Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7457)
Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng (32) 

Vào lúc bấy giờ, bồ tát Diệu tràng đích thân ở trước đức Thế tôn nghe diệu pháp Ngài nói, thì hoan hỷ, phấn chấn, nhất tâm tư duy, trở về chốn cũ. Trong đêm hôm ấy, bồ tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái dương. Trong ánh sáng ấy, bồ tát thấy được chư vị Thế tôn khắp mười phương hướng, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ tát lại thấy một vị Bà la môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn. Âm thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Bồ tát Diệu tràng nghe rồi nắm giữ tất cả trong ký ức, buộc trí nhớ lại như ở trước mắt. Trời sáng, bồ tát cùng với hàng trăm hàng ngàn người đem các cúng phẩm ra khỏi thành Vương xá, vào đỉnh Thứu phong, đến chỗ đức Thế tôn. Bồ tát đảnh lễ ngang chân của Ngài, sắp hương hoa ra, đi quanh Ngài ba vòng, lui lại ngồi một phía, chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong đêm vừa rồi, con mộng thấy một vị Bà la môn lấy tay cầm dùi, đánh một cái trống bằng hoàng kim, rất đẹp, xuất ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Nghe rồi, con nắm giữ trong trí tất cả. Kính xin đức Thế tôn đại từ đại bi, cho con tường thuật. Đối trước đức Thế tôn, bồ tát Diệu tràng nói những chỉnh cú sau đây.

(1) Đêm hôm vừa rồi 
trong mộng con thấy 
cái trống bằng vàng 
rất lớn và đẹp, 
khắp cả thân trống 
có ánh sáng vàng. 
(2) Như vầng thái dương
ánh sáng như vậy 
chiếu rực khắp cả 
mười phương thế giới
làm ai cũng thấy 
chư vị Thế tôn
(3) Dưới những cây ngọc, 
các Ngài cùng ngồi 
pháp tòa lưu ly
có hàng ngàn người 
rất mực cung kính 
bao quanh các Ngài. 
(4) Một bà la môn 
cầm dùi mà đánh 
trống vàng hoàng kim 
phát âm thanh lớn, 
và chính âm thanh 
phát từ trống ấy 
nói những chỉnh cú 
nhiệm mầu sau đây. 
(5) Trống vàng sáng rực 
phát ra tiếng mầu 
vang khắp tất cả 
đại thiên thế giới
diệt tội cực nặng 
trong ba đường ác 
cùng bao khổ ách
của trong nhân loại
(6) Uy lực âm thanh 
của trống vàng này 
diệt hẳn hết thảy 
phiền não chướng ngại 
loại trừ sợ hãi 
làm cho yên vui, 
in như chính đấng 
Mâu ni tự tại
(7) Chính trong cái nơi 
biển cả sống chết
Thế tôn tu hành 
thành trí toàn giác
làm cho chúng sinh 
đủ các giác phần
cứu cánh qui về 
biển cả công đức
(8) Trống vàng xuất ra 
âm thanh mầu nhiệm 
người nghe cùng được 
phạn âm thâm thúy
và rồi chứng được 
vô thượng bồ đề
thường chuyển pháp luân 
trong sáng nhiệm mầu. 
(9) Lại được thọ lượng 
bất khả tư nghị
tùy nghi thuyết pháp 
lợi ích chúng sinh
cắt đứt dòng nước 
bao nhiêu khổ lụy, 
bao nhiêu phiền não 
cũng diệt trừ cả. 
(10) Những người ở trong 
nẻo đường rất dữ, 
ngọn lửa dữ dội 
phủ cả châu thân, 
nghe được tiếng mầu 
của trống vàng này 
thì liền thoát khổ 
qui y Phật đà
(11) Và rồi thành được 
trí biết đời trước, 
nhớ được quá khứ 
đến trăm ngàn đời, 
nên cùng nhớ đến 
đức Đại mâu ni
được nghe kinh pháp 
sâu xa của Ngài. 
(12) Bởi nghe tiếng mầu 
xuất từ trống vàng, 
nên thường thân gần 
chư vị Thế tôn
lại thường rời bỏ 
mọi hành vi ác, 
thuần túy tu tập 
các loại thiện pháp
(13) Tất cả chúng sinh 
nhân loại chư thiên 
thiết tha chí thành 
nguyện cầu những gì, 
thì nghe tiếng mầu 
xuất từ trống vàng 
thỏa mãn cả 
những nguyện cầu ấy. 
(14) Những kẻ sa vào 
địa ngục vô gián
lửa dữ bùng lên 
đốt cháy thân thể
và kẻ ở nơi 
không ai cứu hộ
nghe tiếng trống vàng 
khổ sở mất cả. 
(15) Chư thiên nhân loại 
và các loài khác, 
những ai hiện chịu 
bao nỗi khổ nạn
mà nghe tiếng mầu 
xuất từ trống vàng 
cũng hết đau khổ 
được giải thoát
(16) Nguyện cầu tất cả 
đấng Lưỡng túc tôn 
hiện tại đang ở 
mười phương thế giới
đem lòng đại bi 
nhớ nghĩ đến con. 
(17) Tất cả những ai 
không nơi nương tựa 
không ai cứu hộ
con nguyện làm nơi 
nương tựa lớn lao 
cho những người ấy. 
(18) Trước đây con làm 
bao nhiêu tội lỗi 
trong đó gồm có 
ác nghiệp nặng nề, 
ngày nay đối trước 
các đấng Thập lực 
dốc lòng chí thành 
sám hối tất cả. 
(19) Con đã không tin 
chư vị Thế tôn
cũng không kính trọng 
cha mẹ tôn trưởng, 
không chăm tu hành 
mọi thứ thiện nghiệp
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(20) Con đã tự thị 
tôn quí cao sang 
dòng dõi đẳng cấp 
tiền tài địa vị
tự thị trẻ mạnh 
kiêu xa phóng túng
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(21) Tâm trí thường xuyên 
nổi dậy tà niệm, 
miệng nói độc ác
không thấy tội lỗi
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(22) Con đã thường xuyên 
làm việc phàm phu
vô minh ám chướng 
đi theo bạn xấu, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(23) Hoặc vì ăn chơi
hoặc vì buồn nản
ham muốn, tức giận 
thắt kết trong lòng, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(24) Thân với người xấu, 
keo kiết, ganh ghét 
nghèo nàn, cùng khổ 
nịnh hót, lừa dối, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(25) Cũng có những lúc 
không thích tội ác
nhưng vì e sợ, 
vì bị sai sử, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(26) Hoặc vì háo động 
hoặc vì hận thù 
hoặc vì đói khát 
dày vò hành hạ
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(27) Vì ăn vì mặc 
vì ham nữ sắc
vì lửa phiền não 
thiêu đốt nung nấu, 
nên thường tạo ra 
bao nhiêu ác nghiệp
(28) Với Phật Pháp Tăng 
không biết tôn kính
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(29) Độc giác Bồ tát 
cũng không kính trọng
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(30) Phỉ báng Phật pháp 
bất hiếu cha mẹ
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(31) Ngu muội kiêu căng 
tham lam giận dữ 
nên đã tạo ra 
ác nghiệp như trên, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(32) Trong mọi thế giới 
hiến cúng vô lượng 
chư vị Thế tôn
con nguyện cứu vớt 
cho bao chúng sinh 
thoát ly khổ nạn
(33) Nguyện cầu chúng sinh 
đứng trong mười địa, 
tròn đầy phước trí 
thành Phật đà rồi 
hướng dẫn bao kẻ 
mê mờ ngu muội
(34) Con vì chúng sinh 
tu hành khổ hạnh 
trăm ngàn đời kiếp, 
đem đại trí lực 
mà làm cho họ 
vượt qua biển khổ. 
(35) Con vì chúng sinh 
diễn giảng kinh pháp 
Ánh sáng hoàng kim
bản kinh tối thượng 
năng lực trừ được 
bao thứ ác nghiệp
(36) Những ai trải qua 
trăm ngàn đời kiếp 
tạo ra bao tội 
cực kỳ nặng nề, 
mà biết phát lộ 
thì cũng tiêu trừ
(37) Y theo kinh pháp 
Ánh sáng hoàng kim
sám hối như trên, 
thì mau tận diệt 
bao nhiêu ác nghiệp 
đã gây đau khổ
(38) Cả trăm cả ngàn 
thiền định siêu việt
cùng với tổng trì 
bất khả tư nghị
năm căn năm lực 
bảy chi tuệ giác 
tám chi thánh đạo 
ba mươi bảy pháp, 
con nguyện thường xuyên 
tu tập không mỏi. 
(39) Và con sẽ đến 
mười bồ tát địa
nơi đầy đủ cả 
mọi thứ quí báu, 
viên mãn tất cả 
phẩm chất Phật đà
cứu vớt chúng sinh 
vượt dòng sinh tử
(40) Đối với biển cả 
quả vị Phật đà
và với kho tàng 
công đức sâu xa
tuệ giác mầu nhiệm 
bất khả tư nghị
con nguyện thành tựu 
một cách đầy đủ. 
(41) Nguyện cầu mười phương 
chư vị Thế tôn 
hộ niệm cho con, 
đem tâm đại bi 
thương tưởng chấp nhận 
cho con sám hối
(42) Trong bao đời kiếp 
con tạo ác nghiệp
do ác nghiệp ấy 
mà sinh đau khổ
nguyện Phật thương tưởng 
cho con trừ diệt
(43) Con gây ác nghiệp 
nên thường lo sợ, 
trong mọi cử động 
đi đứng nằm ngồi, 
chưa hề có được 
một chút vui vẻ
(44) Thế tôn đại từ 
trừ cho chúng sinh 
bao nỗi sợ hãi
nguyện xin chấp nhận 
cho con sám hối 
thoát ly lo sợ. 
(45) Con có đủ cả 
hoặc chướng nghiệp hướng 
cùng với báo chướng
nguyện xin Thế tôn
đem nước đại bi 
rửa cho sạch sẽ. 
(46) Ác nghiệp quá khứ 
ác nghiệp hiện tại 
con tạo ra, 
con xin chí thành 
phát lộ tất cả 
nguyện tiêu diệt hết. 
(47) Và bao ác nghiệp 
trong thì vị lai
con xin giữ gìn 
không cho nổi dậy, 
giả sử vi phạm 
lời thệ nguyện này 
thì không bao giờ 
con dám che giấu. 
(48) Thân có ba nghiệp 
miệng có bốn nghiệp, 
ý có ba nghiệp 
trói buộc chúng sinh 
vô thỉ đến nay 
thường xuyên liên tục
(49) Do thân miệng ý 
mà tạo thập ác
tội ác như vậy 
rất nhiều sắc thái, 
ngày nay con xin 
sám hối tất cả. 
(50) Ác nghiệp con làm 
sẽ phải tự chịu 
ác báo đau khổ 
[nếu không sám hối]; 
ngày nay đối trước 
chư vị Thế tôn 
con xin chí thành 
sám hối tất cả. 
(51) Đại lục Thiệm bộ 
và bao thế giới 
trong đó được có 
bao nhiêu thiện nghiệp
ngày nay con xin 
tùy hỷ tất cả. 
(50) Nguyện bỏ thập ác 
nguyện tu thập thiện 
an trú mười địa 
thường thấy Thế tôn
(53) Bao nhiêu những nghiệp 
phước đức trí tuệ 
mà thân miệng ý 
của con tu được, 
con xin vận dụng 
thiện nghiệp như vậy 
mau chóng đạt đến 
tuệ giác tối thượng
(54) Nay con đích thân 
đối trước Thế tôn 
chân thành phát lộ 
lắm cái ác nạn : 
cái nạn ngu muội 
si mê ba cõi
cái nạn thường làm 
ác nghiệp cực nặng, 
(55) cái nạn tập hợp 
dục vọng, tà kiến
cái nạn tham ái 
thường xuyên chảy dài, 
cái nạn đam mê 
thế giới hiện hữu
cái nạn toàn là 
phiền não phàm phu
(56) cái nạn cuồng phóng 
náo động thác loạn, 
cái nạn thân gần 
bạn bè bất lương, 
cái nạn tham nhiễm 
trong chốn sinh tử
cái nạn sân si 
ngu độn làm ác, 
(57) cái nạn sinh nhằm 
tám nơi không rảnh (33) , 
cái nạn chưa hề 
tập hợp công đức
nay con đối trước 
các đấng Tối thắng 
sám hối vô số 
ác nạn như vậy. 
(58) Nay con qui y 
các đấng Thiện thệ
kính lạy các đấng 
Biển đức vô thượng
Ngài, núi vàng lớn 
chiếu sáng khắp cả, 
nguyện xin từ bi 
gia hộ cho con. 
(59) Thân Phật rực lên 
ánh sáng hoàng kim
mắt Phật tựa như 
lưu ly xanh biếc; 
là đấng cát tường 
uy đức đặc tôn
Ngài đem mặt trời 
của lòng đại bi 
xua tan u ám 
cho bao chúng sinh
(60) Phật như mặt trời 
sáng soi khắp cả, 
sáng không vẩn đục
sáng sạch bụi dơ ; 
Phật như mặt trăng 
sáng soi mát mẻ
sáng tan nhiệt lực 
của bao phiền não
(61) Ba hai tướng tốt 
châu thân uy nghiêm
tám mươi tướng phụ 
toàn hảo cả người, 
phước đức tuyệt bậc 
khó nghĩ khó bàn, 
như vầng thái dương 
chiếu soi thế giới
(62) Sắc thân tựa như 
lưu ly trong suốt 
lại như trăng đầy 
ở giữa không trung. 
Thân vàng như phủ 
mạng lưới pha lê 
rực rỡ bởi những 
ánh sáng đủ màu. 
(63) Trong cái thác nước 
sinh tử khổ não
già bịnh lo rầu 
trôi cuốn chúng sinh
biển khổ như vậy 
khó mà chịu nổi, 
mặt trời Phật đà 
chiếu cho khô cạn. 
(64) Con xin lạy đấng 
Trí tuệ toàn giác
đấng Hiếm có nhất 
thế giới đại thiên
đấng mình vàng tía 
sáng lên rực rỡ
đấng trang sức mình 
với bao cái đẹp. 
(65) Ngài như đại dương 
mênh mông khó biết, 
Ngài như đại địa 
bụi nhỏ khó tính, 
Ngài như núi cao 
trọng lượng khó cân, 
Ngài như không gian 
giới hạn khó cùng. 
(66) Phật đức là vậy, 
chúng sinh khó biết; 
càng nghĩ càng xét 
trong lắm đời kiếp, 
càng không biết nổi 
bờ biển Phật đức
(67) Nghiền nát đại địa 
toán biết cực vi
toán biết nước giọt 
của cả đại dương 
số lượng Phật đức 
vẫn không biết nổi. 
(68) Tất cả chúng sinh 
cùng nhau ca tụng 
phẩm chất danh tiếng 
tướng hảo thanh tịnh 
uy nghiêm nhiệm mầu 
của đức Thế tôn
cũng không khả năng 
hết được giới hạn
(69) Bao nhiêu thiện nghiệp 
mà con có được, 
con nguyện mau chóng 
thành đấng Vô thượng
thuyết pháp phong phú 
ích lợi sinh linh
làm cho tất cả 
giải thoát khổ đau. 
(70) Chiến thắng ma quân 
sức mạnh lớn, 
chuyển đẩy bánh xe 
chánh pháp tối thượng
ở đời với những 
thì gian khó tính, 
con đem cam lộ 
sung mãn chúng sinh
(71) Y như quá khứ 
các đấng Tối thắng 
đã viên mãn cả 
sáu ba la mật
hủy diệt tham dục 
sân hận ngu si
loại trừ phiền não
triệt đoạn khổ lụy. 
(72) Con nguyện thường được 
trí biết đời trước 
nhớ được quá khứ 
cả trăm ngàn đời, 
nhất là thường nhớ 
đấng Đại mâu ni
được nghe diệu pháp 
rất sâu của Ngài. 
(73) Nguyện con biết đem 
thiển căn như vậy 
phụng sự vô biên 
các đấng Tối thắng
viễn ly hết thảy 
nghiệp nhân bất thiện
thường được tu hành 
Pháp mầu chân thật
(74) Làm cho chúng sinh 
trong mọi thế giới 
khổ não thoát ly 
yên vui thật hiện, 
bao kẻ giác quan 
không được toàn hảo 
thì làm cho được 
cơ thể đầy đủ. 
(75) Những ai gặp phải 
khổ vì bịnh tật, 
thân hình ốm yếu 
không nơi nương tựa
thì con làm cho 
hết cả bịnh khổ
sức khỏe tướng tốt 
cùng được đủ cả. 
(76) Những ai phạm pháp 
sắp bị hành hình, 
khổ sở hành hạ 
lo sợ dày vò ; 
khi họ đau khổ 
cực độ như vậy, 
không biết nhờ ai 
thì con cứu giúp. 
(77) Ai bị đánh khảo 
gông cùm xiềng xích, 
đủ loại hình cụ 
hành hạ thân thể
trong khi vô số 
những nỗi lo sợ 
dày vò tâm trí 
không chút yên vui ; 
(78) thì con làm cho 
thoát được giam cầm 
mà bao hình cụ 
đã làm khổ họ, 
sắp bị hành hình 
thì toàn tính mạng
bao khổ sở khác 
cũng hết vĩnh viễn
(79) Có những chúng sinh 
đói khát hoành hành, 
thì con làm cho 
hưởng đủ myՠvị, 
làm mù được thấy 
làm điếc được nghe 
làm què được đi 
làm ngọng được nói. 
(80) Những kẻ nghèo nàn 
thì được kho báu, 
kho lẫm dẫy đầy 
không thiếu thốn chi. 
Con làm tất cả 
hưởng vui thượng thặng, 
không còn một ai 
chịu lấy đau khổ
(81) Người nào cũng được 
mọi người thích nhìn, 
dung nghi phong nhã 
mà lại nghiêm chỉnh
ai nấy cùng được 
hiện tại yên vui, 
đời sống phong phú 
phước đức đủ cả. 
(82) Tùy ý chúng sinh 
nghĩ đến âm nhạc
âm nhạc tuyệt hảo 
tức thì tấu lên ; 
và nghĩ đến nước 
nước mát đầy hồ, 
sen màu hoàng kim 
nổi trên nước ấy. 
(83) Tùy ý chúng sinh 
nghĩ đến vật dụng
vật dụng đủ cả 
cơm áo ghế giường, 
đủ vàng đủ ngọc, 
đủ ngọc lưu ly
chuỗi ngọc vòng xuyến 
có đủ hết thảy. 
(84) Lại làm chúng sinh 
không nghe tiếng dữ, 
cũng không nhìn thấy 
những gì trái ý; 
dung mạo có được 
toàn là đoan trang
và hướng về nhau 
toàn bằng lòng từ
(85) Lạc cụ để sống 
nghĩ là có đủ, 
vàng ngọc có được 
không hề tiếc nuối, 
phân cho tất cả 
những ai cần thiết
(86) Các loại hương liệu 
các loại hoa 
từ cây rơi xuống 
mỗi ngày ba lần, 
tùy ý hưởng dụng 
lòng tràn hoan hỷ
(87) Con nguyện chúng sinh 
đều biết hiến cúng 
các đấng Tối thắng 
thế giới mười phương
hiến cúng Diệu pháp 
hoàn bị cả ba 
cỗ xe sáng sủa, 
hiến cúng Thánh chúng 
đủ cả Bồ tát 
Độc giác Thanh văn
(88) Con nguyện chúng sinh 
đừng ai ở vào 
những nơi hèn hạ 
những chỗ tám nạn
thường sinh làm người 
có thể tu hành
thường được phụng sự 
chư vị Thế tôn
(89) Con nguyện chúng sinh 
sinh nhà sang giàu 
tài sản bảo vật 
đầy kho đầy lẫm, 
tướng mạo, danh tiếng 
không ai sánh bằng
thọ lượng trải qua 
nhiều kiếp lâu dài
(90) Con nguyện chúng sinh 
nữ biến thành nam 
thông minh khỏe mạnh 
đa trí đa năng, 
và ai cũng đi 
đường đi bồ tát 
là siêng mà tu 
sáu ba la mật
(91) Con nguyện chúng sinh 
thường thấy chư Phật 
an tọa bảo tòa 
dưới những cây ngọc -- 
bảo tòa sư tử 
bằng chất lưu ly
thường được thân nghe 
Phật chuyển pháp luân
(92) Quá khứ hiện tại 
nếu con luân hồi 
ở trong ba cõi 
tạo các ác nghiệp 
khả năng rước lấy 
ác báo đáng ghét
thì nguyện diệt sạch 
không còn thừa sót. 
(93) Ở trong biển có (34) 
bao nhiêu chúng sinh 
bị buộc thắt chặt 
trong lưới sinh tử
con nguyện vì họ 
cắt đứt lưới ấy 
bằng kiếm trí tuệ
làm cho mau chóng 
thoát khỏi sinh tử 
chứng đắc tuệ giác
(94) Đại lục Thiệm bộ 
hay thế giới khác, 
chúng sinh trong đó 
tạo bao thắng phước, 
nay con nguyện xin 
tùy hỷ tất cả. 
(95) Con nguyện vận dụng 
sự tùy hỷ này, 
và bao thiện hạnh 
của than miệng ý, 
làm cho thắng nghiệp 
thường xuyên lớn lên, 
thực hiện mau chóng 
tuệ giác vĩ đại. 
(96) Bao nhiêu thắng phước 
lễ bái tán dương 
công đức chư Phật, 
với tâm sâu xa 
cực kỳ trong sáng 
không chút gợn bẩn, 
con đem hồi hướng
lại đem phát nguyện
thì sáu mươi kiếp 
vượt nẻo đường dữ. 
(97) Nếu có thiện nam 
hay thiện nữ nào, 
hoặc các vọng tộc 
như Bà la môn
chắp tay dốc lòng 
tán dương chư Phật, 
thì sinh ở đâu 
cũng nhớ đời trước, 
(98) giác quan toàn hảo 
cơ thể toàn myլ 
hoàn thành hết 
công đức siêu việt
thì trong vị lai 
sinh ra ở đâu 
chư thiên nhân loại 
cũng thường chiêm ngưỡng
(99) Người ấy không phải 
ở nơi một đức 
mười đức Phật đà 
tu tập thiện căn 
mà nay nghe được 
pháp sám hối này, 
mà phải ở nơi 
trăm ngàn Phật đà 
gieo trồng thiện căn
mới được nghe đến 
pháp mầu sám hối 
như thế này đây. 
Bấy giờ đức Thế tôn nghe những lời chỉnh cú ấy thì tán dương bồ tát Diệu tràng, rằng lành thay thiện nam tử, âm thanh xuất từ trống vàng mà ông mộng thấy, đã tán dương công đức Phật đàdiệu pháp sám hối. Ai nghe âm thanh như vậy cũng được rất nhiều phước đức. Âm thanh ấy lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh, loại trừ nghiệp chướng cho họ. Ông nên biết sự thể siêu việt này nguyên nhân là do tập quán quá khứ ông đã quen tán dương chư Phật và sám hối phát nguyện, lại do uy lực chư Phật da trì cho ông. Nguyên nhân ấy, rồi đây vì ông mà Như lai sẽ nói đến (35) .

Lúc ấy, cả đại hội nghe pháp thoại này, ai cũng hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11957)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11104)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12556)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17975)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15338)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10603)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14837)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16571)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11947)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13044)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12187)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16609)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12214)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant