Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7699)
Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng (48)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo thọ thần của bồ đề đại thọ, rằng thiện nữ thiên, thiện nữ nên biết cái lý do bồ tát Diệu tràng mộng thấy trống hoàng kim xuất âm thanh lớn, ca tụng công đức Như laidiệu pháp sám hối. Như lai sẽ nói cho các người về lý do ấy. Các người hãy nghe kyլ hãy khéo nghĩ khéo nhớ. Quá khứ có một đế vương tên Kim long chủ, thường đem hoa sen làm ví dụ mà ca tụng chư vị Như lai. Đức Thế tôn liền thuật lại cho đại hội nghe những lời ca tụng này.

(1) Chư Phật quá khứ 
vị lai hiện tại
ở trong thế giới 
khắp cả mười phương
con nay chí thành 
cúi đầu kính lạy, 
nhất tâm ca tụng 
các đấng Tối thắng
(2) Đấng Đại mâu ni 
tối thượng thanh tịnh
ánh sáng thân thể 
rực như hoàng kim
Trong các thứ tiếng 
tiếng Ngài tối thượng
như tiếng Đại phạn 
như sấm rền vang. 
(3) Tóc Ngài thì như 
ong chúa đen huyền, 
đường nét uốn xoay 
ngời lên xanh biếc. 
Răng đều và sít 
trắng như tuyết, ngọc, 
rất bằng và thẳng 
và ngời sáng lên. 
(4) Mắt trong không gợn, 
cực đẹp, uy nghiêm
to lớn tựa như 
cánh hoa sen xanh
Tướng lưỡi rộng dài, 
cùng cực nhu nhuyến
đỏ như sen hồng 
từ nước trồi lên. 
(5) Giữa mày thường có 
ánh sáng bạch hào 
uốn xoay chiều phải 
với màu pha lê
Lông mày dài, mịn, 
sáng như trăng mới, 
ngời lên lóng lánh 
như thân ong chúa. 
(6) Mũi cao, dài, thẳng, 
tựa như đĩnh vàng, 
sạch sẽ, tươi sáng, 
không thiếu vẻ đẹp; 
mọi thứ hơi thơm 
trong thế giới này, 
mũi này ngửi thấy 
là biết ở đâu. 
(7) Thân màu hoàng kim 
siêu tuyệt bậc nhất, 
mỗi một đầu lông 
đẹp đẽ đồng đẳng, 
xanh biếc, mềm mại, 
uốn theo chiều phải, 
tinh tế ánh ngời 
khó có gì bằng. 
(8) Thân ấy mới sinh 
đã có ánh sáng, 
trải ra khắp cả 
thế giới mười phương
trừ được khổ não 
ba cõi chúng sinh
làm cho tất cả 
đều được yên vui. 
(9) Bất kể địa ngục
bàng sinh, ngạ quỉ
tô la, chư thiên
cùng với nhân loại
làm cho loại trừ 
các dạng khổ não
thường xuyên hưởng thụ 
cái vui tự nhiên
(10) Ánh sáng thân ấy 
thường chiếu khắp cả, 
tựa như vàng ròng 
tinh tế bậc nhất. 
Mặt thì sáng ngời 
tựa như trăng tròn. 
Môi thì đỏ tươi 
như trái tần bà
(11) Bước đi uy nghiêm 
như sư tử đi. 
Mình sáng in như 
mặt trời mới mọc 
Cánh tay thì dài, 
đứng quá đầu gối, 
thường buông thẳng xuống 
như nhánh sa la
(12) Vầng ánh sáng tròn 
một tầm, tỏa chiếu, 
rực rỡ tựa như 
trăm ngàn mặt trời
trải đến khắp cả 
quốc độ của Phật, 
tùy kẻ hữu duyên 
mà được thức tỉnh
(13) Ánh sáng trong suốt 
không chi sánh bằng
trải ra khắp cả 
trăm ngàn thế giới
và khắp mười phương
không gì trở ngại, 
mọi sự mờ tối 
đều tan biến cả. 
(14) Từ quang Thiện thệ 
ban cho yên vui, 
màu sắc trong suốt 
như núi vàng ròng
ánh sáng trải khắp 
trăm ngàn quốc độ
những ai gặp được 
cùng siêu thoát cả. 
(15) Vô biên thắng phước 
hoàn thành thân Phật, 
tất cả công đức 
trang sức Phật thân
vượt quá ba cõi
độc xưng Thế tôn
hơn hết thế giới 
thành bậc Vô đẳng
(16) Chư vị Thế tôn 
thuộc thì quá khứ 
nhiều như vi trần 
của cả đại địa
chư vị Thế tôn 
vị lại hiện tại 
cũng bằng vi trần 
của cả đại địa
(17) Đem thân miệng ý 
cùng cực chân thành 
con xin kính lạy 
tam thế Thế tôn
ca tụng biển cả 
công đức vô biên
hiến cúng đủ loại 
những hương và hoa. 
(18) Giả sử miệng con 
có cả ngàn lưỡi, 
ca tụng Thế tôn 
trong vô lượng kiếp
thì công đức Ngài 
bất tư nghị
tối thắng, cực sâu, 
vẫn khó diễn tả
(19) Giả sử lưỡi con 
có cả trăm ngàn 
khen một công đức 
của một đức Phật 
cũng vẫn khó được 
một phần chút ít, 
huống chi vô biên 
công đức chư Phật. 
(20) Giả sử đại địa 
cho đến chư thiên 
đến trời Hữu đảnh 
toàn là biển nước, 
đầu lông nhỏ giọt 
đếm biết hết cả, 
một đức một Phật 
cũng khó lường biết. 
(21) Đem thân miệng ý 
cực kỳ chân thành 
mà con lễ bái 
cùng với tán dương 
công đức vô biên 
của chư Phật đà
sự lễ tán ấy 
được bao thắng phước 
quả báo siêu việt
con xin hồi hướng 
cho cả chúng sinh 
chóng thành Phật đà. 

(22) Kim long chủ vương 
tán thán Phật rồi, 
tâm càng thâm thiết 
phát ra đại nguyện
nguyện con sau này 
trong thì vị lai 
sinh ra đến mấy 
đời kiếp đi nữa, 
(23) thường xuyên mộng thấy 
trống hoàng kim lớn, 
được nghe âm thanh 
diệu pháp sám hối
Công đức tán Phật 
thì như liên hoa
nguyện chứng Vô sinh 
thành bậc Chánh giác
(24) Thế tôn xuất thế 
lâu thay một lần
trăm ngàn đời kiếp 
cũng khó gặp được. 
Nên đêm thường mộng 
nghe tiếng trống vàng, 
ngày thì theo đó 
tu hành sám hối
(25) Con nguyện viên tu 
sáu ba la mật
cứu vớt chúng sinh 
ra khỏi biển khổ, 
sau con mới thành 
đấng Vô thượng giác
với một tịnh độ 
bất khả tư nghị
(26) Con đem trống vàng 
hiến lên chư Phật, 
tán thán chư Phật 
công đức chân thật
nguyện nhờ việc này 
sẽ gặp Thích tôn 
thọ ký cho con 
nối ngôi Pháp vương
(27) Kim long, Kim quang
là con của con, 
quá khứ đã làm 
bậc thiện tri thức
nguyện rằng đời đời 
vẫn sinh nhà con, 
cùng con tiếp nhận 
thọ ký bồ đề
(28) Với những chúng sinh 
không ai cứu giúp, 
trường kỳ luân hồi 
lãnh chịu khổ não
nguyện con đời sau 
làm nơi nương tựa 
cho họ thường được 
yên vui thích thú. 
(29) Cái khổ ba cõi 
con nguyện diệt trừ
làm cho tùy tâm 
ở nơi an lạc
Nguyện những đời sau 
tu hành bồ đề 
cũng như quá khứ 
các vị thành Phật
(30) Nguyện cầu cái phước 
trống vàng sám hối 
làm khô biển khổ 
loại trừ nghiệp chướng
nghiệp chướng hoặc chướng 
tan biến cả rồi, 
nguyện con chóng đạt 
quả báo trong sáng
(31) Biển cả phước trí 
giới hạn vô biên
trong suốt rất mực 
và sâu không cùng. 
Nguyện con thực hiện 
biển phước trí ấy, 
mau chóng thành đạt 
vô thượng bồ đề
(32) Sức mạnh sám hối 
của trống vàng này 
sẽ thể hiện được 
ánh sáng phước đức
Thể hiện ánh sáng 
nhiệm mầu như vậy, 
rồi đem trí quang 
chiếu soi khắp cả. 
(33) Nguyện cầu cho con 
thân thể, ánh sáng, 
phước đức, trí tuệ
đều như chư Phật, 
trong mọi thế giới 
độc xưng Thế tôn
uy lực tự tại 
không ai sánh bằng
(34) Nguyện cầu vượt qua 
biển khổ hữu lậu
nguyện thường du ngoạn 
biển vui vô vi
biển phước hiện tại 
nguyện thường dẫy đầy, 
biển trí tương lai 
nguyện được viên mãn
(35) Nguyện cõi của con 
siêu việt ba cõi
phẩm chất thù thắng 
không có số lượng, 
những ai liên hệ 
cùng sinh cõi ấy, 
cùng mau thành đạt 
trí giác thanh tịnh

(36) Diệu tràng nên biết 
Kim long chủ vương 
đã phát nguyện ấy 
bản thân ông. 
(37) Và hai người con 
Kim long, Kim quang 
thì nay chính là 
Ngân tướng, Ngân quang, 
sẽ cùng tiếp nhận 
Như lai thọ ký
Toàn thể đại hội nghe những lời này của đức Thế tôn, thì ai cũng phát tâm bồ đề, nguyện rằng hiện tạivị lai thường y theo những lời ấy mà tu hành diệu pháp sám hối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11597)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11212)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12054)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16500)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19586)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11811)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12577)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15621)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13572)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17953)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11124)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12139)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19627)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant