Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8336)
Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì (90)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Đại cát tường thiên nữ, rằng nếu có thiện nam hay thiện nữ đức tin trong sáng nào muốn đem cúng phẩm bất tư nghị phụng hiến chư vị Như lai trong ba thì gian, lại muốn thấu hiểu hành xứ (91) rất sâu của các Ngài, thì người ấy quyết định phải hết lòng tùy bản kinh vua này ở đâu hãy diễn giảng quảng bá cho chúng sinh chỗ ấy, dầu chỗ ấy là thành thị, xóm làng hay trong chằm núi. Còn những người nghe pháp thì phải bỏ tâm tưởng tán loạn mà tập trung thính giác, chuyên chú tâm trí. Bấy giờ đức Thế tôn liền nói những chỉnh cú sau đây cho chư thiênđại hội.

(1) Đối với chư Như lai 
muốn hiến cúng siêu việt
lại muốn hiểu lĩnh vực 
sâu xa của các Ngài, 
(2) thì thấy ai diễn giảng 
kinh Ánh sáng hoàng kim
hãy đích thân đi đến 
những chỗ diễn giảng ấy. 
(3) Kinh ấy khó nghĩ bàn, 
phát sinh mọi phước đức
trong biển khổ rộng lớn 
cứu vớt bao chúng sinh
(4) Như lai thấy kinh này 
đầu giữa cuối đều hay, 
đều sâu không lường nổi, 
thí dụ cũng không bằng. 
(5) Giả như cát sông Hằng
bụi đại địa, nước biển, 
đá núi cả không gian
không ví được ít phần. 
(6) Muốn hội nhập pháp tánh 
hãy lắng nghe kinh này: 
nơi chùa tháp pháp tánh 
mới khéo được hội nhập. 
(7) Trong chùa tháp như vậy 
Thấy ta, đấng Mâu ni
với ý đẹp lời hay 
quảng diễn kinh vua này. 
(8) Thấy thế nên nhiều kiếp 
số lượng khó nghĩ bàn, 
thường ở trong trời người 
hưởng được vui siêu việt
(9) Lắng nghe kinh vua này 
hãy tư duy như vầy
ta được một hợp thể 
phước đức bất tư nghị
(10) Giả sử khối lửa lớn 
trải dài trăm thiện na, 
nhưng vì nghe kinh này 
bước qua không do dự
(11) Đến chỗ giảng kinh này 
được nghe kinh này rồi, 
ác nghiệp loại trừ hết, 
ác mộng cũng loại trừ. 
(12) Ác tinh và biến quái 
cổ đạo cùng tà mị, 
lúc nghe được kinh này 
thì rời xa tất cả. 
(13) Hãy trang trí tòa cao 
đẹp sạch tựa hoa sen
pháp sư ngồi trên đó 
trông như chúa đại dương
(14) An tọa pháp tòa rồi 
giảng kinh sâu xa này, 
lại sao chép tụng trì 
giải thích ý nghĩa 
(15) Pháp sư rời tòa ấy 
đi đến các nơi khác
thì nơi tòa cao ấy 
tưởng thấy bao thần biến
(16) Hoặc thấy hình pháp sư 
còn ngồi trên tòa cao. 
Hoặc thấy hình Như lai 
cùng chư vị Bồ tát
(17) Hoặc tưởng đức Phổ hiền, 
hoặc tưởng Diệu cát tường
hoặc thấy Từ thị tôn, 
ngồi trên tòa cao ấy. 
(18) Hoặc thấy tướng kỳ diệu 
hay thấy hình chư thiên
và mới thấy như vậy 
thoạt cái đã biến mất. 
(19) Thấy những điềm lành ấy 
làm gì cũng vừa ý
phước đức viên mãn cả: 
Như lai nói như vậy. 
(20) Siêu việtdanh tiếng
hủy diệt mọi phiền não
giặc ngoại xâm trừ được, 
chiến đấu thường đắc thắng
(21) Ác mộng toàn không có 
độc tố cũng tiêu tan
ác nghiệp thân miệng ý 
kinh lực cũng diệt được. 
(22) Trong đại lục Thiệm bộ 
danh tiếng tràn đầy cả, 
bao nhiêu những oán thù 
rời xa được hết thảy. 
(23) Thù địch đến xâm lăng 
nghe danh cũng triệt thoái
không động đến vũ khí, 
đối trận sinh hoan hỷ
(24) Phạn vương và Đế thích
bốn Thiên vương hộ thế
Kim cương dược xoa
Chánh liễu tri đại tướng
(25) long vương hồ Vô nhiệt
cùng với Sa yết la, 
nhạc thần Khẩn na la
Tô la kim sí chủ, 
(26) Đại biện tài thiên nữ
Đại cát tường thiên nữ, 
chư thiên đứng đầu này 
thống lãnh cả thiên chúng
(27) thường hiến cúng Như lai 
Pháp bảo siêu việt
thường sinh tâm hoan hỷ 
tôn kính kinh vua này. 
(28) Thiên chúng như thế này 
đều cùng nhau suy nghĩ
quan sát người làm phước 
rồi cùng nói như vầy
(29) Hãy coi những người ấy 
là bậc đại phước đức
thiện căn tinh tiến lực 
sẽ sinh lên Thiên giới
(30) Để nghe kinh vua này, 
người ấy kính đến đây, 
hiến cúng chùa tháp Pháp 
vì lòng tôn trọng Pháp. 
(31) Người ấy thương chúng sinh 
mà làm đại lợi ích
và là đồ chứa đựng 
kinh vua sâu xa này. 
(32) Nhập được pháp môn này 
là nhập được pháp tánh
nên với kinh Hoàng kim 
hãy hết lòng lắng nghe. 
(33) Người ấy đã hiến cúng 
vô số chư Như lai
do thiện căn lực ấy 
mới được nghe kinh này. 
(34) Do vậy các thiên chủ
thiên nữ Đại biện tài
thiên nữ Đại cát tường
cùng bốn vị Thiên vương
(35) và vô số Dược xoa 
dũng mãnh đầy thần lực
phân nhau ra bốn phía 
thường đến hộ vệ cho. 
(36) Nhật nguyệtĐế thích
chư thần nước gió lửa, 
Phệ sốt nộ, Diêm la
Đại biện tài vân vân
(37) Các Thiên vương hộ thế 
dũng liệt, đủ uy thần
hộ vệ người trì kinh 
ngày đêm không rời xa. 
(38) Đại lực dược xoa vương, 
Na la diên, Tự tại
hâm tám thần Dược xoa, 
Chánh liễu tri cầm đầu, 
(39) và trăm ngàn Dược xoa 
sức lớn lại thần thông
thường đến chỗ hiểm nguy 
ủng hộ người trì kinh. 
(40) Kim cương dược xoa vương 
với năm trăm tùy thuộc
cùng chư đại bồ tát 
cũng thường đến hộ trì
(41) Bảo vương dược xoa chủ, 
cùng với Mãn hiền vương, 
Khoáng dã, Kim tì la
Tân độ la, Hoàng sắc (92) . 
(42) Mỗi dược xoa vương này 
cùng năm trăm tùy thuộc
thấy ai nghe kinh vua 
thì cùng đến hộ vệ
(43) Thái quân, Kiền thát bà, 
Vi vương, Thường chiến thắng, 
Châu cảnh và Thanh cảnh
và Bột lý sa vương, 
(44) Đại tối thắng, Đại hắc, 
Tô bạt noa kê xá, 
Bán chi ca, Dương túc, 
cùng với Đại bà dà, 
(45) Tiểu cừ và Hộ pháp
cọng với Di hầu vương
Châm mao và Nhật chi, 
Bảo phát, cùng đến giúp. 
(46) Đại cừ, Nặc câu la
Chiên đàn, Dục trung thắng, 
Xá la với Tuyết sơn
cùng với Sa đa sơn (93) , 
(47) đều có thần thông lớn 
hùng mãnh đủ đại lực
thấy người trì kinh ấy, 
cùng đến mà hộ vệ
(48) A na bà đáp đa, 
cùng với Sa yết ra, 
Mục chân, Ê La diệp, 
Nan đà, Nan đà nhỏ (94) , 
(49) rồng trong trăm ngàn rồng, 
đủ thần thông uy đức
cùng giúp người trì kinh, 
ngày đêm không rời bỏ. 
(50) Bà trĩ, La hầu la
Tì ma chất đa la
Mẫu chỉ chiêm bát ra, 
Đại kiên và Hoan hỷ (95) . 
(51) Và tô la vương khác 
cùng vô số thiên chúng
có sức lớn, mạnh mẽ, 
đều đến giữ người ấy. 
(52) Mẫu thần Ha lị để, 
Dược xoa chúng năm trăm, 
người trì kinh thức dậy 
là đến hộ vệ cho. 
(53) Chiên trà, Chiên trà lị, 
Chiên trĩ nữ dược xoa
Côn đế, Câu tra xỉ, 
Hút tinh chất chúng sinh (96) , 
(54) thần chúng như thế ấy 
sức lớn, có thần thông
giữ gìn người trì kinh 
ngày đêm thường không rời. 
(55) Vô lượng các thiên nữ 
Biện tài thiên cầm đầu, 
bao nhiêu là tùy thuộc 
Cát tường thiên lãnh đạo
(56) Nữ thần đại địa này, 
thần trái hạt vườn rừng, 
thần cây, thần sông rào, 
thần chùa tháp, vân vân
(57) chư thiên thần như vậy 
lòng sinh đại hoan hỷ
cùng đến mà hộ vệ 
người đọc tụng kinh vua. 
(58) Thấy ai trì kinh vua, 
tăng thọ lượng sắc lực, 
tăng uy quang phước đức
tăng tướng tốt trang nghiêm
(59) mà tinh tú biến quái 
xúc phạm đến người ấy, 
thì đến nỗi ác mộng 
cũng làm cho tan biến. 
(60) Nữ thần đại địa này 
Kiên cố đầy uy thế, 
bằng năng lực pháp vị 
của kinh vua Hoàng kim
(61) làm cho màu mỡ đất 
vốn thấm xuống rất sâu, 
nay lại được thấm lên 
tươi nhuần cho đại địa
(62) Đại địa dày sáu mươi 
tám ức du thiện na, 
từ ngoại biên kim cương 
màu đất vẫn thấm lên. 
(63) Lại do nghe kinh vua 
được khối đại công đức
làm cho chính chư thiên 
cũng nhờ được ích lợi
(64) làm cho chư thiên ấy 
tăng uy lực ánh sáng, 
tăng hoan hỷ yên vui, 
hết hiện tượng suy đồi
(65) Đại lục phía nam này 
thần cây trái lúa thóc 
cũng do lực kinh vua 
mà tâm thường hoan hỷ
(66) làm lúa cây thành thục
bông hoa đều sum sê, 
trái hạt đầy phẩm chất, 
tất cả tràn đại địa
(67) Bao nhiêu loại cây cỏ, 
và cả những vườn rừng, 
đều sinh ra hoa đẹp, 
hương thơm thường lan tỏa. 
(68) Những loại cây có hoa 
kết ra các thứ trái, 
thì trái ngon và ngọt, 
và chỗ nào cũng có. 
(69) Cũng tại đại lục này, 
vô số những long nữ 
tâm sinh đại hoan hỷ
cùng vào trong ao hồ. 
(70) Sen hồng, sen trắng nở, 
sen xanh và sen trắng, 
ao hồ nào cũng trồng 
và hoa đầy ao hồ. 
(71) Uy lực kinh vua này 
làm không gian trong sáng
mây mù bị xua tan
toàn bộ đều sáng sủa. 
(72) Thái dương phóng ánh sáng 
trong suốtrực rỡ
do lực kinh vua này 
sáng huy hoàng khắp nơi. 
(73) Uy lực kinh vua này 
hỗ trợ cho quốc chúa, 
có và dùng vàng ròng 
kiến tạo cung điện. 
(74) Thần thái dương vui vẻ 
nhìn thấy đại lục này, 
nên thường đem sáng lớn 
chiếu rực khắp mọi nơi
(75) Do vậy trong đại địa 
bao nhiêu hồ ao sen, 
ánh sáng chiếu đúng lúc 
nên hoa sinh nở cả. 
(76) Trong cả đại lục này 
trái hạt và dược liệu 
đều khéo thành thục hết 
và tràn đầy đại địa
(77) Do uy lực kinh vua, 
nhật nguyệt chiếu đến đâu 
tinh tú đúng hành độ 
gió mưa thuận thời tiết. 
(78) Khắp đại lục Thiệm bộ 
đất nước rất giàu vui, 
chỗ nào có kinh vua 
hơn chỗ khác bội phần. 
(79) Kinh Ánh sáng hoàng kim 
quảng bá đến chỗ nào, 
có người giảng và tụng 
thì phước được như vậy. 
Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ, cùng chư thiên vân vân, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết như vậy thì ai cũng đại hoan hỷ, nhất tâm hộ vệ kinh vua và những người thọ trì kinh vua, làm cho những người ấy không lo buồn, được an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11881)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19475)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16510)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant