Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7991)
Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ

Vào lúc bấy giờ, ở trong đại hội, Đại biện tài thiên nữ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, có vị pháp sư nào giảng nói kinh Ánh sáng hoàng kim này thì con sẽ tăng thêm trí tuệ cho vị ấy, làm cho vị ấy toàn hảo sự hùng biện đầy nghiêm chỉnhthuyết phục. Vị pháp sư ấy nếu quên mất văn chữ nào trong kinh Ánh sáng hoàng kim thì con làm cho nhớ lại, khéo léo mở mắtthức tỉnh cho người. Con lại cho vị ấy minh chú để vị ấy được sự tổng trì thông suốt. Lại nữa, kinh Ánh sáng hoàng kim này được thường xuyên thọ trì bởi những người đã gieo trồng thiện căn nơi hàng trăm hàng ngàn chư vị Thế tôn, nên quảng bá trong đại lục Thiểm bộ mà không ẩn mất mau chóng, giúp cho những ai lắng nghe kinh này thì được sự hùng biện lanh lợi khó nghĩ khó bàn; được đại trí vô tận, khéo hiểu các loại luận thuyết và kyՠthuật; được mau thoát sinh tử, đạt đến vô thượng bồ đề; và hiện tại thì được tăng thêm thọ lượng, đời sống đầy đủ. Bạch đức Thế tôn, con sẽ nói cho vị pháp sư thọ trì quảng bá kinh này, và những ai ưa thích lắng nghe kinh này, về cách tắm rửa nước thuốc, để những người ấy nếu có tai biến sao dữ, nếu lúc mới sinh có sự xung khắc với ngôi sao sở thuộc, nếu có cái khổ của những bịnh truyền nhiễm, của chiến tranh, của ác mộng, ác thần, sâu cổ, quỉ mị, ác chú, quỉ khởi thi, có những điều dữ như vậy làm chướng nạn thì được loại trừ cả. Cách ấy là những người có trí hãy tắm rửa như thế này. Hãy dùng ba mươi hai loại hương dược (67) sau đây, cân lượng bằng nhau:

(1) xương bồ, 
(2) ngưu hoàng, 
(3) mục túc hương, 
(4) xạ hương
(5) hùng hoàng, 
(6) hợp hôn thọ, 
(7) bạch cập, 
(8) khung cùng, 
(9) câu kỷ căn, 
(10) tùng chi, 
(11) quế bì, 
(12) hương phụ tử, 
(13) trầm hương
(14) chiên đàn
(15) linh lăng hương, 
(16) đinh tử, 
(17) uất kim, 
(18) bà luật cao, 
(19) vi hương, 
(20) trúc hoàng, 
(21) tế đậu khấu, 
(22) cam tùng, 
(23) hoắc hương, 
(24) mao căn hương
(25) sất chi, 
(26) ngải nạp, 
(27) an tức hương
(28) giới tử
(29) mã cân, 
(30) long hoa tu, 
(31) bạch giao, 
(32) thanh mộc 
Lấy ngày sao Bố sái (68) mà giã, rây lấy bột, và chú nguyện bằng một trăm lẻ tám biến minh chú này: Tát da tha, su kri ti, kri ti, kri ti, ka ma ta lê, jăn ka ra ti, u ka ra ti, in dra ja li ni, sát a ran tê, va cha chi lê, a ban ti, ka si kê na, ku đu, ku đu, kha ka vi lê, ka pi lê, ka pi lê, ka pi la ma ti, si la ma ti, săn đi đu ra ma ti, pa ba, ka, bam chi lê, Si rê, Si lê, sa ti dát thi tê, soa ha. (Tadyatha sukrti krti krti kamatale jankarati ukarati indrajanili sakarante vacacile abanti kasikena kudu kudu khakavile kapile kapile kapilamati silamati sandhiduramati paba ka bhamcile Sire Sile satyasthite svaha).

(1) Khi muốn đúng cách 
tắm rửa theo phép, 
thì làm đàn tràng 
vuông tám khuỷu tay, 
nơi chỗ tĩnh lặng 
và phải yên ổn
tại đó chú tâm 
vào điều nguyện cầu. 
(2) Đàn ấy phải dùng 
ngưu phấn (69) tráng nền, 
phía trên rải khắp 
bông hoa nhiều màu. 
Rồi dùng khí mãnh 
bạc vàng tinh khiết 
đựng đầy mĩ vị 
hay sữa hoặc mật. 
(3) Bốn phía đàn tràng 
hay là bốn cửa, 
hãy đặt bốn người 
giữ gìn đúng phép. 
Nhờ bốn đồng tử (70) 
phục sức trang nghiêm
mỗi người một góc 
tay bưng bình nước. 
(4) Thế rồi thường xuyên 
đốt an tức hương
và nhạc ngũ âm (71) 
không hề ngớt tiếng 
Phan lọng nghiêm chỉnh
lại treo lụa màu, 
trang hoàng bốn phía 
của đàn tràng ấy. 
(5) Ở trong đàn tràng 
thì đặt gương sáng
dao sắc kèm tên 
mỗi loại bốn cái. 
Chính giữa đàn tràng 
vùi cái bồn lớn, 
với ván xoi lỗ 
đặt ở phía trên. 
(6) Đem bột hương dược 
hòa với nước nóng, 
và cũng đặt để 
ở trong đàn tràng
Thiết trí như vậy 
xong xuôi cả rồi, 
sau đó tụng chú 
kiết giới đàn tràng
Minh chú kiết giới đàn tràng như vầy: Tát da tha, ăn ra kê, na da nê, hi lê, mi lê, gi lê, ki ki lê, soa ha (Tadyatha anrake nayane hile mile gile kikite svaha).

(7) Kiết giới như vậy 
cho đàn tràng rồi, 
sau đó mới vào 
nơi trong đàn tràng
chú nguyện nước [bình] 
hai mươi mốt biến, 
rồi rưới khắp cả 
bốn phía đàn ấy. 
(8) Kế đó chú nguyện 
nước nóng hương dược 
cho đủ số lượng 
một trăm tám biến, 
rồi bốn phía đàn 
dùng màn mà che, 
và rồi tắm rửa 
cho cả thân thể
Minh chú chú nguyện cho nước [bình] và nước nóng hương dược như vầy: Tát da tha, su ga ti, vi ga ti, vi ga cha, va đê, soa ha. (Tadyatha sugati vigati vigaca vade svaha).

Tắm rửa rồi, nước nóng tắm rửa ấy [đã chảy xuống bồn lớn], và những cúng phẩm hiến cúng trong đàn tràng, đều đem bỏ trong sông trong hồ. Ngoài ra thì thu dọn lại. Tắm rửa rồi mới mặc đồ sạch. Khi ra đàn tràng mà vào tịnh thất, thì vị thầy chú nguyện phải dạy cho người ấy cách phát đại nguyện nhắm vào sự diệt ác tu thiện, vào sự phát đại bi tâm đối với chúng sinh. Chính do yếu tố phát đại nguyện này mà được bao phước báo tùy tâm. Đại biện tài thiên nữ lại nói chỉnh cú sau đây.

(9) Những người khổ sở 
vì các thứ bịnh, 
điều trị đủ cách 
mà không lành được, 
thì hãy tắm rửa 
đúng cách như trên, 
cọng thêm đọc tụng 
bản kinh vua này. 
(10) Ngày đêm ý niệm 
không hề tán loạn
chuyên tâm thiết tha 
và rất tin tưởng
thì bao bịnh hoạn 
được tiêu tan cả, 
lại hết nghèo khó 
đủ tài sản. 
(11) Tinh tú bốn hướng 
cùng với nhật nguyệt 
thần lực hộ vệ 
cho được nhiều tuổi, 
cát tường yên ổn 
phước đức tăng thêm, 
tai biến ách nạn 
đều loại trừ cả. 
Sau khi [phát đại nguyện], hãy tụng minh chú hộ trì thân thể sau đây, hai mươi mốt biến: Tát da tha, săm mê, vi săm mê, soa ha; su ga tê, vi ga tê, soa ha. Vi ga ta, va ti, soa ha; Sà ga ra săm bút đa da, soa ha; si kăn đa, ma ta da, soa ha; ni la kăn ta da, soa ha; a pa ra ji ta, via da da, soa ha; hi ma van ta da, soa ha; a ni mi la vát ta da, soa ha; nam mô, ba ga va tê, Brắt, ma ni, soa ha; nam mô, Sa rát va ti, ma ha, đev dê, soa ha; sít dăn tu, măm, măn tra pa đa, soa ha; đa ra ta, va chi tô, Brắt ma nu, ma nô ra, soa ha. (Tadyatha samme visamme svaha; sugate vigate svaha. Vigata vati svaha; Sagarasambudhaya svaha; skanda mataya svaha; nilakantaya svaha; aparajita viryaya svaha; himavantaya svaha; animilavaktaya svaha; namo bhagavate Brah mani svaha; namo Sarasvati maha devye svaha; siddyantu mam mantrapada svaha ; dharata vacito Brahmanu manora svaha).

Đại biện tài thiên nữ nói về cách tắm, về đàn tràng, và về minh chú rồi, bước tới lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong bốn bộ đệ tử đức Thế tôn có ai thọ trì đọc tụng sao chép lưu hành bản kinh vua nhiệm mầu này và tu hành đúng như kinh dạy, thì ở thành thị, thôn xóm, đồng nội, núi rừng, trú xứ tăng ni, bất cứ ở đâu con cũng vì họ mà đem tùy thuộc, tấu thiên nhạc, cùng đến chỗ ấy mà hộ vệ, loại trừ bịnh khổ, sao sa, quái tượng, truyền nhiễm, chinh chiến, tù đày, ác mộng, ác thần, cổ đạo, thuật ếm, những chướng nạn như vậy đều bị trấn áp mà ích lợi cho người trì kinh. Chúng con lại giúp cho bốn đệ tử đức Thế tôn, và những người lắng nghe kinh này, ai cũng mau chóng vượt qua biển cả sinh tử, không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề.

Bấy giờ đức Thế tôn nghe Đại biện tài thiên nữ trình bày như vậy thì khen rằng, lành thay thiên nữ, thiên nữ có thể lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh, bằng cách nói về minh chú, về nước thơmđàn tràng như vậy. Phước báo của thiên nữ thật khó nghĩ thấu. Thiên nữ nên hộ trì bản kinh vua tối thượng, đừng để mai một mà được lưu hành mãi. Đại biện tài thiên nữ, lúc ấy, lạy ngang chân đức Thế tôn rồi trở về chỗ cũ.

Bấy giờ vị Bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, vâng theo uy lực của đức Thế tôn, đứng trước đại hộitán dương Đại biện tài thiên nữ.

(12) Biện tài thiên nữ 
thông minh tinh tiến
người trời hiến cúng 
đáng nên tiếp nhận
danh vang thế giới 
tràn khắp mọi nơi
ban cho ước nguyện 
của bao chúng sinh
(13) Trên đỉnh núi cao 
nơi rất siêu việt
lợp tranh làm phòng 
mà ở trong đó, 
bện những cỏ mềm 
mà làm áo mặc, 
bất cứ ở đâu 
thường kiễng một chân. 
(14) Vậy mà chư thiên 
thường đến tụ tập 
cùng nhau một lòng 
tán dương thỉnh cầu
Kính xin thiên nữ 
bậc đại hùng biện, 
hãy cho mọi người 
lời tiếng vi diệu
Đại biện tài thiên nữ liền chấp nhận thỉnh cầutuyên thuyết minh chú sau đây: Tát da tha, mi ri, chi ô rê, a va tê, a va jê va ti, hin gu lê, min gu lê, pin ga lê va ti, ăn khu sa, ma ri chi dê, sặm ma ti, vi sặm ma ti, a gra ti, mắc khi dê, ta ra chi, ta ra chi va ti, chia si, chi ri, si ri mi ri, ma nan đi, đa ma khê, ma ri chi dê, pra na pa ri dê, lô ka ji dết tha, lô ka, si nết thi, lô ka via dê, sít đa, pa ra tê, bi ma mu khi, su chi cha ri, a pra ti ha tê, a pra ti ha ta bút đi, na mút chi, na mu chi, ma ha đếp dê, pra ti, gra ha, na mát ka ra, ma ma, bút đi, đa sa hi, bút đi, a pra ti ha ta, ba va tu, si ra ha mê, vi sút đa, chi tô, sát tra si lô ka, măn tra, pi ta ka, ka pi da đi sô, tát da tha, ma ha pra ba va, hi li, mi li, vi cha ra tu, vi bút đi, ma ma, bút đi, sút đi, ba ga vát ti dê, đê vê dăm, Sa rát va tim, ka ra ti, kê du ra ma ti, hi ri, mi ri, hi ri, mi ri, a ba da, mê, ma ha đê vi, bút đa, sát dê na, đa ma, sát dê na, săn ga, sát dê na, In dra, sát dê na, Va ru na, sát dê na, dê lô ki dê sát da, sát dê na, tê săm, sát dê na, sát da va cha ni da, a ba da, mê, ma ha đê vi, hi li, mi li, hi li, mi li, vi cha ra tu, ma ma, bút đi, nô, nam mô, ba ga va ti, ma ha đê vê, Sa rát va ti da, sít đi dăn tu, măn tra, pa đa, mê, soa ha. (Tadyatha miri cyore avate avajevati hingule mingule pingalevati ankhusa maricye sammati visammati agrati makhye taraci taracivati cirsi ciri sirimiri manandhi damakhe maricye pranaparye lokajyestha loka snesthi lokavirye siddha parate bhimamukhi sucicari apratihate apratihatabuddhi namuci namuci mahadevye prati graha namaskara mama buddhi darsahi buddhi apratihata bhavatu sirahame visuddha cito sastrasloka mantra pitaka kapiyadiso tadyatha mahaprabhava hili mili vicaratu vibuddhi mama buddhi suddhi bhagavatye deveyam Sarasvatim karati keyuramati hiri miri hiri miri abhaya me mahadevi buddha satyena dharma satyena sangha satyena Indra satyena Varuna satyena yelokyesatya satyena tesam satyena satyavacaniya abhaya me mahadevi hili mili hili mili vicaratu mama buddhi no namo bhagavati mahadeve Sarasvatya siddhiyantu mantra pada me svaha).

Đại biện tài thiên nữ tuyên thuyết minh chú như vậy rồi, nói với Bà la môn, rằng lành thay đại nhân, ông có thể vì những người cầu sự hùng biện nhiệm mầu, cầu châu ngọc, cầu thần thông trí tuệ, để lợi ích tất cả và mau chứng bồ đề, thì nên biết cách thức thọ trì minh chú nói trên. Đại biện tài thiên nữ tức thì nói những lời chỉnh cú sau đây. 

(15) Trì minh chú này 
trước phải thuộc lòng 
sao cho thuần thục 
không sai không sót. 
Kế đó qui kính 
Tam bảo chư thiên
cầu xin da trì 
ước nguyện tùy tâm
(16) Kính lạy Phật bảo 
cùng với Pháp bảo 
Tăng bảo Bồ tát 
Độc giác Thanh văn
kế lạy Phạn vương 
cùng với Đế thích 
bốn vị Thiên vương 
hộ vệ thế giới
(17) Đối với những vị 
thường tu phạn hạnh, 
thì hết lòng thành 
thiết tha kính lạy. 
Hãy ở lan nhã 
yên tĩnh yên ổn 
mà tụng lớn tiếng 
minh chú nói trên. 
(18) Trước tượng Thế tôn 
và trước thiên long
tùy mình có gì 
thì đem hiến cúng. 
Đối với hết thảy 
bao loại chúng sinh 
tâm hãy nổi dậy 
từ bi thương cảm. 
(19) Thế tôn tướng tốt 
thân màu vàng tía
tập trung tâm tưởng 
vào tướng tốt ấy. 
Thế tôn da trì 
tuyên thuyết giáo pháp 
cho người thích hợp 
tu tập thiền định. 
(20) Khéo nghĩ chữ nghĩa 
của giáo pháp ấy, 
lại theo nghĩa Không 
tu tập chính xác
Hãy ngồi ở trước 
hình tượng Thế tôn 
nhất tâm chánh niệm 
về giáo pháp Ngài. 
(21) Thế thì thực hiện 
Diệu trí tam muội
lại còn thực hiện 
tổng trì tối thắng
Miệng vàng Thế tôn 
tuyên thuyết giáo pháp
tiếng mầu thuần hóa 
chư thiên nhân loại
(22) Tướng lưỡi tùy cơ 
biểu hiện hiếm có 
rộng dài bao trùm 
đại thiên thế giới
tiếng mầu lưỡi ấy 
của đức Thế tôn 
chí thành nhớ lấy 
lòng không nghi ngại
(23) Thế tôn do sự 
phát nguyện rộng lớn, 
nên được tướng lưỡi 
bất khả tư nghị
tuyên thuyết các pháp 
toàn là phi hữu
tựa như không gian 
không có vướng mắc
(24) ­ thanh, trường thiệt 
của đức Thế tôn
tư duy hai tướng 
thì thỏa nguyện cầu. 
Thấy ai hiến cúng 
Đại biện thiên nữ, 
hoặc thấy đệ tử 
theo lời thầy dạy, 
(25) truyền cho mật pháp 
bảo nên tu học
trân trọng thiết tha 
nguyện gì cũng thành. 
Muốn thực hiện được 
trí giác tối thượng
thì phải nhất tâm 
trì mật pháp ấy. 
(26) Tăng trưởng tư lương 
phước đức trí tuệ
quyết định thành tựu 
đừng có nghi hoặc
cầu mong tài sản 
được lắm tài sản
cầu mong danh vọng 
được danh vọng tốt. 
(27) Cầu nguyện giải thoát 
thì được giải thoát
quyết định thành tựu 
đừng có nghi hoặc
Thành tựu công đức 
vô lượng vô biên
toàn đúng ước nguyện 
nội tâm người cầu. 
(28) Nếu có khả năng 
y thế tu hành 
thì được thành tựu 
đừng có nghi hoặc
(29) Nên chọn chỗ sạch 
và mặc đồ sạch, 
mà làm đàn tràng 
lớn nhỏ tùy ý
Dùng bốn bình sạch 
mà đựng mĩ vị, 
cùng với hương hoa 
hiến cúng tùy lúc. 
(30) Giăng treo lụa màu 
tràng phan bảo cái
bôi rải khắp cả 
bằng bột hương liệu, 
hiến cúng Thế tôn 
Biện tài thiên
cầu thấy thiên thân 
cũng được toại nguyện
(31) Hai mươi mốt ngày 
tụng minh chú trên, 
bằng cách đối trước 
tượng Biện tài thiên
Nếu chưa thấy được 
thân Biện tài thiên
thì nên dụng tâm 
thêm chín ngày nữa. 
(32) Mà nửa đêm sau 
vẫn chưa thấy được, 
thì nên tìm chỗ 
thanh tịnh đẹp hơn, 
rồi vẽ đúng cách 
tượng Biện tài thiên
hiến cúng trì tụng 
chứ không xả bỏ. 
(33) Cả ngày liền đêm 
không hề biếng nhác
sẽ được vô cùng 
tự lợi lợi tha
Đem kết quả ấy 
hồi hướng chúng sinh
thì cầu nguyện gì 
cũng thành tựu cả. 
(34) Nếu chưa toại ý 
thì phải ba tháng, 
sáu tháng chín tháng 
cho đến một năm, 
thiết tha thỉnh cầu 
lòng không dao động
thì được thiên nhãn 
được tha tâm thông
Bà la môn Kiều trần như nghe Đại biện tài thiên nữ nói như vậy thì hoan hỷ, phấn chấn, khen chưa từng có. Ông thưa đại hội mà nói như vầy, tất cả đại hội nhân loại chư thiên nên biết và nghe cho, tôi lại muốn theo phép thế đếtán dương Đại biện tài thiên nữ. Ông liền nói những chỉnh cú sau đây.

(35) Kính lạy Thiên nữ 
bậc đại dũng mãnh 
đại tự tại 
trong thế giới này; 
nay tôi tán dương 
bậc tôn cao ấy, 
với lời tựa như 
lời tiên nhân xưa. 
(36) Cát tường hoàn thiện 
tâm trí thanh thoát
thông minh tàm quí 
danh tiếng lớn. 
Là bậc mẹ sinh 
của cả thế giới
dũng mãnh thường hành 
sự đại tinh tiến
(37) Ở trong quân trận 
chiến đấu thường thắng, 
giáo dục thuần hóa 
từ bi nhẫn nhục
Hiện làm chị cả 
của Diêm la vương
mà thường mặc áo 
kén tằm hoang xanh. 
(38) Dung nhan khi đẹp 
khi thì xấu xí
xấu thì mắt nhìn 
đã làm khiếp sợ. 
Nhiều việc đặc thù 
vượt trên thế giới
những ai tin tưởng 
thì thu nhận cả. 
(39) Hoặc ở hang núi 
chỗ sâu và hiểm, 
hoặc ở hầm sâu 
hay ở bên sông, 
hoặc ở đại thụ 
hay ở lùm cây, 
Thiên nữ phần nhiều 
cư trú như vậy. 
(40) Giả sử những người 
rừng núi hoang dã
mà thường hiến cúng 
đối với Thiên nữ
lấy những lông công 
mà làm phan cờ, 
thì cũng thường được 
Thiên nữ hộ trì
(41) Sư tử cọp beo 
thường thường vây quanh, 
bò dê gà trĩ 
cũng thường nương tựa. 
Rung cái linh lớn 
âm thanh phát ra, 
chúng núi Tân đà 
cũng nghe âm vang. 
(42) Hoặc cầm cái kích, 
đầu tóc búi tròn, 
và tay thường cầm 
tinh kỳ nhật nguyệt
Ngày chín, mười một 
của tháng trăng tối (72) 
lúc ấy thì nên 
hiến cúng Thiên nữ. 
(43) Hiện làm em gái 
Bà tô đại thiên
thấy có chiến tranh 
lòng đầy thương xót
Quan sát tất cả 
bao loại chúng sinh
thấy không có ai 
hơn được Thiên nữ
(44) Lại hiện nữ nhân 
Mục ngưu hoan hỷ
chiến với chư thiên 
thường thường đắc thắng
Có thể sống lâu 
ở trong cuộc đời
khi thì hòa nhẫn 
khi thì bạo ác
(45) Bốn loại minh luận 
của Bà la môn
trong có biến hóa
đều tinh thông cả. 
tự tại nhất 
trong chúng thiên tiên, 
tạo ra hạt giống 
cùng với đất đai. 
(46) Khi các thiên nữ 
tụ tập với nhau
Thiên nữ ứng đến 
y như thủy triều (73) . 
Với các bộ loại 
long thần dược xoa
thì làm cầm đầu 
thuần hóa được cả. 
(47) Phạn hạnh Thiên nữ 
hơn mọi nữ nhân
Nói thật, y như 
chúa tể thế giới
Trong giới vua chúa 
thì như hoa sen
Sông mê bến khổ 
thì làm cầu, thuyền. 
(48) Khuôn mặt thì giống 
mặt trăng tròn đầy. 
Đa văn toàn hảo 
nơi nương tựa
Hùng biện nổi bật 
in như núi cao. 
Ai tưởng niệm đến 
thì làm cồn, bãi (74) . 
(49) Bộ loại tu la 
cùng với chư thiên
ai cũng tán dương 
công đức Thiên nữ
Ngay như Đế thích 
với cả ngàn mắt, 
cũng nhìn với lòng 
kính trọng nồng hậu. 
(50) Chúng sinh nếu có 
mong cầu những gì, 
thì làm cho họ 
thành đạt mau chóng. 
Giúp kẻ hùng biện 
toàn hảo nghe nhớ. 
Là kẻ hơn hết 
giữ cho địa cầu. 
(51) Ở trong thế giới 
khắp cả mười phương
làm ánh đèn lớn 
chiếu soi thường xuyên
Cho đến quỉ thần 
cùng với cầm thú 
cũng toại nguyện cho 
những gì chúng cầu. 
(52) Trong mọi nữ nhân
như đỉnh núi cao. 
Sống lâu ở đời 
như tiên nhân xưa. 
Thường xuyên ly dục 
như Thiếu nữ thiên. 
Lời nói chân thành 
như Đại thế chúa. 
(53) Nhìn khắp thế giới 
chủng loại khác nhau, 
cho đến chư thiên 
của cả Dục giới
chỉ thấy Thiên nữ 
đáng xưng tôn quí
không thấy có ai 
hơn được Thiên nữ
(54) Những ai kinh hoàng 
ở trong chiến trận, 
những ai sa vào 
ở trong hố lửa, 
sông ngòi hiểm nạn 
và gặp đạo tặc
thì được làm cho 
hết cả sợ hãi
(55) Ai bị phép vua 
bắt bớ cùm kẹp, 
ai bị oán thù 
muốn giết muốn hại, 
mà nhớ Thiên nữ 
lòng không dao động
quyết định thoát được 
mọi nỗi lo sợ. 
(56) Người hiền kẻ dữ 
đều giúp đỡ cả, 
ý niệm từ bi 
thường ở trước mắt
Thế nên nay tôi 
đem lòng chân thành 
kính lạy ngưỡng vọng 
Đại biện thiên nữ. 
Bà la môn, lúc ấy, lại chú tán (75) Đại biện tài thiên nữ như sau:

(57) Tôi kính lạy bậc 
tôn quí trong đời
là mẹ hơn hết 
tất cả bà mẹ. 
Ba loại thế giới (76) 
đều hiến cúng cả. 
Mặt và dáng dấp 
ai cũng thích nhìn. 
(58) Diệu đức đa dạng 
trang sức thân thể
Mắt như cánh sen 
xanh mà lớn dài. 
Ánh sáng phước trí 
nổi tiếng khắp nơi, 
tựa như ngọc quí 
như ý vô giá
(59) Tôi nay ca tụng 
một bậc siêu việt
bậc làm thành tựu 
cho sự mong cầu, 
bậc diệu cát tường 
chân thật công đức
bậc như hoa sen 
rất ư thanh khiết
(60) Thân sắc uy nghiêm 
ai cũng thích nhìn. 
Tướng tốt hiếm có 
không thể nghĩ bàn. 
Phóng ra ánh sáng 
trí tuệ trong sạch
Ý niệm hơn hết 
trong mọi ý niệm
(61) Ví như sư tử 
nhất trong loài thú, 
thường có tám tay 
tự trang hoàng mình: 
cầm cung, cầm tên 
cầm đao, giáo, búa, 
chày, bánh xe sắt, 
cùng với dây buộc. 
(62) Đẹp đẽ thích nhìn 
tựa như trăng tròn. 
Nói năng thông suốt 
mà lại hòa nhã
Những ai trong lòng 
cầu nguyện những gì, 
bậc Thiện sĩ này 
tùy niệm thỏa mãn
(63) Đế thích, chư thiên 
đều kính trọng cả, 
đều cùng tán dương 
nơi nương tựa
Công đức xuất sinh 
thật khó nghĩ bàn, 
trong mọi thì gian 
tôi khởi cung kính 
Soa ha (svaha) (77) . 
(64) Ai muốn cầu đảo 
Đại biện thiên nữ, 
hãy y lời chữ 
bài chú tán này, 
hôm sớm tinh khiết 
chí thành mà tụng, 
thì điều cầu nguyện 
ứng nghiệm tùy tâm
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Bà la môn, lành thay, ông có thể lợi ích chúng sinh như vậy, ban cho họ yên vui, bằng cách tán dương Đại biện tài thiên nữ, thỉnh cầu da hộ, được phước vô biên (78) .

Bà la môn Kiều trần như nói những chỉnh cú tán dương và chú tán Đại biện tài thiên nữ rồi, lại nói với đại hội, thưa các vị, nếu muốn thỉnh cầu Đại biện tài thiên nữ từ mẫn da hộ, để hiện tại được hùng biện vô ngại, đại trí thông minh, ngôn ngữ tuyệt diệu, bác học kỳ tài, thảo luận văn hoa, tùy ý hoàn thành mà không ngưng trệ, thì nên làm như thế này. Trước hết chí thành thiết tha mà triệu thỉnh

Nam mô Phật đà da, 
Nam mô Đạt ma da, 
Nam mô Tăng dà da, 
Kính lạy chư vị Bồ tát
Kính lạy chư vị Độc giác
Kính lạy chư vị Thanh văn
Kính lạy chư vị Hiền thánh
Chư vị Thế tôn quá khứ hiện tại đã tập lời nói chân thật, lời nói tùy thuận, lời nói hợp thời cơ, lời nói không lừa dối. Chư vị Thế tôn trong vô lượng đại kiếp thường xuyên nói chắc chắn. Nói chắc chắn thì ai cũng tùy hỷ. Vì không vọng ngữ nên quảng trường thiệt tướng xuất ra thì khắp cả khuôn mặt, khắp cả đại lục Thiệm bộ và ba đại lục khác, khắp một ngàn cho đến ba ngàn thế giới, khắp mười phương thế giới, phủ khắp tất cả một cách bất khả tư nghị, loại trừ nhiệt lực cao độ của phiền não. Kính lạy kính lạy quảng trường thiệt tướng như vậy của chư vị Thế tôn, nguyện con thành tựu hùng biện nhiệm mầu. Con xin chí tâm kính lạy

(65) Kính lạy sự hùng biện 
của chư vị Thế tôn
Kính lạy sự hùng biện 
của chư vị Bồ tát
Kính lạy sự hùng biện 
của chư vị Độc giác
Kính lạy sự hùng biện 
của chư vị Thanh văn
(66) Kính lạy sự hùng biện 
của tiếng nói tứ đế
Kính lạy sự hùng biện 
của chánh hành chánh kiến. 
Kính lạy sự hùng biện 
của Phạn thiên, chư tiên
Kính lạy sự hùng biện 
của Ô ma đại thiên
(67) Kính lạy sự hùng biện 
của Tắc kiến đà thiên. 
Kính lạy sự hùng biện 
của Ma na tư vương. 
Kính lạy sự hùng biện 
của Thông minh dạ thiên. 
Kính lạy sự hùng biện 
của bốn Đại thiên vương
(68) Kính lạy sự hùng biện 
của Thiện trú thiên tử
Kính lạy sự hùng biện 
của Kim cang mật chủ
Kính lạy sự hùng biện 
của Phệ sốt nộ thiên. 
Kính lạy sự hùng biện 
của Tì ma thiên nữ. 
(69) Kính lạy sự hùng biện 
của Thị số thiên thần
Kính lạy sự hùng biện 
của Thất thị mạt đa. 
Kính lạy sự hùng biện 
của lời tiếng Hê lị. 
(70) Kính lạy sự hùng biện 
của Mẹ lớn các mẹ. 
Kính lạy sự hùng biện 
quỉ mẫu Ha rị để. 
Kính lạy sự hùng biện 
của chư thần Dược xoa. 
Kính lạy sự hùng biện 
của chư vương mười phương(79) . 
(71) Có bao nhiêu thắng nghiệp 
xin giúp đỡ cho con, 
làm cho con thực hiện 
sự hùng biện nhiệm mầu. 
(72) Con xin kính lạy 
bậc không dối trá
Con xin kính lạy 
bậc đã giải thoát
Con xin kính lạy 
bậc đã ly dục
Con xin kính lạy 
bậc hết triền cái (80) . 
(73) Con xin kính lạy 
bậc tâm thanh tịnh
Con xin kính lạy 
bậc đầy ánh sáng. 
Con xin kính lạy 
bậc nói chân thật
Con xin kính lạy 
bậc hết trần tập (81) . 
(74) Con xin kính lạy 
bậc ở thắng nghĩa
Con xin kính lạy 
bậc đại chúng sinh. 
Con xin kính lạy 
Đại biện thiên nữ, 
hãy làm cho con 
lời tiếng vô ngại
(75) Cầu cho cái điều 
con nguyện cầu đây 
mau chóng thành đạt 
một cách toàn hảo. 
Cầu con vô bịnh, 
cầu con yên ổn
cầu con thọ lượng 
được kéo dài ra, 
(76) cầu con thể hội 
các lời minh chú
cầu con siêng tu 
các pháp giác phần
cầu con lợi lạc 
cho bao chúng sinh
cầu con sớm toại 
tâm nguyện như trên. 
(77) Con nói những lời 
chân thành chắc thật, 
con nói những lời 
không hề dối trá
cầu sự hùng biện 
của Đại thiên nữ 
giúp đỡ cho con 
được thành đạt cả. 
(78) Cầu nguyện Thiên nữ 
ứng đến chỗ con, 
làm con nói năng 
không bị ngưng trệ, 
đưa vào mau chóng 
trong thân miệng con 
sự đại thông minh 
hùng biện toàn hảo. 
(79) Cầu nguyện làm cho 
cái lưỡi của con 
sẽ được hùng biện 
giống đức Thế tôn
và do uy lực 
của hùng biện ấy 
mà con thuần hóa 
cho bao chúng sinh
(80) Lúc con xuất ra 
lời tiếng hùng biện, 
thì tùy sự việc 
được thành tựu cả; 
bởi vì người nghe 
sinh ra kính trọng
nên nói và làm 
không vô hiệu quả
(81) Nếu con cầu nguyện 
về sự hùng biện 
sự thể ấy 
không được hiệu nghiệm
thì lời chắc thật 
Thiên nữ đã nói 
sẽ toàn thành ra 
hư vọng tất cả. 
(82) Có kẻ đã làm 
năm tội vô gián
mà lời Thế tôn 
làm họ thuần hóa
Lại như các bậc 
thánh giả La hán 
nói ra những lời 
báo đáp ân huệ
(83) Và lời các ngài 
Thu tử, Mục liên
đứng đầu thánh chúng 
đệ tử Thế tôn
Tất cả lời nói 
chân thật trên đây, 
nguyện cầu cho con 
cũng được như vậy. 
(84) Nay con chí thành 
triệu thỉnh các bậc 
thánh chúng Thanh văn 
của đức Thế tôn
nguyện xin các ngài 
mau đến chỗ con, 
tác thành cho con 
lời nguyện cầu này. 
(85) Lời cầu của con 
là lời chân thật
lời nguyện của con 
là không hư dối
Trên từ chư thiên 
của Sắc cứu cánh
cùng với thánh giả 
năm nơi Tịnh cư
(86) chư vị Phạn vương 
chư thiên Phạn phụ 
cùng với tất cả 
chư thiên Phạn chúng; 
và Đại phạn vương 
chúa tể tự phong 
của cả đại thiên 
thế giới Sách ha
(87) cùng với tất cả 
chư thiên tùy thuộc
giờ này con xin 
triệu thỉnh tất cả, 
ước nguyện tất cả 
rủ lòng từ mẫn, 
thương tưởng đến con 
mà cùng nhiếp thọ
(88) Tha hóa tự tại
Lạc biến hóa thiên
Đỗ sư đa thiên 
nơi có Từ tôn
(89) chư thiên Dạ ma
chư thiên Đao lợi
cùng với chư thiên 
nơi bốn Thiên vương
(90) tất cả chư thần 
đất nước lửa gió 
ở núi Diệu cao 
tất cả chư thần 
bảy lớp biển cả 
bảy lớp núi lớn, 
cùng với bao nhiêu 
tùy thuộc của họ; 
(91) Mãn tài, Ngũ đỉnh (82) , 
nhật nguyệt tinh tú
tất cả chư thiên 
có cái tâm nguyện 
làm cho thế giới 
nhân loại yên ổn
(92) chư thiên chư thần 
không thích tạo tội; 
quỉ mẫu cùng với 
đứa con nhỏ nhất; 
(93) lại còn tất cả 
tám bộ thiên long
(94) Nay con dựa vào 
uy lực Thế tôn 
triệu thỉnh cả, 
nguyện xin từ mẫn 
mà giúp cho con 
hùng biện vô ngại
(95) Tất cả nhân loại 
cùng với chư thiên 
những vị biết được 
tâm nguyện của người, 
nguyện đem thần lực 
gia hộ cho con, 
giúp con có được 
hùng biện nhiệm mầu. 
(96) Cho đến nguyện cầu 
hết thảy chúng sinh 
cùng tận không gian 
khắp cả pháp giới
giúp con có được 
hùng biện nhiệm mầu. 
Đại biện tài thiên nữ, bấy giờ, nghe lời nguyện cầu như vậy, thì nói với Bà la môn, rằng lành thay, đại nhân! Nếu thiện nam hay thiện nữ nào có thể y theo minh chú và chú tán như trước đã nói mà thọ trì đúng cách, qui kính Tam bảo, chí thành chánh niệm, thì mọi sự cầu nguyện đều không vô hiệu. Những người ấy nếu còn thọ trì đọc tụng bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này, thì mọi sở nguyện càng không vô hiệu, thành đạt mau chóng, trừ kẻ không có chí tâm. Bấy giờ Bà la môn, từ trong tâm trí sâu xa, rất là hoan hỷ, chắp tay thành kínhvâng lời.

Đức Thế tôn bảo Đại biện tài thiên nữ, rằng lành thay, thiện nữ! Thiện nữ có thể quảng bá kinh này như vậy, hộ vệ cho những người thọ trì kinh này, và lợi ích cho chúng sinh an lạc.

Khi đức Thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này, [kết thúc rằng] ban cho hùng biện thì bất khả tư nghị, phước được vô lượng, làm cho những người phát tâm cùng đi mau đến vô thượng bồ đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11539)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10218)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10592)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant