Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7615)
Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng

Nói cho đại hội về chuyện xưa của mười ngàn thiên tử rồi, đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thầnđại hội, rằng trong quá khứ, Như lai đi theo đường đi bồ tát, chẳng những cho nước cho ăn để cứu mạng bầy cá, mà đến nỗi cái thân tiếc nuối cũng xả bỏ. Sự thể như vậy đáng cùng nhau quan sát.

Bấy giờ đức Thế tôn -- bậc như lai ứng cúng chánh đẳng giác, bậc cao nhất tôn nhất trên trời dưới trời, bậc hàng trăm hàng ngàn ánh sáng chiếu khắp thế giới mười phương, bậc hoàn hảo nhất thế trí và viên mãn đại công đức -- đem các vị Bí sô và cả đại hội đến khu dân cư Bát giá ra, đi vào một cánh rừng. Ở đây đất bằng phẳng, không có gai góc, hoa danh tiếng, cỏ mềm mại, bủa khắp mặt đất. Đức Thế tôn bảo trưởng lão A nan đà hãy trải tọa cụ cho Như lai dưới gốc cây kia. Trưởng lão vâng lời, trải tọa cụ rồi, thưa, bạch đức Thế tôn, con đã trải tọa cụ sắp chỗ ngồi rồi, xin đức Thế tôn biết cho đã đến lúc thích hợp. Đức Thế tôn đến ngồi xếp bằng trên chỗ ấy, thẳng mình, chính niệm, bảo các vị Bí sô, các vị muốn thấy xá lợi của Bồ tát khổ hạnh thời xưa không? Các vị Bí sô thưa, chúng con muốn thấy. Đức Thế tôn liền dùng cái tay trăm phước trang nghiêm mà ấn xuống đất. Tức thì đại địa chấn động với sáu hình thức, và nứt ra, một ngôi tháp thất bảo bỗng nhiên xuất hiện, phủ lên trên là mạng lưới kết ngọc. Đại hội thấy vậy lấy làm hiếm có. Đức Thế tôn tức thì đứng dậy khỏi chỗ Ngài ngồi, làm lễ bảo pháp, nhiễu quanh theo chiều bên phải, rồi trở lại chỗ ngồi, bảo trưởng lão A nan đà hãy mở cửa tháp. Trưởng lão mở ra, thấy có cái hộp thất bảo, được trang sức bằng những trân bảo kỳ lạ. Trưởng lão bạch đức Thế tôn, có cái hộp thất bảo, trang sức bằng các loại ngọc. Đức Thế tôn bảo hãy mở ra. Trưởng lão tuân mệnh, mở ra, thì thấy có xá lợi trắng như bạch mã não, như tuyết, như sen trắng (100) . Trưởng lão bạch đức Thế tôn, trong hộp có xá lợi, màu đẹp khác thường. Đức Thế tôn bảo hãy đem xá lợi của đại sĩ lại đây. Trưởng lão A nan đà liền lấy xá lợi ấy kính trao cho đức Thế tôn. Ngài cầm lấy mà bảo các vị Bí sô, các vị hãy nhìn xá lợi của Bồ tát khổ hạnh. Ngài lại nói chỉnh cú:

(1) Đức cao của Bồ tát 
tương ứngtuệ giác
dũng mãnhtinh tiến 
viên mãn cả sáu độ. 
Thường xuyên tu không ngừng 
và chỉ vì bồ đề
không rời sự kiên cố 
tâm khôngmệt mỏi
Các vị Bí sô, hãy cùng nhau kính lạy xá lợi của Bồ tát. Xá lợi này được xông bởi vô lượng hương liệu giới định tuệ, là ruộng phước tối thượng, cực kỳ khó gặp. Các vị Bí sô, và cả đại hội, đều nhất tâm, chắp tay, cung kínhđảnh lễ xá lợi ấy, tán dương hiếm có. Bấy giờ trưởng lão A nan đà bước tới, lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, Ngài là vị thầy cao cả, vượt trên hết thảy, được hết thảy chúng sinh tôn kính, tại sao lại lạy linh cốt xá lợi này? Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan đà, Như lai nhờ xá lợi này mà tốc chứng vô thượng bồ đề. Để báo ơn xưa nên Như lai kính lạy. Ngài lại bảo, An nan đà, Như lai sẽ giải trừ hoài nghi cho trưởng lão, và cả đại hội, mà nói chuyện cũ của xá lợi này. Các người hãy khéo nghĩ, hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Trưởng lão A nan đà thưa, chúng con ước muốn được nghe. Xin đức Thế tôn khai thị cho chúng con.

Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan đà, quá khứ có một quốc vương tên Đại xa, giàu lớn, lắm của, kho lẫm đầy ắp, quân binh vũ dũng, ai cũng khâm phục. Quốc vương lại thường xuyên đem chánh phápkhai hóa đến cả những người đen đủi. Quốc dân đông đảo, không có giặc thù. Hoàng hậu sinh được ba con trai, đẹp, nghiêm, ai cũng thích nhìn. Thái tử tên Ma ha ba la, thứ tử tên Ma ha đề bà, ấu tử tên Ma ha tát đỏa. Bấy giờ quốc vương xuất du núi rừng. Ba vương tử cũng tùy tùng. Ham tìm hoa trái nên ba anh em tách ra, đi quanh quẩn đến nhằm khu rừng tre lớn, nghỉ ngơi ở đây. Vương tử thứ nhất nói, anh cảm thấy sợ hãi, chỗ này có mãnh thú hại chúng ta chăng? Vương tử thứ hai nói, chưa bao giờ em tiếc thân mình, chỉ sợ người thân có cái khổ biệt ly. Vương tử thứ ba thưa hai anh.

(2) Đây là nơi chốn 
thần tiên cư trú. 
Em không sợ hãi
không khổ biệt ly
Thân và tâm em 
tràn ngập hoan hỷ
cái điềm sẽ được 
công đức đặc thù ! 
Ba vương tử nói linh tính mình rồi đi tới, thấy con cọp sinh bảy con. Sinh mới mấy ngày mà cọp mẹ bị bầy con quấn quýt nên đói khát, thân hình gầy ốm, có vẻ sắp chết. Vương tử thứ nhất nói cọp này thật đáng thương, bị con quấn quýt, không đi kiếm ăn được, đói quá chắc phải ăn đến con. Vương tử Tát đỏa hỏi anh, cọp mẹ này thường ăn thứ gì? Vương tử thứ nhất nói với em

(3) Cọp báo sói sư tử 
chỉ ăn thịt máu nóng 
chứ không ăn gì khác 
mà qua cơn đói này. 
Vương tử thứ hai nghe thế, nói con cọp này đói sắp chết, nhưng chúng ta làm sao kiếm được thực phẩm như anh nói? Ai chịu bỏ thân mạng mà cứu cơn đói của nó? Vương tử thứ nhất nói, không có gì khó bỏ cho bằng thân mình. Vương tử Tát đỏa nói, chúng ta tiếc nuối thân mạng, lại không trí tuệ, không làm được gì lợi cho kẻ khác. Nhưng bậc đại sĩ thì có đại bi tâm, thường vì lợi người mà bỏ mình. Vương tử Tát đỏa nghĩ riêng, thân ta đây hàng trăm hàng ngàn đời vất bỏ thối rã mà chẳng được ích gì, tại sao ngày nay ta không bỏ để cứu cái khổ cơn đói. Cả ba vương tử nói với nhau như trên kia, ai cũng thương xót, ái ngại nhìn cọp đói, bồi hồi bỏ đi. Nhưng vương tử Tát đỏa lại liên tiếp nghĩ riêng, nay chính là lúc thích đáng cho ta bỏ thân này. Tại sao?

(4) Vì xưa đến nay 
ta giữ thân này, 
cái thân xú uế 
không thể thích được. 
Ta cấp đồ nằm 
cùng với đồ mặc, 
cung đốn xe ngựa 
và bao của quí. 
(5) Nhưng thân hư rã 
vì vốn vô thường
cầu hoài không thỏa 
giữ mãi vẫn chết. 
Ta cung dưỡng nó 
nó lại hại ta, 
cuối cùng bỏ ta 
chẳng biết ơn nghĩa! 
Thêm nữa, thân này không bền, vô ích cho ta. Thân này đáng sợ như giặc, dơ bẩn như phân. Ngày nay ta sai cái thân này làm cái việc cao cả. Trong biển sinh tử, nó phải là thuyền tàu to lớn. Nó phải bỏ luân hồi, đạt đến giải thoát. Vương tử lại nghĩ, bỏ thân này là bỏ không ít ác bịnh và bao nhiêu kinh hãi. Thân này chỉ có phân giải. Nó mong manh như bóng nước. Nó, nơi sâu giòi tập hợp, sống chỉ vì gân cốt huyết mạch dính líu với nhau. Vậy ta nên bỏ, để cầu Niết bàn tối thượngcứu cánh. Ở đó vĩnh biệt vô thường, vĩnh ly sinh tử, vĩnh đoạn trần lụy. Ở đó huân tu bằng định lựctuệ lực, trang nghiêm với cả trăm phước đức. Ở đó hoàn thành nhất thế trí, chứng đắc diệu pháp thân. Hoàn thànhchứng đắc như vậy rồi đem cho chúng sinh vô biên pháp lạc. Vương tử Tát đỏa bấy giờ nổi dậy sự đại dũng mãnh, phát ra sự đại thệ nguyện, và tăng cường tâm mình bằng sự đại từ bi. Nhưng vương tử sợ hai anh lưu luyến sợ hãicản trở, nên nói, hai anh đi trước, em đi sau một chút. Vương tử Ma ha tát đỏa liền trở lại khu rừng, đến chỗ cọp đói, thoát hết y phục mắc trên cây tre, phát nguyện như vầy.

(6) Ta vì chúng sinh 
khắp cả pháp giới
chí cầu Bồ đề 
tuệ giác tối thượng
Khởi tâm đại bi 
không thể dao động
mà bỏ cái thân 
phàm phu luyến tiếc. 
(7) Trạng huống Bồ đề 
không có nóng bức
ai người có trí 
đều rất ưa thích
Bao nhiêu chúng sinh 
trong biển khổ lớn, 
ta nguyện cứu vớt 
đưa lên Bồ đề
Vương tử phát nguyện như vậy rồi đến nằm buông mình trước cọp đói. Nhưng do uy thế từ bi của Bồ tát, cọp không làm gì được. Thấy vậy, Bồ tát chạy lên núi cao mà gieo mình xuống, thì thần tiên tiếp đỡ nên không thương tổn gì. Vương tử nghĩ, cọp đói lả, không ăn ta nổi. Liền đứng dậy tìm dao, dao không có. Nên vương tử lấy tre khô thích cổ chảy huyết, đi lại bên cọp. Bấy giờ đại địa chấn động với sáu hình thức, như gió khích nước, vọt lên dội xuống không yên. Mặt trời không sáng, như bị la hầu che. Khắp nơi mờ tối, không còn ánh sáng. Chư thiên rải xuống danh hoa và diệu hương khắp cả khu rừng. Trong không gian, chư thiên nhìn cảnh tượng như vậy thì tâm tùy hỷ, than hiếm có, cùng khen lành thay bậc đại sĩ! Họ ca tụng

(8) Đại sĩ vận dụng 
đại bi cứu vật, 
nhìn toàn chúng sinh 
coi như con một; 
mạnh mẽ hoan hỷ
lòng không tiếc nuối, 
xả thân cứu khổ
việc thật khó lường! 
(9) Quyết định đạt đến 
chân thường siêu việt
thoát bỏ sinh tử 
mọi thứ buộc ràng; 
mau chóng chứng được 
tuệ giác Bồ đề
vắng lặng yên vui 
thể hiện Vô sinh
Bấy giờ cọp đói ngửi thấy huyết từ cổ Bồ tát chảy ra thì liếm lấy, và ăn hết thịt Bồ tát, còn lại chỉ có xương.

Vương tử thứ nhất thấy đất động thì nói với em hai

(10) Đại địa núi sông 
chấn động tất cả, 
bốn phía mờ tối 
không ánh mặt trời
thiên hoa rơi xuống 
khắp cả không gian
chắc chắn là điềm 
em ba bỏ mình. 
Vương tử thứ hai nghe anh nói rồi, tự nói chỉnh cú

(11) Em nghe Tát đỏa 
nói lời từ bi
khi thấy cọp đói 
thân thể ốm xọp, 
đói hành nó quá 
chắc ăn cả con. 
Em nghi em ba 
xả thân mất rồi. 
Vương tử thứ hai rất buồn rầu đau khổ, khóc lóc than thở. Tức khắc cùng anh trở lại chỗ cọp. Thì thấy y phục của em treo để trên tre, còn xương với tóc thì vung vãi ra. Máu thấm đỏ cả đất. Thấy thế ngất đi, không tự chủ được. Rơi mình trên xương em, hồi lâu mới tỉnh, dơ tay, kêu gào, khóc lớn, than thở:

(12) Em ta dung mạo đẹp, 
cha mẹ thương hơn hết, 
tại sao cùng ra đi 
giờ bỏ mình, không về! 
(13) Nếu cha mẹ ta hỏi, 
ta phải nói thế nào? 
Thà ta cùng bỏ mình, 
chứ sống để làm gì? 
Hai anh em vương tử khóc lóc áo não, tạm rời mà về. Trong khi những kẻ tháp tùng của vương tử út thì bảo nhau, vương tử đi đâu, chúng ta phải tìm.

Còn hoàng hậu thì ngủ trên lầu cao. Trong mộng thấy hiện tượng bất tường. Nhũ bộ bị cắt cả đôi. Răng rụng hết. Được ba con bồ câu non, một con bị cắt bắt, hai con kinh hoàng. Khi động đất, hoàng hậu thức, thì trong lòng sầu não:

(14) Tại sao hôm nay 
đại địa chấn động
sông ngòi rừng rú 
đều rung lắc cả, 
mặt trời mờ tối 
như bị che khuất
mắt máy vú động 
khác hơn ngày thường? 
(15) Tim như trúng tên 
lo sợ bức xúc, 
cả người run rẩy 
không kềm chế được. 
Hiện tượng bất tường 
mà ta mộng thấy, 
tất có tai biến 
phi thường nào đây! 
Nhũ bộ của hoàng hậu bỗng nhiên chảy sữa. Bà nghĩ tất có biến quái. Bấy giờ thị nữ nghe người ngoài nói tìm vương tử chưa được thì sợ quá, tức tốc vào tâu với hoàng hậu, rằng xin hoàng hậu biết cho, ở ngoài người ta bổ ra đi tìm vương tử khắp cả mà chưa thấy. Hoàng hậu nghe thế càng lo sợ, nước mắt đầy tròng, đến chỗ quốc vương mà tâu: Đại vương, thần thiếp nghe người ngoài nói đứa con nhỏ nhất mà chúng ta thương nhất đã mất đâu rồi. Quốc vương nghe thì kinh hoàng, nấc lên: Khổ quá, ta mất đứa con yêu thương rồi. Nhưng ông phải lau nước mắt mà an ủi hoàng hậu: Hiền thủ, đừng khóc nữa. Chúng ta cùng đi tìm đứa con yêu thương của chúng ta. Rồi ông cùng hoàng hậu và thần dân ra khỏi hoàng thành, phân tán tìm tòi khắp nơi. Một lát, một đại thần bước tới, tâu rằng đã nghe các vương tử hãy còn, xin vương thượng đừng lo. Chỉ vương tử nhỏ nhất thì tìm chưa thấy mà thôi. Quốc vương nghe vậy, than thở khổ thay cho ta, ta mất đứa con thương yêu nhất rồi!

(16) Khi mới có con 
ta vui mừng ít, 
giờ con mất đi 
ta khổ sở nhiều. 
Ai làm con ta 
sống còn lại được, 
thì mất mạng ta 
ta cũng không khổ. 
Hoàng hậu nghe thì như bị trúng tên bắn, than thở

(17) Con ta ba đứa 
đi với thị tùng, 
cùng vào trong rừng 
thưởng ngoạn cảnh trí
Giờ đứa nhỏ nhất 
mình nó không về, 
chắc chắn có điều 
tai biến mất rồi! 
Kế tiếp, vị đại thần thứ hai đến chỗ quốc vương, vương hỏi ngay, con ta đâu? Đại thần áo não, lưỡi khô, cổ rát, miệng không nói được, không biết trả lời làm sao. Hoàng hậu bảo

(18) Thượng quan nói gấp, 
con ta ở đâu? 
Ta nóng cả người 
như thiêu như đốt, 
kinh hoàng hoảng hốt 
mất cả bình tâm, 
đừng để bụng ta 
rách vỡ cả ra! 
Vị đại thần phải đem việc vương tử xả thân mà tâu quốc vương. Quốc vương với hoàng hậu nghe rồi, bi thiết không thể chịu nổi, nhắm chỗ vương tử xả thân mà chạy tới. Đi đến rừng tre, chỗ Bồ tát xả thân. Thấy xương vung vãi, ai cũng gieo mình xuống đất, cơ hồ sắp chết. Họ như đại thọ bị gió mạnh xô ngã. Họ bất tỉnh. Đại thần rưới nước, một lát tỉnh lại. Họ lại dơ tay, khóc, than:

(19) Tai họa cho con! 
con đẹp đẽ lắm! 
tại sao cái chết 
áp bức con trước? 
Phải chi nếu cha 
được chết trước con 
thì đâu phải thấy 
khổ quá thế này! 
Hoàng hậu hơi tỉnh, lại đầu bù tóc rối, hai tay đấm bụng, quằn quại dưới đất. Như cá trên đất, như bò mất con, hoàng hậu buồn thảm:

(20) Ai giết mất con ta 
mà chỉ còn xương cốt? 
ta mất con yêu thương 
bi thiết chịu sao nổi! 
(21) Ai giết mất con ta 
gây ra cảnh bi thảm? 
lòng ta phi kim cương 
làm sao không tan nát! 
(22) Trong mộng ta đã thấy 
nhũ bộ ta bị cắt, 
răng cũng rụng mất cả, 
nay khổ quá thế này! 
(23) Lại mộng ba bồ câu 
một bị cắt bắt đi, 
ra ta mất con quí, 
ác mộng thật không sai! 
Bấy giờ quốc vương, cùng hoàng hậu với hai con, ai cũng gào khóc, bỏ cả chuỗi ngọc. Họ cùng quốc dân thu nhặt xá lợi của Bồ tát, tôn trí trong tháp để hiến cúng. Trưởng lão A nan đà, các người nên biết, đây là xá lợi ấy của Bồ tát.

Đức Thế tôn lại bảo trưởng lão A nan đà, xưa kia, Như lai đủ cả tham sân si, mọi thứ phiền não, vậy mà ngay trong năm nẻo đường dữ, Như lai vẫn tùy cảnh ngộ cứu vớt chúng sinh ra khỏi chỗ ấy; huống chi nay đây Như lai đã hết cả phiền não, thói quen cũng không còn, được gọi là bậc Thiên nhân sư, đủ Nhất thế trí, mà không thể vì mỗi một chúng sinh trải qua nhiều kiếp ở ngay trong địa ngục, và bao chỗ khác, thay họ chịu khổ, làm cho họ thoát ly sinh tử, phiền nãoluân hồi hay sao. Bấy giờ đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(24) Như lai nhớ quá khứ 
vô lượng vô số kiếp, 
khi thì làm quốc vương 
khi thì làm vương tử. 
(25) Thường làm bố thí lớn, 
cho cả thân đáng tiếc, 
nguyện thoát sinh tử khổ 
đi đến đại bồ đề 
(26) Xưa có quốc gia lớn 
quốc vương tên Đại xa
vương tử tên Dũng mãnh 
bố thí không tiếc lẫn. 
(27) Vương tử có hai anh 
Đại cừ với Đại thiên
Ba anh em xuất du, 
đi lần vào núi rừng
(28) Thấy cọp mẹ bị đói 
thì nghĩ như thế này, 
cọp bị đói hành hạ 
mà không có gì ăn. 
(29) Đại sĩ thấy như thế 
sợ nó ăn con nó, 
nên xả thân không tiếc 
để cứu cả mẹ con
(30) Đại địa và núi non 
đồng thời chấn động cả, 
sông biển cũng sôi sục 
sóng dữ mà nước ngược. 
(31) Trời đất mất ánh sáng 
mờ tối không thấy gì. 
Cầm thú rừng, đồng nội 
bay chạy mất chỗ ở. 
(32) Hai anh quái mất em 
lo buồn đến bi thảm
tức khắc cùng thị tùng 
tìm khắp cả lùm rừng. 
(33) Hai anh bàn với nhau 
hãy trở lại núi sâu, 
nhìn quanh không có em 
chỉ thấy con cọp đói. 
(34) Cọp mẹ với bảy con 
miệng toàn có vấy máu, 
còn xương tàn với tóc 
thì vung vãi mặt đất. 
(35) Lại thấy có huyết chảy 
dính nhằm mấy cây rừng. 
Hai anh thấy như thế 
lòng sinh đại sợ hãi
(36) Ngã đất mà chết giấc 
mê man hết biết gì, 
bụi đất lấm cả người 
giác quan mất ý thức
(37) Thị tùng hai vương tử 
khóc lóc lòng lo sợ, 
lấy nước rưới tỉnh lại 
lại dơ tay gào khóc. 
(38) Khi Bồ tát bỏ mình 
thì mẹ ở trong cung, 
cùng năm trăm thế nữ 
đang hưởng thụ vui thú. 
(39) Hai nhũ bộ hoàng hậu 
bỗng nhiên chảy sữa ra, 
cả người như kim chích 
đau đớn rất bất an
(40) Đột nhiên nghĩ mất con 
sợ như tim trúng tên, 
tức khắc tâu vua hay 
nỗi khổ bà đang có. 
(41) Khóc lóc không nhịn được 
thảm thiết nói với vua, 
vua nên biết cho thiếp 
thiếp đang khổ vô cùng
(42) Nhũ bộ bỗng chảy sữa 
ngưng lại cũng không được, 
cả mình như kim chích 
nóng bực bụng muốn vỡ. 
(42) Điềm ác mộng trước đây 
biết chắc mất con yêu. 
Xin vua cứu mạng thiếp 
tìm biết con còn mất. 
(44) Mộng thấy ba bồ câu 
nhỏ nhất là con cưng
bỗng bị cắt bắt mất 
đau buồn khó nói hết. 
(45) Thiếp ngập trong lo sợ 
đi mau đến cái chết, 
e con không toàn mạng 
xin vua đi tìm gấp. 
(46) Lại nghe người ngoài nói 
con út tìm không thấy, 
lòng thiếp rất bồn chồn 
xin vua thương xót thiếp! 
(47) Hoàng hậu tâu vua rồi 
cả người quị xuống đất, 
đau đớn tâm mê man 
hôn mê hết hay biết. 
(48) Thế nữ thấy hoàng hậu 
ngất xỉu xuống mặt đất 
thì cất tiếng khóc lớn 
bàng hoàng mất chỗ dựa. 
(49) Vua nghe hoàng hậu nói 
cũng lo không chịu nổi, 
ra lịnh cho quần thần 
tìm kiếm con thương nhất. 
(50) Vua tôi ra hoàng thành 
chia nhau mà truy tìm, 
gặp ai cũng khóc hỏi 
thấy vương tử ở đâu. 
(51) Vương tử còn hay mất? 
ai biết đi chỗ nào? 
làm sao cho ta thấy 
giải cho ta lo sợ. 
(52) Ai cũng nghe nói chuyền 
rằng vương tử chết rồi. 
Ai nghe cũng thương cảm 
buồn đau khó chế ngự
(53) Bấy giờ Đại xa vương 
kêu than mà đứng dậy 
đến chỗ hoàng hậu ngất 
lấy nước rưới thân bà. 
(54) Hoàng hậu được nước rưới 
lát lâu mới hồi tỉnh
khóc thảm mà hỏi vua 
con của thiếp còn không? 
(55) Vua nói với hoàng hậu 
ta đã phái mọi người 
bốn hướng tìm vương tử 
nhưng chưa có tin tức
(56) Vua lại bảo hoàng hậu 
hậu đừng quá phiền muộn
cố bình tỉnh một chút 
để cùng đi tìm con. 
(57) Vua cùng với hoàng hậu 
xa giá đi mau tới, 
với tiếng kêu thê thảm 
lo như lửa đốt lòng. 
(58) Cả ngàn vạn dân chúng 
cùng đi theo nhà vua, 
cùng muốn tìm vương tử, 
tiếng kêu than không ngớt. 
(59) Vua cố tìm con yêu, 
mắt nhìn cả bốn phía, 
thấy một người bước đến, 
tóc xõa mình đầy máu, 
(60) khắp mình dính đất bụi, 
buồn khóc đi ngược lại. 
Vua thấy ác tướng ấy 
càng nóng ruột lo sợ. 
(61) Vua giơ cả hai tay 
gào thảm không tự chế. 
Vị đại thần thứ nhất 
vội vàng đến chỗ vua, 
(62) gắng gượng mà tấu bạch, 
xin đừng quá bi thương
vương tử vua thương nhất, 
hiện vẫn chưa tìm được, 
(63) nhưng lát nữa chắc đến 
để giải lo cho vua. 
Vua lại đi tới nữa 
gặp đại thần thứ hai. 
(64) Vị này đến chỗ vua 
chảy nước mắt mà tâu, 
hai vương tử hiện còn 
nhưng đang bị quá lo. 
(65) Còn vương tử thứ ba 
vô thường nuốt mất rồi. 
Cọp đói mới sinh con 
sắp ăn chính con nó. 
(66) Tiểu vương tử Tát đỏa 
thấy vậy lòng thương xót
nguyện cầu đạo vô thượng 
quảng độ cho tất cả. 
(67) Chuyên tâm đại bồ đề 
rộng sâu như biển cả, 
nên lên trên núi cao 
gieo mình trước cọp đói. 
(68) Cọp yếu nên không thể 
vồ mà ăn vương tử, 
vương tử phải dùng tre 
tự thích cổ đổ máu. 
Cọp liếm, ăn vương tử, 
chỉ còn lại xương cốt. 
(69) Vua cùng với hoàng hậu 
nghe rồi cùng ngất xỉu, 
lòng ngập trong đau thương 
trong lửa dữ phiền não
(70) Đại thần lấy nước hương 
rưới vua và hoàng hậu, 
hồi tỉnh lại thét gào 
tự tay đấm ngực bụng. 
(71) Vị đại thần thứ ba 
tâu vua như thế này, 
đã thấy hai vương tử 
ngất xỉu ở trong rừng. 
(72) Hạ thần rưới nước lạnh 
hai vương tử mới tỉnh, 
nhìn khắp cả bốn phía 
thấy như lửa lan tràn. 
(73) Nên dậy rồi lại ngã, 
gào khóc không ngưng nổi, 
và giơ tay mà than 
em tôi thật hiếm có. 
(74) Vua nghe nói như vậy 
lo càng nung nấu hơn. 
Hoàng hậu gào lớn lên 
than vãn như vầy
(75) Con út của ta 
ta thương xiết bao, 
nay thì đã bị 
quỉ chết nuốt rồi! 
Hai đứa con lớn 
tuy vẫn hiện còn, 
nhưng bị thiêu đốt 
bởi lửa lo buồn. 
(76) Ta phải đi mau 
đến dưới núi kia, 
an ủi cho chúng 
bảo tồn mạng sống. 
Hoàng hậu tức khắc 
rong xe đi tới, 
cố mong đến gấp 
chỗ út bỏ mình. 
(77) Trên đường gặp con 
vừa đi vừa khóc, 
đấm bụng áo não 
mất hết uy phong. 
Cha mẹ thấy vậy 
buồn thảm ôm con, 
cùng vào núi rừng 
chỗ út bỏ mình. 
(78) Khi đến cái chỗ 
Bồ tát xả thân
cả nhà gào khóc 
đau đớn cùng cực, 
cởi bỏ chuỗi ngọc
cùng nhau bi thương 
thu nhặt xương cốt 
của thân Bồ tát
(79) Rồi cùng mọi người 
chung nhau hiến cúng: 
đem xá lợi trên 
đặt trong hộp này, 
xây dựng tại đó 
ngôi tháp thất bảo
mới về hoàng thành 
với sự đau buồn. 
(80) Trưởng lão A nan đà
Tát đỏa xưa kia ấy 
nay là ta, Mâu ni
đừng nghĩ là ai khác. 
(81) Quốc vươngTịnh phạn
hoàng hậu là Ma da
thái tửTừ thị
thứ tử là Mạn thù
(82) Cọp là Đại thế chúa (101) , 
năm con: năm Bí sô (102) , 
một nữa: Mục kiền liên 
một nữa: Xá lợi phất
(83) Như lai nói việc cũ 
để thấy phải lợi tha 
mới là bồ tát hạnh
là nhân tố thành Phật
toàn thể đại hội này 
phải học tập như vậy. 
(84) Khi Bồ tát xả thân 
thì đã phát đại nguyện
nguyện xương cốt của mình 
sẽ lợi ích lớn lao 
cho bao nhiêu chúng sinh 
trong bao kiếp sau đó. 
(85) Và địa điểm này đây 
chính là chỗ xưa kia 
Bồ tát đã xả thân
là chỗ tháp thất bảo
trải qua nhiều kiếp 
nên vùi sâu xuống đất. 
(86) Do nguyện lực xưa kia
rằng tùy theo cơ hội 
tế độ chúng sinh
nên nay vì ích lợi 
cho bao nhiêu nhân thiên 
bảo tháp xuất hiện
Khi đức Thế tôn nói về chuyện cũ này thì cả đại hội, bao gồm vô số nhân loạichư thiên, ai cũng vô cùng bi cảm, hoan hỷ, tán dươngsự thể chưa bao giờ đã có, và cùng phát tâm vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần, Như laitrả ơn mà kính lạy. Rồi Ngài thu hồi thần lực thì bảo tháp trở lại lòng đất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17989)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12109)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12005)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12694)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12271)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11864)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11959)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11848)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12770)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12617)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13629)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12900)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13055)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15319)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12221)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14274)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19707)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14157)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24613)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant