Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7388)
Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng (32) 

Vào lúc bấy giờ, bồ tát Diệu tràng đích thân ở trước đức Thế tôn nghe diệu pháp Ngài nói, thì hoan hỷ, phấn chấn, nhất tâm tư duy, trở về chốn cũ. Trong đêm hôm ấy, bồ tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái dương. Trong ánh sáng ấy, bồ tát thấy được chư vị Thế tôn khắp mười phương hướng, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ tát lại thấy một vị Bà la môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn. Âm thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Bồ tát Diệu tràng nghe rồi nắm giữ tất cả trong ký ức, buộc trí nhớ lại như ở trước mắt. Trời sáng, bồ tát cùng với hàng trăm hàng ngàn người đem các cúng phẩm ra khỏi thành Vương xá, vào đỉnh Thứu phong, đến chỗ đức Thế tôn. Bồ tát đảnh lễ ngang chân của Ngài, sắp hương hoa ra, đi quanh Ngài ba vòng, lui lại ngồi một phía, chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong đêm vừa rồi, con mộng thấy một vị Bà la môn lấy tay cầm dùi, đánh một cái trống bằng hoàng kim, rất đẹp, xuất ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Nghe rồi, con nắm giữ trong trí tất cả. Kính xin đức Thế tôn đại từ đại bi, cho con tường thuật. Đối trước đức Thế tôn, bồ tát Diệu tràng nói những chỉnh cú sau đây.

(1) Đêm hôm vừa rồi 
trong mộng con thấy 
cái trống bằng vàng 
rất lớn và đẹp, 
khắp cả thân trống 
có ánh sáng vàng. 
(2) Như vầng thái dương
ánh sáng như vậy 
chiếu rực khắp cả 
mười phương thế giới
làm ai cũng thấy 
chư vị Thế tôn
(3) Dưới những cây ngọc, 
các Ngài cùng ngồi 
pháp tòa lưu ly
có hàng ngàn người 
rất mực cung kính 
bao quanh các Ngài. 
(4) Một bà la môn 
cầm dùi mà đánh 
trống vàng hoàng kim 
phát âm thanh lớn, 
và chính âm thanh 
phát từ trống ấy 
nói những chỉnh cú 
nhiệm mầu sau đây. 
(5) Trống vàng sáng rực 
phát ra tiếng mầu 
vang khắp tất cả 
đại thiên thế giới
diệt tội cực nặng 
trong ba đường ác 
cùng bao khổ ách
của trong nhân loại
(6) Uy lực âm thanh 
của trống vàng này 
diệt hẳn hết thảy 
phiền não chướng ngại 
loại trừ sợ hãi 
làm cho yên vui, 
in như chính đấng 
Mâu ni tự tại
(7) Chính trong cái nơi 
biển cả sống chết
Thế tôn tu hành 
thành trí toàn giác
làm cho chúng sinh 
đủ các giác phần
cứu cánh qui về 
biển cả công đức
(8) Trống vàng xuất ra 
âm thanh mầu nhiệm 
người nghe cùng được 
phạn âm thâm thúy
và rồi chứng được 
vô thượng bồ đề
thường chuyển pháp luân 
trong sáng nhiệm mầu. 
(9) Lại được thọ lượng 
bất khả tư nghị
tùy nghi thuyết pháp 
lợi ích chúng sinh
cắt đứt dòng nước 
bao nhiêu khổ lụy, 
bao nhiêu phiền não 
cũng diệt trừ cả. 
(10) Những người ở trong 
nẻo đường rất dữ, 
ngọn lửa dữ dội 
phủ cả châu thân, 
nghe được tiếng mầu 
của trống vàng này 
thì liền thoát khổ 
qui y Phật đà
(11) Và rồi thành được 
trí biết đời trước, 
nhớ được quá khứ 
đến trăm ngàn đời, 
nên cùng nhớ đến 
đức Đại mâu ni
được nghe kinh pháp 
sâu xa của Ngài. 
(12) Bởi nghe tiếng mầu 
xuất từ trống vàng, 
nên thường thân gần 
chư vị Thế tôn
lại thường rời bỏ 
mọi hành vi ác, 
thuần túy tu tập 
các loại thiện pháp
(13) Tất cả chúng sinh 
nhân loại chư thiên 
thiết tha chí thành 
nguyện cầu những gì, 
thì nghe tiếng mầu 
xuất từ trống vàng 
thỏa mãn cả 
những nguyện cầu ấy. 
(14) Những kẻ sa vào 
địa ngục vô gián
lửa dữ bùng lên 
đốt cháy thân thể
và kẻ ở nơi 
không ai cứu hộ
nghe tiếng trống vàng 
khổ sở mất cả. 
(15) Chư thiên nhân loại 
và các loài khác, 
những ai hiện chịu 
bao nỗi khổ nạn
mà nghe tiếng mầu 
xuất từ trống vàng 
cũng hết đau khổ 
được giải thoát
(16) Nguyện cầu tất cả 
đấng Lưỡng túc tôn 
hiện tại đang ở 
mười phương thế giới
đem lòng đại bi 
nhớ nghĩ đến con. 
(17) Tất cả những ai 
không nơi nương tựa 
không ai cứu hộ
con nguyện làm nơi 
nương tựa lớn lao 
cho những người ấy. 
(18) Trước đây con làm 
bao nhiêu tội lỗi 
trong đó gồm có 
ác nghiệp nặng nề, 
ngày nay đối trước 
các đấng Thập lực 
dốc lòng chí thành 
sám hối tất cả. 
(19) Con đã không tin 
chư vị Thế tôn
cũng không kính trọng 
cha mẹ tôn trưởng, 
không chăm tu hành 
mọi thứ thiện nghiệp
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(20) Con đã tự thị 
tôn quí cao sang 
dòng dõi đẳng cấp 
tiền tài địa vị
tự thị trẻ mạnh 
kiêu xa phóng túng
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(21) Tâm trí thường xuyên 
nổi dậy tà niệm, 
miệng nói độc ác
không thấy tội lỗi
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(22) Con đã thường xuyên 
làm việc phàm phu
vô minh ám chướng 
đi theo bạn xấu, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(23) Hoặc vì ăn chơi
hoặc vì buồn nản
ham muốn, tức giận 
thắt kết trong lòng, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(24) Thân với người xấu, 
keo kiết, ganh ghét 
nghèo nàn, cùng khổ 
nịnh hót, lừa dối, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(25) Cũng có những lúc 
không thích tội ác
nhưng vì e sợ, 
vì bị sai sử, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(26) Hoặc vì háo động 
hoặc vì hận thù 
hoặc vì đói khát 
dày vò hành hạ
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(27) Vì ăn vì mặc 
vì ham nữ sắc
vì lửa phiền não 
thiêu đốt nung nấu, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(28) Với Phật Pháp Tăng 
không biết tôn kính
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(29) Độc giác Bồ tát 
cũng không kính trọng
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(30) Phỉ báng Phật pháp 
bất hiếu cha mẹ
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(31) Ngu muội kiêu căng 
tham lam giận dữ 
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(32) Trong mọi thế giới 
hiến cúng vô lượng 
chư vị Thế tôn
con nguyện cứu vớt 
cho bao chúng sinh 
thoát ly khổ nạn
(33) Nguyện cầu chúng sinh 
đứng trong mười địa, 
tròn đầy phước trí 
thành Phật đà rồi 
hướng dẫn bao kẻ 
mê mờ ngu muội
(34) Con vì chúng sinh 
tu hành khổ hạnh 
trăm ngàn đời kiếp, 
đem đại trí lực 
mà làm cho họ 
vượt qua biển khổ. 
(35) Con vì chúng sinh 
diễn giảng kinh pháp 
Ánh sáng hoàng kim
bản kinh tối thượng 
năng lực trừ được 
bao thứ ác nghiệp
(36) Những ai trải qua 
trăm ngàn đời kiếp 
tạo ra bao tội 
cực kỳ nặng nề, 
mà biết phát lộ 
thì cũng tiêu trừ
(37) Y theo kinh pháp 
Ánh sáng hoàng kim
sám hối như trên, 
thì mau tận diệt 
bao nhiêu ác nghiệp 
đã gây đau khổ
(38) Cả trăm cả ngàn 
thiền định siêu việt
cùng với tổng trì 
bất khả tư nghị
năm căn năm lực 
bảy chi tuệ giác 
tám chi thánh đạo 
ba mươi bảy pháp, 
con nguyện thường xuyên 
tu tập không mỏi. 
(39) Và con sẽ đến 
mười bồ tát địa
nơi đầy đủ cả 
mọi thứ quí báu, 
viên mãn tất cả 
phẩm chất Phật đà
cứu vớt chúng sinh 
vượt dòng sinh tử
(40) Đối với biển cả 
quả vị Phật đà
và với kho tàng 
công đức sâu xa
tuệ giác mầu nhiệm 
bất khả tư nghị
con nguyện thành tựu 
một cách đầy đủ. 
(41) Nguyện cầu mười phương 
chư vị Thế tôn 
hộ niệm cho con, 
đem tâm đại bi 
thương tưởng chấp nhận 
cho con sám hối
(42) Trong bao đời kiếp 
con tạo ác nghiệp
do ác nghiệp ấy 
mà sinh đau khổ
nguyện Phật thương tưởng 
cho con trừ diệt
(43) Con gây ác nghiệp 
nên thường lo sợ, 
trong mọi cử động 
đi đứng nằm ngồi, 
chưa hề có được 
một chút vui vẻ
(44) Thế tôn đại từ 
trừ cho chúng sinh 
bao nỗi sợ hãi
nguyện xin chấp nhận 
cho con sám hối 
thoát ly lo sợ. 
(45) Con có đủ cả 
hoặc chướng nghiệp hướng 
cùng với báo chướng
nguyện xin Thế tôn
đem nước đại bi 
rửa cho sạch sẽ. 
(46) Ác nghiệp quá khứ 
ác nghiệp hiện tại 
con tạo ra, 
con xin chí thành 
phát lộ tất cả 
nguyện tiêu diệt hết. 
(47) Và bao ác nghiệp 
trong thì vị lai
con xin giữ gìn 
không cho nổi dậy, 
giả sử vi phạm 
lời thệ nguyện này 
thì không bao giờ 
con dám che giấu. 
(48) Thân có ba nghiệp 
miệng có bốn nghiệp, 
ý có ba nghiệp 
trói buộc chúng sinh 
vô thỉ đến nay 
thường xuyên liên tục
(49) Do thân miệng ý 
mà tạo thập ác
tội ác như vậy 
rất nhiều sắc thái, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(50) Ác nghiệp con làm 
sẽ phải tự chịu 
ác báo đau khổ 
[nếu không sám hối]; 
ngày nay đối trước 
chư vị Thế tôn 
con xin chí thành 
sám hối tất cả. 
(51) Đại lục Thiệm bộ 
và bao thế giới 
trong đó được có 
bao nhiêu thiện nghiệp
ngày nay con xin 
tùy hỷ tất cả. 
(50) Nguyện bỏ thập ác 
nguyện tu thập thiện 
an trú mười địa 
thường thấy Thế tôn
(53) Bao nhiêu những nghiệp 
phước đức trí tuệ 
mà thân miệng ý 
của con tu được, 
con xin vận dụng 
thiện nghiệp như vậy 
mau chóng đạt đến 
tuệ giác tối thượng
(54) Nay con đích thân 
đối trước Thế tôn 
chân thành phát lộ 
lắm cái ác nạn : 
cái nạn ngu muội 
si mê ba cõi
cái nạn thường làm 
ác nghiệp cực nặng, 
(55) cái nạn tập hợp 
dục vọng, tà kiến
cái nạn tham ái 
thường xuyên chảy dài, 
cái nạn đam mê 
thế giới hiện hữu
cái nạn toàn là 
phiền não phàm phu
(56) cái nạn cuồng phóng 
náo động thác loạn, 
cái nạn thân gần 
bạn bè bất lương, 
cái nạn tham nhiễm 
trong chốn sinh tử
cái nạn sân si 
ngu độn làm ác, 
(57) cái nạn sinh nhằm 
tám nơi không rảnh (33) , 
cái nạn chưa hề 
tập hợp công đức
nay con đối trước 
các đấng Tối thắng 
sám hối vô số 
ác nạn như vậy. 
(58) Nay con qui y 
các đấng Thiện thệ
kính lạy các đấng 
Biển đức vô thượng
Ngài, núi vàng lớn 
chiếu sáng khắp cả, 
nguyện xin từ bi 
gia hộ cho con. 
(59) Thân Phật rực lên 
ánh sáng hoàng kim
mắt Phật tựa như 
lưu ly xanh biếc; 
là đấng cát tường 
uy đức đặc tôn
Ngài đem mặt trời 
của lòng đại bi 
xua tan u ám 
cho bao chúng sinh
(60) Phật như mặt trời 
sáng soi khắp cả, 
sáng không vẩn đục
sáng sạch bụi dơ ; 
Phật như mặt trăng 
sáng soi mát mẻ
sáng tan nhiệt lực 
của bao phiền não
(61) Ba hai tướng tốt 
châu thân uy nghiêm
tám mươi tướng phụ 
toàn hảo cả người, 
phước đức tuyệt bậc 
khó nghĩ khó bàn, 
như vầng thái dương 
chiếu soi thế giới
(62) Sắc thân tựa như 
lưu ly trong suốt 
lại như trăng đầy 
ở giữa không trung. 
Thân vàng như phủ 
mạng lưới pha lê 
rực rỡ bởi những 
ánh sáng đủ màu. 
(63) Trong cái thác nước 
sinh tử khổ não
già bịnh lo rầu 
trôi cuốn chúng sinh
biển khổ như vậy 
khó mà chịu nổi, 
mặt trời Phật đà 
chiếu cho khô cạn. 
(64) Con xin lạy đấng 
Trí tuệ toàn giác
đấng Hiếm có nhất 
thế giới đại thiên
đấng mình vàng tía 
sáng lên rực rỡ
đấng trang sức mình 
với bao cái đẹp. 
(65) Ngài như đại dương 
mênh mông khó biết, 
Ngài như đại địa 
bụi nhỏ khó tính, 
Ngài như núi cao 
trọng lượng khó cân, 
Ngài như không gian 
giới hạn khó cùng. 
(66) Phật đức là vậy, 
chúng sinh khó biết; 
càng nghĩ càng xét 
trong lắm đời kiếp, 
càng không biết nổi 
bờ biển Phật đức
(67) Nghiền nát đại địa 
toán biết cực vi
toán biết nước giọt 
của cả đại dương 
số lượng Phật đức 
vẫn không biết nổi. 
(68) Tất cả chúng sinh 
cùng nhau ca tụng 
phẩm chất danh tiếng 
tướng hảo thanh tịnh 
uy nghiêm nhiệm mầu 
của đức Thế tôn
cũng không khả năng 
hết được giới hạn
(69) Bao nhiêu thiện nghiệp 
mà con có được, 
con nguyện mau chóng 
thành đấng Vô thượng
thuyết pháp phong phú 
ích lợi sinh linh
làm cho tất cả 
giải thoát khổ đau. 
(70) Chiến thắng ma quân 
sức mạnh lớn, 
chuyển đẩy bánh xe 
chánh pháp tối thượng
ở đời với những 
thì gian khó tính, 
con đem cam lộ 
sung mãn chúng sinh
(71) Y như quá khứ 
các đấng Tối thắng 
đã viên mãn cả 
sáu ba la mật
hủy diệt tham dục 
sân hận ngu si
loại trừ phiền não
triệt đoạn khổ lụy. 
(72) Con nguyện thường được 
trí biết đời trước 
nhớ được quá khứ 
cả trăm ngàn đời, 
nhất là thường nhớ 
đấng Đại mâu ni
được nghe diệu pháp 
rất sâu của Ngài. 
(73) Nguyện con biết đem 
thiển căn như vậy 
phụng sự vô biên 
các đấng Tối thắng
viễn ly hết thảy 
nghiệp nhân bất thiện
thường được tu hành 
Pháp mầu chân thật
(74) Làm cho chúng sinh 
trong mọi thế giới 
khổ não thoát ly 
yên vui thật hiện, 
bao kẻ giác quan 
không được toàn hảo 
thì làm cho được 
cơ thể đầy đủ. 
(75) Những ai gặp phải 
khổ vì bịnh tật, 
thân hình ốm yếu 
không nơi nương tựa
thì con làm cho 
hết cả bịnh khổ
sức khỏe tướng tốt 
cùng được đủ cả. 
(76) Những ai phạm pháp 
sắp bị hành hình, 
khổ sở hành hạ 
lo sợ dày vò ; 
khi họ đau khổ 
cực độ như vậy, 
không biết nhờ ai 
thì con cứu giúp. 
(77) Ai bị đánh khảo 
gông cùm xiềng xích, 
đủ loại hình cụ 
hành hạ thân thể
trong khi vô số 
những nỗi lo sợ 
dày vò tâm trí 
không chút yên vui ; 
(78) thì con làm cho 
thoát được giam cầm 
mà bao hình cụ 
đã làm khổ họ, 
sắp bị hành hình 
thì toàn tính mạng
bao khổ sở khác 
cũng hết vĩnh viễn
(79) Có những chúng sinh 
đói khát hoành hành, 
thì con làm cho 
hưởng đủ myՠvị, 
làm mù được thấy 
làm điếc được nghe 
làm què được đi 
làm ngọng được nói. 
(80) Những kẻ nghèo nàn 
thì được kho báu, 
kho lẫm dẫy đầy 
không thiếu thốn chi. 
Con làm tất cả 
hưởng vui thượng thặng, 
không còn một ai 
chịu lấy đau khổ
(81) Người nào cũng được 
mọi người thích nhìn, 
dung nghi phong nhã 
mà lại nghiêm chỉnh
ai nấy cùng được 
hiện tại yên vui, 
đời sống phong phú 
phước đức đủ cả. 
(82) Tùy ý chúng sinh 
nghĩ đến âm nhạc
âm nhạc tuyệt hảo 
tức thì tấu lên ; 
và nghĩ đến nước 
nước mát đầy hồ, 
sen màu hoàng kim 
nổi trên nước ấy. 
(83) Tùy ý chúng sinh 
nghĩ đến vật dụng
vật dụng đủ cả 
cơm áo ghế giường, 
đủ vàng đủ ngọc, 
đủ ngọc lưu ly
chuỗi ngọc vòng xuyến 
có đủ hết thảy. 
(84) Lại làm chúng sinh 
không nghe tiếng dữ, 
cũng không nhìn thấy 
những gì trái ý; 
dung mạo có được 
toàn là đoan trang
và hướng về nhau 
toàn bằng lòng từ
(85) Lạc cụ để sống 
nghĩ là có đủ, 
vàng ngọc có được 
không hề tiếc nuối, 
phân cho tất cả 
những ai cần thiết
(86) Các loại hương liệu 
các loại hoa 
từ cây rơi xuống 
mỗi ngày ba lần, 
tùy ý hưởng dụng 
lòng tràn hoan hỷ
(87) Con nguyện chúng sinh 
đều biết hiến cúng 
các đấng Tối thắng 
thế giới mười phương
hiến cúng Diệu pháp 
hoàn bị cả ba 
cỗ xe sáng sủa, 
hiến cúng Thánh chúng 
đủ cả Bồ tát 
Độc giác Thanh văn
(88) Con nguyện chúng sinh 
đừng ai ở vào 
những nơi hèn hạ 
những chỗ tám nạn
thường sinh làm người 
có thể tu hành
thường được phụng sự 
chư vị Thế tôn
(89) Con nguyện chúng sinh 
sinh nhà sang giàu 
tài sản bảo vật 
đầy kho đầy lẫm, 
tướng mạo, danh tiếng 
không ai sánh bằng
thọ lượng trải qua 
nhiều kiếp lâu dài
(90) Con nguyện chúng sinh 
nữ biến thành nam 
thông minh khỏe mạnh 
đa trí đa năng, 
và ai cũng đi 
đường đi bồ tát 
là siêng mà tu 
sáu ba la mật
(91) Con nguyện chúng sinh 
thường thấy chư Phật 
an tọa bảo tòa 
dưới những cây ngọc -- 
bảo tòa sư tử 
bằng chất lưu ly
thường được thân nghe 
Phật chuyển pháp luân
(92) Quá khứ hiện tại 
nếu con luân hồi 
ở trong ba cõi 
tạo các ác nghiệp 
khả năng rước lấy 
ác báo đáng ghét
thì nguyện diệt sạch 
không còn thừa sót. 
(93) Ở trong biển có (34) 
bao nhiêu chúng sinh 
bị buộc thắt chặt 
trong lưới sinh tử
con nguyện vì họ 
cắt đứt lưới ấy 
bằng kiếm trí tuệ
làm cho mau chóng 
thoát khỏi sinh tử 
chứng đắc tuệ giác
(94) Đại lục Thiệm bộ 
hay thế giới khác, 
chúng sinh trong đó 
tạo bao thắng phước, 
nay con nguyện xin 
tùy hỷ tất cả. 
(95) Con nguyện vận dụng 
sự tùy hỷ này, 
và bao thiện hạnh 
của than miệng ý, 
làm cho thắng nghiệp 
thường xuyên lớn lên, 
thực hiện mau chóng 
tuệ giác vĩ đại. 
(96) Bao nhiêu thắng phước 
lễ bái tán dương 
công đức chư Phật, 
với tâm sâu xa 
cực kỳ trong sáng 
không chút gợn bẩn, 
con đem hồi hướng
lại đem phát nguyện
thì sáu mươi kiếp 
vượt nẻo đường dữ. 
(97) Nếu có thiện nam 
hay thiện nữ nào, 
hoặc các vọng tộc 
như Bà la môn
chắp tay dốc lòng 
tán dương chư Phật, 
thì sinh ở đâu 
cũng nhớ đời trước, 
(98) giác quan toàn hảo 
cơ thể toàn myլ 
hoàn thành hết 
công đức siêu việt
thì trong vị lai 
sinh ra ở đâu 
chư thiên nhân loại 
cũng thường chiêm ngưỡng
(99) Người ấy không phải 
ở nơi một đức 
mười đức Phật đà 
tu tập thiện căn 
mà nay nghe được 
pháp sám hối này, 
mà phải ở nơi 
trăm ngàn Phật đà 
gieo trồng thiện căn
mới được nghe đến 
pháp mầu sám hối 
như thế này đây. 
Bấy giờ đức Thế tôn nghe những lời chỉnh cú ấy thì tán dương bồ tát Diệu tràng, rằng lành thay thiện nam tử, âm thanh xuất từ trống vàng mà ông mộng thấy, đã tán dương công đức Phật đàdiệu pháp sám hối. Ai nghe âm thanh như vậy cũng được rất nhiều phước đức. Âm thanh ấy lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh, loại trừ nghiệp chướng cho họ. Ông nên biết sự thể siêu việt này nguyên nhân là do tập quán quá khứ ông đã quen tán dương chư Phật và sám hối phát nguyện, lại do uy lực chư Phật da trì cho ông. Nguyên nhân ấy, rồi đây vì ông mà Như lai sẽ nói đến (35) .

Lúc ấy, cả đại hội nghe pháp thoại này, ai cũng hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32606)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30312)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12587)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52117)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12527)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16117)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13735)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11189)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12515)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14863)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant