Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Thứ 4

02 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7837)
Bài Thứ 4

KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Hoà Thượng Thích Thiện Hoa

 

Bài Thứ 4 
PHẦN CHÁNH TÔN (tt) 

13. Phật nói công đức trì kinh, nhiều hơn bố thí thất bảo
14. Bốn quả Thinh văn, không nên chấp mình có chứng quả
15. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp". 
16. Phật phá cái chấp "Bồ Tát thật có làm trang nghiêm cõi Phật". 
17. Phật dạy:"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào". 
18. Phật phá cái chấp "Thân Phật cao lớn như núi Tu Di".

13. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC TRÌ KINH NÀY NHIỀU HƠN BỐ THÍ THẤT BẢO

Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí (tài thí), thì phước đức nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm". 

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức (pháp thí) của người này nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? Vì tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này mà ra". 

Phật dạy tiếp:" Tu Bồ Đề ! Gọi là "Phật, Pháp", thực ra cũng không phải "Phật, Pháp", chỉ tạm gọi là "Phật, Pháp". 

LƯỢC GIẢI 

Đây là lần thứ hai, Phật nói về công đức thọ trì đọc tụng kinh này, nhiều hơn người bố thí thất bảo

Đoạn nầy nên chia làm ba phần để giải thích

1. So sánh phước đức giữa tài thípháp thí 

Ngọc ngà châu báu là vật rất quý, đã ít có và khó kiếm, nên không ai có nhiều được. Nhưng nếu người nào có nhiều châu báu, đựng đầy một nghìn triệu thế giới nhỏ (đại thế giới) đem ra bố thí, tất nhiên phước đức nhiều lắm. 

Nhưng, nếu có người thọ trì kinh này hoặc giảng nói cho người nghe, từ một quyển, nửa quyển, hoặc một tờ cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức của người sau, lại nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? Vì bố thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu cũng chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung sướng nhứt thời mà thôi. Còn bố thí về giáo pháp là giúp về phần tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo lý tu hành, thoát ly sanh tử luân hồi, kiến tánh thành Phật, rồi trở lại độ chúng sanh đều được giải thoát. Bởi thế nên bố thí pháp (tinh thần) tuy ít, nhưng phước đức nhiều hơn bố thí tài (vật chất). 

2. Phật và Pháp đều từ kinh này sanh. 

Kinh này là kinh "Kim Cang Bát Nhã", tức là kinh nói về "Trí huệ Phật". Trí huệ này phá núi vô minh phiền não, nhưng không bị hư hoại, nên gọi là "Kim Cang". 

Nhờ Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá hết vô minh, nên mới minh tâm kiến tánh thành Phật, nên nói:"Kinh này sanh ra chư Phật". Và sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có Trí huệ Bát Nhã mới nói ra giáo pháp, nên nói "kinh này sanh ra Pháp". 

3. Phá cái chấp "thật có Phật, Pháp". 

Đúng theo "tánh Bát Nhã Chơn không", thì nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, nên không có thể kêu gọi là gì được cả. Nhưng sở dĩ gọi "Phật, Pháp", là một danh từ, đặt ra để gọi tạm mà thôi; thật ra cũng không phải là "Phật, Pháp". Nếu còn chấp "thật có Phật, Pháp" thì không đúng với "Tánh Bát Nhã chơn không", nên Phật dạy:" Gọi là Phật Pháp, thực ra cũng không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp". 

GIẢI DANH TỪ 

Bảy món báu: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não, ngọc san hô và ngọc hổ phách

Đại thế giới: Tức là Đại thiên thế giới. Thế giới chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; 1.000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới"; 1.000 Tiểu thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; 1.000 Trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới". Một Đại thiên thế giới là một nghìn triệu thế giới nhỏ. Thế giới Ta bà là một Đại thiên thế giới

Kệ: Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều câu, như thơ tứ cú, bát cú v.v...ở nước ta. 

Thọ trì: Lãnh thọhành trì

*** 

14. BỐN QUẢ THINH VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ.

Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tu đà hoàn tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả Tu đà hoàn", nghĩ như thế có được không?" 

Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tu đà hoàn, phải không còn có thấy mình có chứng quả Tu đà hoàn (Tàu dịch Nhập lưu), thế mới thật là chứng quả Tu đà hoàn". 

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tư đà hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả Tư đà hàm"; nghĩ như thế có được không?". 

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tư đà hàm, phải không còn có thấy mình có chứng quả Tư đà hàm (Tàu dịch Nhứt lai), thế mới thật là chứng quả Tư đà hàm". 

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A na hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả A na hàm"; nghĩ như thế có đặng không?". 

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A na hàm, phải không còn có thấy mình có chứng quả A na hàm (Tàu dịch là Bất lai), thế mới thật là chứng quả A na hàm". 

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A la hán tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả A la hán"; nghĩ như vậy có đặng không?". 

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A la hán, phải không còn có thấy mình có chứng quả A la hán, thế mới thật là chứng quả A la hán. Nếu còn thấy mình chứng quả A la hán tức là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng:ngã, nhơn, chúng sanhtu hành giả, thì không phải thật chứng A la hán

Bạch Thế Tôn ! Cũng như con đây, vì con không còn chấp mình có tu chứng, nên mới được Như Lai chứng nhận:"Tu Bồ Đề đã đặng pháp Tam muội vô tránh; Tu Bồ Đề là người ưa tu hạnh tịch tịnh (A lan na); Tu Bồ Đề là vị A la hán ly dục thứ nhứt. Trong chúng, Tu Bồ Đề là hơn hết". 

Bạch Thế Tôn ! Nếu con nghĩ (châp rằng:"Con đã đặng quả A la hán, con l;à vị A_la hán ly dục thứ nhứt v.v...thì Đức Như Lai không chứng nhận và không khen ngợi con như vậy". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp của bốn quả Thinh văn, tự thấy mình có chứng quả

Trong kinh Tứ thập nhị chương có chép: 

"Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng v.v..." 

Nghĩa là: Tu mà không còn chấp mình tu, thế mới thật là tu. Chứng quả, mà không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng quả v.v.... 

Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của "Kim Cang Bát Nhã", nghĩa là không còn các vọng chấp ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới thật tu và thật chứng. 

Trái lại, nếu còn chấp ngã, pháp hay bốn tướng (ngã, nhơn v.v..) tức là không nhập được "Kim Cang Bát Nhã", thì không phải thật tu và thật chứng. 

Bởi thế nên bốn quả Thinh văn, nếu còn tự thấy mình có chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, tức là còn chấp ngã (ta chứng đặng) và chấp pháp (quả vị để chứng) thì không nhập được "Kim Cang Bát Nhã", nên không phải là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán

Ông Tu Bồ Đề, tự đem mình ra làm thí dụ điển hình. Đại ý ông nói: Nếu ông chấp rằng:"Tôi đã đặng pháp Tam muội và đặng quả A la hán v.v..." tức nhiên ông còn chấp ngã (quả A la hán) chấp pháp ( Tam muội), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì Phật đâu có ấn chứng cho ông là vị A la hán ly dục thứ nhứt v.v.... 

Ngài Phó Đại sĩ nói bài tụng giải thích rằng: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Vô sanh tức vô diệt 

Vô ngã phục vô nhơn 

Vĩnh trừ phiền não chướng 

Trường từ hậu hữu thân 

Cảnh vong tâm diệc diệt 

Vô phục khởi tham sân 

Vô bi không hữu trí 

Hốt nhiên độc nhậm chơn. 

Dịch nghĩa: 

Không sanh cũng không diệt 

Không ngã cũng không nhơn 

Dứt trừ phiền não chướng 

Không còn có thân sau 

Tâm cảnh đều vắng lặng 

Do đâu khởi tham sân 

Không bi cũng không trí 

Thế mới nhập Chơn như

ĐẠI Ý 

Nếu không còn các vọng chấp nhơn, ngã, sanh, diệt v.v...thì các phiền não không do đâu mà sanh ra. Phiền não không sanh, tức không tạo nghiệp, nên không bị sanh tử luân hồi. Vì tâm và cảnh đã vắng lặng thì do đâu khởi tâm, sân, si. Cho đến bi và trí cũng không chấp, nên chơn tâm hay chơn như tự hiện bày. 

Tóm lại, vì không còn các vô minh vọng chấp: nhơn, ngã, tâm, cảnh, sanh, diệt v.v...nên mới chứng đặng chơn tâm thanh tịnh. Như thế mới thật tu và thật chứng. 

GIẢI DANH TỪ 

Tu đà hoàn: trong bốn quả Thanh văn của Tiểu thừa, Tu đà hoàn là quả Thánh nhỏ nhứt. Tu đà hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung hoa dịch là "Dự lưu" hoặc "Nhập lưu", nghĩa là mới dự vào dòng Thánh nhơn. 

Tu đà hàm: Quả Thánh thứ hai trong bốn quả Thinh văn. Trung hoa dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Nhứt vãng lai"; nghĩa là còn một lần qua cõi nhơn, thiên để tu hành đoạn hoặc, rồi mới chứng đặng quả A la hán

A na hàm: Quả Thánh thứ ba trong bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa "Bất lai"; nghĩa là không còn trở lại thọ sanh trong Dục giới nữa. 

A la hán: Quả Thánh thứ tư trong bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, có ba: 

a. Vô sanh: Không còn sanh trở lại ba cõi 

b. Sát tặc: Đã giết hết các giặc phiền não

c. Ứng cúng: Xứng đáng cho nhơn thiên cúng dường

Do tu nhơn Tỳ kheo có 3 nghĩa, nên chứng quả A la hán cũng có 3 nghĩa: 

Nhơn Phá ác ..... Vô sanh Quả 

Tỳ kheo Bố ma ... Sát tặc A la hán 

Khất sĩ .... Ứng cúng 

TAM MUỘI: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Chánh định". 

TAM MUỘI VÔ TRÁNH: Pháp chánh định hơn hết. 

A LAN NA: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là không ồn ào náo nhiệt, vắng vẻ thanh tịnh, giải thoát không bị trần luî. 

*** 

15. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP". 

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Về quá khứ đối với trước Phật Nhiên Đăng, ta có đắc pháp không?". 

Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Đức Như Lai thật không có "đắc pháp" gì cả". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai thật có đắc pháp". 

Kinh chép:"Về quá khứ, vô lượng, vô số kiếp về trước, Đức Thích Ca đối trước Phật Nhiên Đăng, được Ngài truyền chánh phápthọ ký, tương lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni". 

Nhưng, nếu Như Lai còn chấp mình có "đắc pháp và được thọ ký" tức là Như Lai còn chấp ngã (ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì không phải là Như Lai. Bởi thế nên ông Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có đắc pháp gì cả". 

Như Lai không chấp mình có "đắc pháp" và "thọ ký", nên không mắc vào bốn tướng ngã, nhơn v.v...được nhập Kim Cang Bát Nhã. Như thế mới thật là "đắc pháp" và "được thọ ký". 

*** 

16. PHẬT PHÁ CHẤP "BỔ TÁT THẬT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT".

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật không?" 

Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát không làm trang nghiêm cõi Phật. Tại sao vậy? Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không thấy (chấp) mình có trang nghiêm cõi Phật, như thế mới thật là trang nghiêm cõi Phật". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật" 

Bồ Tát làm các Phật sự, giáo hoá chúng sanh, đó là trang nghiêm cõi Phật. Nhưng, nếu Bồ Tát còn chấp mình có làm Phật sự, giáo hoá chúng sanh, thì Bồ Tát còn tâm nhiễm ô vọng chấp ngã (ta giáo hoá) nhơn (người được giáo hoá). Đem tâm nhiễm ô vọng chấp mà làm "trang nghiêm cõi Phật", thì cõi Phật thành nhiễm ô, không thể "trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh" được. 

Trái lại, phải dùng tâm thanh tịnh (không còn các nhiễm ô vọng chấp, chấp ngã, chấp pháp v.v...) mà trang nghiêm cõi Phật, thì cõi Phật mới thanh tịnh trang nghiêm được. 

Ngài Xuyên Thiền sư dạy: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp tất qui chánh 

Tà nhơn thuyết Chánh pháp, chánh pháp tất qui tà 

Giang Bắc thành chỉ, Giang Nam quít. 

Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa. 

Dịch nghĩa: 

Người chánh nói pháp tà, tà pháp trở về chánh 

Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà. 

Cũng một cây, nhưng ở Giang bắc thì cây chỉ xát, Giang nam thì thành cây quít. 

Xuân về đều trổ một thứ hoa. 

ĐẠI Ý 

Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si v.v...) mà làm việc Đạo (làm các phật sự) thì việc Đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm Đạo (từ bi, hỷ xả v.v...)mà làm việc đời (tiếp xúc làm việc với chúng sanh) thì việc đời trở thành việc Đạo (tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v...) cũng như một thứ cây, nhưng nếu ở đất Giang Bắc thì thành cây chỉ xát, trái đặc ruột và chua, ăn không được; còn ở đất Giang Nam thì thành cây quít, trái ngọt. 

Dù việc chánh hay tà, việc đời hay đạo, đều có nhơn và có quả, chẳng qua tốt hay xấu mà thôi. Cũng như cây chỉ xát hay cây quít, Xuân về đều trổ một thứ hoa và một thứ trái; nhưng trái quít thì ngọt, mà chỉ xát lại chua. 

*** 

17. PHẬT DẠY: "ĐỪNG SANH VỌNG TÂM TRỤ CHẤP MỘT NƠI NÀO" 

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, chớ nên sanh vọng tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trầnpháp trần. Tóm lại, Bồ Tát đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả" (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). 

LƯỢC GIẢI 

Hai đoạn trên phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp" và "Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật". Đoạn này tóm lại, Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. 

Tất cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô cùng vô tận, nhưng không ngoài 18 giớilà 6 căn, 6 trần và 6 thức; căn và trần thuộc về vật chất, còn thức thuộc về tinh thần

Phật dạy các vị Bồ Tát, phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trầnpháp trần v.v... 

Tóm lại, chỉ trong một câu, Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) một nơi nào". 

Thuở xưa, ngài Huệ Năng vừa nghe phú ông tụng kinh Kim Cang Bát Nhã vừa đến câu: 

"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" 

Đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào). 

Ngài liền tỏ ngộ lý Kim Cang Bát Nhã !...Ngài hân hoan ca ngợi: "Hay quá ! kinh Kim Cang Bát Nhã hay quá !"(1) 

"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào", tức là "đừng sanh vọng tâm chấp ngã, chấp pháp v.v..." không chấp ngã, pháp thì phiền não không sanh. Phiền não không sanh thì tâm dược thanh tịnh, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Đó là phương pháp tu của Đại thừa Đốn giáo, rất giản di và mau chóng, để hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm

Sau khi đại ngộ lý kinh Bát Nhã, Tổ Huệ năng đã minh tâm kiến tánh, nên Ngài có dạy rằng: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh 

Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt 

Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc 

Hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động 

Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp 

Dịch nghĩa: 

Ai ngờ tâm mình vốn tự thanh tịnh 

Ai ngờ tâm mình vốn không sanh diệt 

Ai ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ 

Ai ngờ tâm mình vốn không diêu động 

Ai ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp 

Đức Ngũ Tổ đến lúc tuổi già, muốn chọn người để truyền Tổ vị, nên Ngài truyền dạy trong chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để trình bày sự tu chứng của mình, nếu người nào tỏ ngộ được lý Đạo, ngài sẽ truyền Tổ vị, làm Tổ thứ Sáu. 

Ngài Thần Tú là bực Thượng toạ, tài đức siêu quần, làm kệ rất hay, nhưng vì chưa tỏ ngộ được lý Kim Cang Bát Nhã, còn trụ chấp các tướng, có tu, có chứng v.v...nên bị Tổ Huệ Năng quở rằng: "Còn đứng ngoài hàng rào". 

Bài kệ của Ngài Thần Tú

Nguyên văn (dịch nghĩa): 

Thân thị Bồ Đề thọ 

Tâm như minh cảnh đài 

Thời thời thường phất thức 

Vật sử nhá trần ai

Dịch nghĩa: 

Thân là cây Bồ Đề (có tướng) 

Tâm như đài gương sáng (có tướng) 

Mỗi giờ thường lau quét (có tu) 

Chớ cho dính bụi trần (có chứng) 

Tổ Huệ Năng, đã ngộ được lý Kim Cang Bát Nhã, không trụ chấp các tướng, nên được đức Ngũ Tổ truyền trao y bát và làm vị Tổ thứ sáu. 

Bài kệ của Tổ Huệ Năng

Nguyên văn (dịch nghĩa): 

Bồ Đề bổn vô thọ 

Tâm phi minh cảnh dài 

Bổn lai vô nhứt vật 

Hà xá nhá trần ai

Dịch nghĩa: 

Bồ Đề không phải cây (vô tướng

Chơn tâm không phải đài (vô tướng

Xưa nay không một vật (vô tướng

Chỗ nào dính bụi trần (vô tướng

*** 

18. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THÂN PHẬT CAO LỚN NHƯ NÚI TU DI"

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề !báo thân của Phật như núi Tu di. Vậy Báo thân của Phật có cao lớn không?". 

Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Lớn lắm. Nhưng, Phật nói: "Không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "Báo thân Phật cao lớn". 

Từ trước đến đây, đã nhiều lần hỏi và đáp. Vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã chơn không", cho nên Phật hỏi. Và cũng vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã chơn không" cho nên ông tu Bồ Đề đáp. Nếu chúng sanh chấp có, thì Ngài nói không; chúng sanh chấp không, thì Ngài nói có v.v...Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v...đều để phá các chấp của chúng sanh, đem về "Tánh Bát Nhã chơn không". 

Phật hỏi ông tu Bồ Đề: "Báo thân cùa Phật có cao lớn không?". 

Tu Bồ Đề đáp: "Báo thân của Phật cao lớn lắm". 

Nhưng sợ chúng sanh chấp "thân Phật cao lớn", nên ông Tu Bồ Đề liền dẫn lời Phật nói để phá chấp: "Phật nói không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn". Nghĩa là: Phàm cái gì còn thấy nghe và suy nhgĩ được, thì cái đó không phải tuyệt đối; phải siiêu thoát ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt đối

Đức Lão tử nói: "Đạo mà có thể nói được, thì không pghải là Đạo". 

Tóm lại, nếu còn "chấp thân cao lớn", tất nhiên còn chấp ngãchấp pháp, thì không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên chưa phải thân cao lớn. 

GIẢI DANH TỪ 

BÁO THÂN: Phật có 3 thân: 

1. Pháp thân: tức là Pháp tánh hay chơn tâm, không có hình tướng 

2. Báo thân: Thân do phước báo tu hành, trải qua 3 vô số kiếp mới được. Kinh chép: Báo thân của Phật lớn bằng núi Tu di; duy có bực Bồ Tát mới thấy được. 

3. Ứng thân hay Hoá thân: Phật tuỳ các loại chúng sanhứng hiện hay hoá hiện ra mỗi thân, để tế độ 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19556)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23824)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41008)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19572)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23818)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21606)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23153)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27357)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26373)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29133)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 32959)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20052)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25596)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20760)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31078)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38275)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21291)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44052)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29650)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 41963)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22014)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45495)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31939)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23809)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24188)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29040)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33731)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27546)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31920)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20882)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28719)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21397)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27849)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 21938)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21319)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19384)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19309)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19704)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19097)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 28947)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20487)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28078)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23469)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 32951)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31683)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21261)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39443)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21416)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19235)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26136)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24665)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21633)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22237)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 28960)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22416)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20359)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23368)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21099)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35092)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24455)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant