng tọa Tu-bồ-đề là đáng được khen ngợi: Lành thay!

Chúng sinh hiện cóchúng sinh đã được gồm thâu: Là nói về tướng chung.

Loài sinh từ trứng v.v…: Là nói về sai biệt.

Lại, thọ sinh, nương dựa, cảnh giới được gồm thâu có sai biệt, nên biết.

Cho đến loài hóa sinh: Là thọ sinh có sai biệt.

Hoặc có sắc, hoặc không sắc: Là nương dựa có sai biệt.

Hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, không phải không tưởng: Là cảnh giới được gồm thâu có sai biệt.

Giới chúng sinh hiện có, nêu đặt, an trụ, đã thiết lập rồi: Nghĩa là đủ các thứ tướng trên, trụ nơi cảnh giới chúng sinh, là do Phật thiết lập để thuyết giảng.

Ta đều khiến họ nhập Niết-bàn: Do đâu nguyện nầy, về nghĩa là không thể đạt được? Do thuộc về sinh nên không lỗi. Do đều là các loài sinh, như đã nói về các loài sinh từ trứng cùng nhập nơi nguyện số. Các loài sinh từ trứng, sinh từ ẩm thấp ấy là không tưởng cùng phi có tưởng, phi không tưởng v.v… tức là không thể. Vì sao có thể khiến cho tất cả chúng sinh nhập Niết-bàn? Có 3 nhân duyên: Sinh nơi xứ nạn: Là chờ thời. Sinh nơi xứ không nạn: Người chưa thành thục, thì khiến thành thục. Kẻ đã thành thục rồi thì khiến được giải thoát.

Do đâu nói cảnh giới Niết-bàn vô dư, mà không nói thẳng về Niết-bàn? Nếu như thế thì so với điều Đức Thế Tôn đã nói về Niết-bàn phương tiện như sơ thiền v.v…, là không khác. Kẻ kia tự dùng sức trượng phu, nên không Phật cũng đạt được, nhưng không rốt ráo.

Do đâu không nói cảnh giới Niết-bàn hữu dư? Là do quả chung kia nên tự cho do nơi túc nghiệp. Lại, gặp Phật thuyết giảng nên được quả. Lại, không phải thân hoàn toàn khổ là hữu dư. Như thế, Niết-bàn cùng Niết-bàn hữu dư, do là quả của sức trượng phu, nên là quả chung, không phải là quả cứu cánh, không phải là quả hoàn toàn. Do đó nói về vô dư.

Như thế, vô lượng chúng sinh nhập Niết-bàn rồi: Là hiển thị các chúng sinh như loài sinh từ trứng v.v…, mỗi mỗi thứ đều vô lượng.

Không có chúng sinh đắc Niết-bàn: Đây là nghĩa gì? Như Bồ-tát đạt được Niết-bàn không khác với chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát có tưởng chúng sinh chuyển, tức không gọi là Bồ-tát. Đây là nghĩa thế nào? Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh, ở chỗ tha tưởng chuyển, không phải là tưởng tự chứng, nên không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát khởi tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng nhân cùng chuyển, thì không gọi là Bồ-tát: Đây là nghĩa gì? Nếu dùng tâm phiền não giữ lấy tưởng chúng sinh, mạng, người cùng chuyển, thì Bồ-tát kia tức có tưởng ngã, cùng ở trong chúng sinh có tưởng chúng sinh chuyển. Bồ-tát đối với các pháp ấy không chuyển là do đã đoạn ngã kiến, nên được tự hành (Hành là hành của năm ấm) nơi tướng bình đẳng, nên tự, tha tin hiểu bình đẳng. Bồ-tát ấy không phải là chấp giữ kiến của chúng sinh, mạng, người: Đây là nghĩa đã được nói.

Lại nữa, kinh viết: Bồ-tát nên sinh tâm như vậy: Là hiển bày Bồ-tát nên trụ trong dục nguyện như thế.

Nếu Bồ-tát có tưởng ngã chuyển, không gọi là Bồ-tát: Là hiển thị nên tu hành như vậy, hợp với lúc tương ưng nơi Tam-muội.

Nếu tưởng chúng sinh, tưởng mạng, tưởng nhân cùng chuyển, không gọi là Bồ-tát: Là hiển thị nên hàng phục tâm như thế, hợp với lúc bị phân tán, tưởng chúng sinh cũng không chuyển, như nơi cảnh giới kia cùng trụ, do đấy không có chúng sinh đắc Niết-bàn.

Đây là thành tựu được dục nguyện ấy: Tức gồm thâu các trụ xứ là tối thắng, hình tướng tương ưng đó, lúc hành nơi trụ xứ khác, nương dựa vào dục nguyện nên quyết định đạt được. Nghĩa của dục nguyện nầy không giải thích nữa.

Từ đây trở về sau, trong các trụ xứ còn lại, nên biết có 5 thứ theo chỗ tương ưnggiải thích:

1. Dựa nơi nghĩa.

2. Nói về tướng.

3. Thâu giữ.

4. An lập.

5. Hiển hiện.

Trụ xứ – đối trị là nương dựa nơi nghĩa. Tức trụ xứ ấy là nói về tướng. Dục nguyện là thâu giữ. Trụ xứ đệ nhất nghĩaan lập. Tương ưng nơi Tam-ma-đề là hiển hiện.

Ở trong trụ xứ Ba-la-mật thanh tịnh, kinh nói: Bồ-tát không trụ nơi vật để hành bố thí v.v… Đây là nương dựa nơi nghĩa.

Hiển thị vật đối trị trụ chấp, nên kinh nêu: Nên hành thí. Đây là nói về tướng. Sáu Ba-la-mật, loại thứ nhất là gồm thâu thể tánh của tất cả Đàn na, nên Đàn na có 3 loại:

1. Tư sinh thí: Nghĩa là Bố thí Ba-la-mật.

2. Vô úy thí: Nghĩa là Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật.

3. Pháp thí: Nghĩa là Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền na Ba-la-mật, Bát la thận nhương (Trí tuệ) Ba-la-mật.

Nếu người thọ nhận pháp không tinh tấn, thì khi thực hiện việc thuyết pháp sẽ mệt mỏi, nên không thể thuyết pháp. Nếu không định, tức tham nơi sự tín kính, cúng dường, cùng không thể chịu đựng các thứ bức não như lạnh nóng, nên thuyết pháp với tâm nhiễm. Nếu khôngtrí tuệ liền thuyết pháp điên đảo, có nhiều lỗi lầm, nên không lìa 3 thứ ấy để thành tựu được pháp thí.

Các Ba-la-mật kia có 2 thứ quả: Là vị lai, hiện tại.

+ Quả vị lai: Là Bố thí Ba-la-mật được phước báo lớn. Trì giới Ba-la-mật được tự thân đầy đủ, nghĩa là Thích, Phạm v.v… Nhẫn nhục Ba-la-mật-đaït được bạn bè lớn trợ lực, được quyến thuộc đông đảo. Tinh tấn Ba-la-mật được quả báo cùng không đoạn dứt. Thiền na Ba-la-mật được sinh thân không thể tổn hoại. Trí tuệ Ba-la-mật được các căn nhạy bén, thông lợi, cùng các thứ vui thích, ở trong đại chúng luôn được tự tại.

+ Quả hiện tại: Được tất cả tín kính, cúng dường, cùng Niết-bàn của hiện pháp.

Ở đây, nếu Bồ-tát cầu quả vị lai nên hành thí, là trụ nơi vật để bố thí. Như nơi vật được thí, trở lại mong đạt được quả của vật ấy, vì vậy kinh nêu: Không trụ nơi vật để hành bố thí.

Nếu cầu quả vị lai như trì giới v.v…, nên hành thí, là có chỗ trụ để hành thí, do đấy, kinh viết: Nên không chỗ trụ để hành bố thí.

Quả như trì giới v.v… có rất nhiều, không thể phân biệt, nên gọi chung là có chỗ trụ.

Nếu cầu quả hiện tại như được tín kính, cúng dường v.v…, nên hành thí, là trụ nơi sắc thanh hương vị xúc để hành thí. Do đấy, kinh nói: Không trụ nơi sắc v.v…

Hoặc cầu Niết-bàn của hiện pháp nên hành thí, là trụ nơi pháp để hành thí, nên kinh viết: Không nên trụ nơi pháp để hành bố thí.

Lại, kinh nói: Nên hành bố thí: Tức nói về dục nguyện của việc thâu giữ thí. Kinh nêu: Không trụ để hành thí: Tức không trụ nầy là an lập đệ nhất nghĩa. Ở đây, do không trụ, nên hiển thị như sự hiện có nơi đệ nhất nghĩa. Không trụ nơi vật v.v…, là sự hiện có.

Kinh viết: Bồ-tát nên hành thí như thế, không trụ nơi tướng, tưởng: Đây là hiển thị: Tức tương ưng nơi Tam-muội cùng thâu giữ tâm tán loạn. Đối với hai thời nầy, không trụ nơi tướng, tưởng.

Như thế là kiến lập không trụ rồi, hoặc có Bồ-tát tham phước đức, nên ở đây không kham nhận. Vì khiến gắng nhận, nên Đức Thế Tôn đã hiển bày, chỉ rõ là không trụ để hành thí.

Tụ phước rất nhiều cũng như hư không, có 3 nhân duyên:

1. Hiện bày khắp tất cả xứ: Nghĩa là ở trong tướng trụ, không trụ, phước đều sinh khởi.

2. Rộng rãi, cao lớn, thù thắng.

3. Vô tận, cứu cánh không cùng.

Vì muốn đạt được trụ xứ của Sắc thân, nên kinh viết:: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nên dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị.

Nhằm đối trị kiêu mạn về Sắc thân Như Lai, nên kinh nói: Tướng đầy đủ. Đây là nói về tướng. Nhằm hiển thị về Sắc thân của Như Lai, nên Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa là: Không phải. Vì để thành tựu đầy đủ nghĩa nầy, nên Đức Thế Tôn nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tướng đầy đủ hiện có, chúng là hư giả, đây tức làm rõ về dục nguyện.

Ở trong nghĩa như thế nên thâu giữ, cùng tức là an lập đệ nhất nghĩa. Vì ở trong đệ nhất nghĩa, tướng đầy đủ là hư vọng, phi tướng đầy đủ là không hư vọng.

Kinh nói: Như thế, các tướng phi tương ưng là thấy Như Lai: Đây là hiển hiện. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội cùng lúc thâu giữ tâm tán loạn. Ở trong tướng ấy là phi tướng, kiến.

Vì muốn được trụ xứ của Pháp thân ngôn thuyết, nên kinh nói: Lại có chúng sinh nơi đời vị lai, đối với câu được nêu của kinh như thế v.v… Ở đây, câu được nêu của kinh: Tức là nghĩa hiện có, nên biết.

Thế nào là câu (cú)? Là như trên đã nói về 7 thứ Nghĩa cú.

Thượng tọa Tu-bồ-đề khởi suy niệm: Nơi đời vị lai không có người sinh thật tưởng: Vì nhằm ngăn chận điều ấy, nên Đức Thế Tôn nói: Có chánh pháp lúc sắp hoại diệt: Nghĩa là thời gian tu hành dần diệt, nên biết. Tiếp sau, Đức Thế Tôn, vì để hiển thị sự tu hành như thế, tập nhân như thế, thiện hữu đã thâu nhận như thế, gồm thâu phước đức tương ưng như thế, trong thật tưởng như thế sẽ có được tưởng thật, nên kinh nêu: Có giới, có công đức, có trí tuệ: Đây là ba học như giới tăng thượng v.v… Hiển thị về công đức tu hành, các công đức như thiểu dục v.v… là thứ nhất, cho đến Tam-ma-đề.

Kinh nói: Đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, cho đến nhất tâm tịnh tín v.v… Đây là hiển thị về tập nhân. Nhất tâm với niềm tin thanh tịnh, hãy còn đạt được nghiệp như thế, huống chi là sinh khởi tưởng thật.

Kinh nêu: Như Lai tất biết: Biết là danh thân. Như Lai tất thấy: Thấy là Sắc thân. Nghĩa là ở trong hết thảy hành trụ đã tạo tác, biết rõ về tâm, thấy rõ về chỗ nương dựa. Những thứ ấy là hiển thị về thiện hữu đã gồm thâu.

Kinh viết: Sinh giữ lấy vô lượng tụ phước: Đây là hiển thị việc gồm thâu phước đức. Sinh là lúc phước đang khởi. Giữ (thủ) lấy tức lúc phước kia đã diệt, nên thâu giữ chủng tử.

Kinh nói: Các Bồ-tát nầy không còn ngã tưởng, chúng sinh tưởng cùng chuyển, cho đến nói: Hoặc pháp tưởng cùng chuyển. Tức là có ngã chấp giữ: Đây là hiển thị về thật tưởng, đối trị năm thứ chấp giữ tà vạy. Những gì là 5 thứ chấp giữ tà vạy? Đó là:

1. Ngoại đạo.

2. Phàm phu cùng Thanh-văn của nội pháp.

3. Bồ-tát tăng thượng mạn.

4. Định cộng tưởng của thế gian.

5. Định vô tưởng.

+ Thứ 1: Là ngã v.v… tưởng chuyển.

+ Thứ 2: Là pháp tưởng chuyển.

+ Thứ 3: Là không pháp tưởng chuyển. Đây cũng có chấp giữ pháp. Có chấp giữ pháp: Nghĩa là chấp giữ về không pháp.

+ Thứ 4: Là có tưởng chuyển.

+ Thứ 5: Là vô tưởng chuyển.

Các Bồ-tát nầy, đối với các thứ kia đều không chuyển. Trong đó, hiển bày đầy đủ về có giới, cho đến sẽ sinh vô lượng tụ phước.

Kinh nêu: Vì sao? Ở đây nói là trong chấp giữ tà vạy, chỉ là pháp cùng phi pháp tưởng hợp chuyển, không phải ngã v.v… tưởng, do tưởng cùng chỗ nương dựa không chuyển. Nhưng ở trong ngã tưởng, tùy miên không đoạn, tức là có ngã chấp giữ. Thế nên kinh viết: Các Bồ-tát nầy, nếu khởi pháp tưởng, tức là có ngã chấp giữ. Nếu không pháp tưởng cùng chuyển, tức là có ngã chấp giữ. Trong ngã v.v… tưởng cùng chuyển ấy, các nghĩa khác vẫn chưa nói. Kinh nêu: Tức là có ngã chấp giữ: Ở đây là chấp giữ tự thể tương tụcngã tưởng. Đối tượng chấp giữ của ngã là chúng sinh tưởng. Nghĩa là ngã, cho đến thọ mạng chấp giữ là mạng tưởng. Lần lượt hướng đến các nẻo khác để chấp giữ, là nhân tưởng, nên biết. Ở đây nói sẽ sinh thật tưởng: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị tưởng không thật.

Nói ở trong câu được nêu của kinh: Đây là nói về tướng để hiển thị Pháp thân ngôn thuyết. Tức ở trong thật tưởng sẽ sinh kia, nói sẽ sinh: Là dục nguyện. Thâu giữ: Là các Bồ-tát không còn ngã – tưởng nữa. Chuyển v.v… là an lập đệ nhất nghĩa.

Tu-bồ-đề! Không nên chấp giữ nơi pháp, phi pháp: Là hiển bày rõ. Nghĩa là tương ưng nơi Tam-muội, cùng lúc thâu giữ tâm tán loạn.

Không nên chấp giữ nơi pháp, phi pháp: Là ở nơi thể của pháp cùng pháp vô ngã đều không phân biệt.

Lại, Pháp thân ngôn thuyết là nghĩa chính yếu. Kinh nói: Do nghĩa ấy nên Như Lai thường nói về pháp môn “Dụ như chiếc bè”. Nếu hiểu được điều đó, thì pháp hãy còn xả bỏ, huống chi là phi pháp: Là lý không thể không theo, nên lược nói để hiển thị: Bồ-tát muốn đạt được Pháp thân ngôn thuyết thì không nên tạo tưởng không thật. Vì muốn đạt được trí tướng, trụ xứ của Pháp thân chứng đắc, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có pháp để cho Như Lai ở trong đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đắc Chánh giác chăng?: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị ngược trở lại đối với Chánh giác Bồ-đề, nên người thuyết pháp là thuộc về Chánh giác.

Kinh nói: Có pháp để có thể nói là chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Đó là nói về tướng để hiển thị Pháp thân chứng đắc. Không có pháp cố định: Là Thượng tọa Tu-bồ-đề dẫn theo ý của Phật.

thế đế nên có Bồ-đề cùng sự chứng đắc, đó là dục nguyện được thâu giữ. Do phương tiện nên cả hai cùng là có.

Nếu như ý của Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì cả hai đều không có. Vì hiển bày điều ấy, nên nói: Như con hiểu về nghĩa của Đức Thế Tôn đã nói v.v…

Kinh nói: Vì sao Đức Như Lai đã nói pháp không thể chấp giữ, không thể nói, là phi pháp, phi phi pháp: Là an lập đệ nhất nghĩa.

Do thuyết pháp nên nhận biết đạt được Bồ-đề, tức ở trong pháp được thuyết giảng an lập đệ nhất nghĩa.

Ở đây, không thể chấp giữ: Nghĩa là lúc đang nghe.

Không thể nói: Nghĩa là lúc diễn thuyết.

Phi pháp: Là tánh phân biệt.

Phi phi pháp: Là pháp vô ngã.

Kinh viết: Vì sao do vô vi nên được gọi là Thánh nhân?

Vô vi: Là nghĩa không phân biệt. Thế nên, Bồ-tát hữu học được gọi là không khởi, không tạo tác, hợp với Như Lai chuyển y, gọi là thanh tịnh. Do đó, Như Lai được gọi là bậc vô học (Tu học hoàn tất).

Trong ấy, thứ nhất là nghĩa vô vi: Là Tam-muội tương ưng, cùng lúc điều phục tâm tán loạn được hiển bày rõ.

Thứ hai, vô vi chính là đệ nhất nghĩa: Là vô thượng giác.

Từ đây trở về sau, nên biết trong tất cả trụ xứ, đều hiển bày do vô vi nên được gọi là Thánh nhân.

Nơi những trụ xứ trước chưa nói về pháp được mang tên vô vi. Ở đây, trong đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đã nói về vô vi xong.

Trụ xứ của Pháp thân phước tướng, chứng đắc, làm thế nào để hiển thị? Tức ở nơi Pháp thân ngôn thuyết hiện có kia xuất sinh phước tướng của Như Lai. Pháp thân chứng đắc ở nơi ấy, cho đến chỉ nói một kệ bốn câu cũng sinh khởi phước rất nhiều, huống chi là Pháp thân chứng đắc, phước tướng hiện có của Như Lai.

Do nhân duyên nào, nên ở trong Pháp thân ngôn thuyết, nói một kệ bốn câu như vậy, có thể sinh nhiều phước? Vì để thành tựu nghĩa nầy nên kinh nói: Vì sao Đức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng từ đây xuất sinh?: Trong ấy, tích tập khắp mười pháp hành A-hàm, nên chư Phật Thế Tôn từ đấy sinh khởi. Là thế đế, nên nói Phật xuất sinh do có Bồ-đề, tức hai thứ ấy là cùng hợp, gọi là Phật pháp do Bồ-đề và Phật, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp. Lại nữa, kinh nêu: Phước kia đã được sinh là hơn hẳn nơi vô lượng A-tăng-kỳ ấy: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị phước không sinh. Trong đó, phước kia: Tức là nói về tướng để hiển thị Pháp thân phước tướng. Hơn hẳn nơi ấy: Là hiển thị dục nguyện được thâu giữ.

Kinh nói: Thế Tôn! Tụ phước ấy tức phi tụ phước, thế nên Như Lai nói là tụ phước. Cùng nói: Tu-bồ-đề! Phật pháp, Phật pháp ấy tức phi Phật pháp, đó gọi là Phật pháp: Do tụ phước nầy cùng với Phật pháp là chỗ thâu giữ Pháp thân phước tướng của Như Lai, hợp với việc an lập đệ nhất nghĩa. Vì tùy thuận vô vi nên được mang tên như thế. Tương ưng nơi Tam-muội cùng điều phục sự tán loạn, là không hiển bày lần nữa. Nói: Rất nhiều! Thưa Đức Bà-già-bà. Rất nhiều! Thưa Đức Tu-già-đà! Hai lời nầy là hiển thị thâu tóm tâm, giữ lấy tâm. Do thâu giữ tự tâm nên nói là thọ trì. Vì kẻ khác thuyết giảng, là giải thích cú vị. Vô lượngvượt quá thí dụ. A-tăng-kỳ là hiển bày số nhiều.

HẾT - QUYỂN 1

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32614)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11097)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30234)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12040)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12591)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34461)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10390)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10345)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12974)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21647)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12534)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16398)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11964)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16130)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11911)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14866)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20544)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14234)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17470)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13859)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11910)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant