Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Phẩm Phật Quốc

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6189)
1. Phẩm Phật Quốc

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

KINH (1) DUY MA CẬT (2) SỞ THUYẾT
CŨNG GỌI
Kinh “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ GIẢI THOÁT” (3)

 

I. PHẨM PHẬT QUỐC (4) 

Chính tôi được nghe, một thuở kia, đức Phật Thích Ca ở thành Tỳ Da Ly (5) nơi vườn cây Am La (6) cùng tám nghìn chúng Đại Tỳ Kheo, hai vạn hai nghìn Bồ Tát, là những vị có tiếng tăm, đều đã thành tựu trí hạnh đại thừa, do nhờ oai thần của chư Phật lập nên. Các Ngài làm bức thành hộ pháp, giữ gìn chánh pháp, diễn nói pháp âm rất oai hùng, tự tại vô úy như sư tử rống (7) danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không cầu thỉnh mà các Ngài sẵn sàng làm bạn giúp cho an vui. Các Ngài xương minh Tam bảo không dể dứt mất, hàng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo ; sáu căn (8) ba nghiệp (9) đều đã thanh tịnh ; trọn lìa năm món che ngăn (10) và mười điều ràng buộc (11). Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoát ; niệm định tổng trì (12) bình đẳng, biện tài thông suốt như suối tuôn không dứt. Các hạnh Bồ thí, trì giớí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và sức phương tiện lợi mình lợì người thảy đều đầy đủ. Đã được đến bực vô sở đắc (13) mà không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp nhẫn)(14), hay tùy thuận dìễn nói pháp luân bất thối (15), khéo hiểu rõ chân tướng các pháp, thấu biết căn cơ chúng sanh, oai đức bao trùm đại chúng(16), không còn sợ sệt chi cả. 

Các Ngài dùng công đức trí tuệ trau sửa lòng mình, lấy tướng tốt trang nghiêm thân hình, sắc tượng dung nhan bực nhứt, bỏ hẳn tất cả trang sức tốt đẹp trong đời, danh tiếng cao xa vượt hẳn núi Tu di (17), lòng tin bền chắc như kim cương, đem Pháp bảo soi khắp, mưa nước cam lố, phát ra tiếng tăm đều là vi diệu bực nhứt. 

Các Ngài đã thâm nhậpduyên khởi (18), dứt hết các tập khí kiến chấp sai lầm bên có bên không, diễn nói các pháp không sợ sệt như sư tử rống, những lời giảng nói như sấm nổ, không có hạn lượng và đã quá hạn lượng. 

Các Ngài tự mình nhóm góp rất nhiều Pháp bảo như Hải đạo sư (19), rõ nghĩa lý sâu mầu của các pháp, biết rành hiện trạng qua lại trong các cảnh thúhành vi tốt xấu trong tâm niệm chúng sanh. Gần kề bực Phật tối tôn là đấng đầy đủ trí tuệ, tự tại, thập lực (20), vô úy (21), thập bát bất cộng(22). Ngăn đóng tất cả cửa nẻo ác thú, hiện thân trong năm đường(23) hóa độ chúng sanh. Làm vị Đại Y Vương (24) khéo trị lành các bịnh, đúng theo bịnh cho thuốc đều được công hiệu. Đã thành tựu vô lượng công đức, trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi Phật. Người nào được nghe danh thấy hình đều được lợi ích. Những hành động của các Ngài đều không uổng phí, các công đức như thế, đã hoàn toàn viên mãn

Danh hiệu các Ngài là Đẳng Quán Bồ Tát, Bất Đẳng Quán Bồ Tát, Đẳng Bất Đẳng Quán Bồ Tát, Định Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tướng Bồ Tát, Quang Tướng Bồ Tát, Quang Nghiêm Bồ Tát, Đại Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát, Bảo Thu Bồ Tát, Bảo Ấn Bồ Tát, Thường Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Thường Thảm Bồ Tát, Hỷ Căn Bồ Tát, Hỷ Vương Bồ Tát, Biện âm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Chấp Bảo Cự Bồ Tát, Bảo Dõng Bồ Tát, Bảo Kiến Bồ Tát, Đế Võng Bồ Tát, Minh Võng Bồ Tát, Vô Duyên Quán Bồ Tát, Huệ Tích Bồ Tát, Bảo Thắng Bồ Tát, Thiên Vương Bồ Tát, Hoại Ma Bồ Tát, Điễn Đức Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát, Công Đức Tướng Nghiêm Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Lôi âm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bạch Hương Tượng Bồ Tát, Thuờng Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Diệu Sanh Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Phạm Võng Bồ Tát, Bảo Trượng Bồ Tát, Vô Thắng Bồ Tát, Nghiêm Độ Bồ Tát, Kim Kế Bồ Tát, Châu Kế Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, cả thay như thế ba vạn hai nghìn Ngài. 

Lại có một vạn vị Thi Khi (25), Phạm Thiên Vương từ Tứ thiên hạ (26) khác đến chỗ Phật nghe Pháp. Lại có một vạn hai nghìn vị Thiên đế cũng từ Tứ thiên hạ khác đến trong pháp hội. Các hàng chư Thiên có oai lực lớn, cùng Long thần, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la đà (27) v.v. . . đều đến trong pháp hội. Lại có các vị Tỳ kheo (28) , Tỳ kheo ni, ưu bà tắc (29), ưu bà di (30) cũng đến trong Pháp hội
Bấy gỉờ đức Phật nói Pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đông đảo cung kính vây quanh đấy, ví như núi chúa Tu di hiển bày nơi bể cả. Ngài ngồi yên trên tòa Sư tử (31) trang nghiêm bằng các thứ báu, oai đức che trùm tất cả đại chúng. Khi ấy trong thành Tỳ Da Ly có Trưỏng giả tử(32) tên là Bảo Tích với 500 vị Trưởng giả tử đồng cầm lọng bảy báu(33) đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ đầu mặt tiếp chơn, rối mỗi vị đều đem lọng báu của mình hợp nhau cúng dường Phật. Do oai đức của Phật nên khiến các lọng báu ấv hiệp thành một cây trùm khắp cõi Tam thiên đại thiên thế thế giới (34), mà tướng rộng dài của thế giới đều hiện đủ trong đó.

 Lại nữa, các núi Tu di, Mục chơn lân dà , Đại mục chơn lân đà, Tuyết sơn, Hương sơn, Bảo sơn, Kim sơn, Hắc sơn, Thiết vi, Đại thiết vi bể lớn, sông, rạch, dòng ngòi, nguốn suối, cũng với mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thiên cung, long cung và cùng các vị tôn thần, nơi cõi Tam thiên đại thiên thế giỡi này đều hiện trong lọng bảy báu, và chư Phật trong 10 phương, chư Phật đang nói pháp, cũng hiện trong lọng bảy báu ấy. 

Khi đó tất cả Đại chúng thấy thần lực của Phật đều khen ngợi chưa từng có, chấp tay làm lễ, ngắm nhìn dung nhan Phật mắt không hề nháy. Trưởng giả tử Bảo Tích liền ở trước Phật đọc bài kệ khen rằng : 

Mắt trong, dài rộng như sen xanh, 
Tâm sạch đã tột các thiền định
Lâu chứa tịnh nghiệp nói không cùng, 
Dùng tịch độ chúng (35) nên cúi lạy. 
Đã thấy Đại thánh dùng thần biến
Khắp híện mười phương không lường cõi, 
Trong đấy các Phật diễn nói pháp, 
Nơi đây tất cả đều thấy nghe. 
Pháp lực của Phật vượt quần sanh 
Thường dùng Pháp tài thí tất cả, 
Hay khéo phân biệt các Pháp tướng
Đối đệ nhứt nghĩa (36) mà không động. 
Đã được tự tại cùng các Pháp 
Cho nên cúi đầu lễ Pháp vương
Nói Pháp chẳng có cũng chẳng không 
Vì do nhân duyên các Pháp sanh, 
Không ta, không tạo, không thọ giả
Những việc lành dữ cũng chẳng mất. 
Trước tiên hàng ma nơi Phật thọ (37) 
Đặng Cam lồ diệt (38) thành đạo giác, 
Đã không tâm ý, không thọ hành (39) 
Mà xô dẹp hết các ngoại đạo
Ba lần chuyển Pháp (40) cõi đại thiên
Pháp ấy lâu nay thường thanh tịnh
Trời người đắc đạo đó là chứng, 
Tam bảo vì thế hiện trong đời
Dùng Pháp mầu này độ chúng sanh 
Thọ rồi không lui, thường vắng lặng
Khỏi già bịnh chết đấng Y Vương
Lạy ngôi Pháp hải (41) đức không lường. 
Khen chê chẳng động như Tu di 
Đồng bực thương xót kẻ lành dữ
Tâm hạnh bình dầng như hư không
Nghe đấng Nhơn bảo (42) ai chẳng kính. 
Nay dâng Thế Tôn lọng mọn này 
Cõi Tam thiên tôi hiện trong đó, 
Thiên cung, Long thần kia nương ở, 
Càn thát cả thảy với Dạ xoa
Mọi vật trong đời đều thấy rõ, 
Vì thương Phật hiện tướng biến này, 
Thấy việc ít có chúng khen ngợi, 
Nay con lạy đấng Tam giới tôn (43) 
Đại thánh chỗ nương của mọi loài, 
Lòng sạch trong đó thảy vui vẻ
Đều thấy Thế Tôn ở trước mình, 
Đó là thần lực Pháp bất cộng. (44) 
Phật dùng một tiếng diễn nói Pháp, 
Chúng sanh tùy loại thảy đặng hiểu, 
Đều cho rằng Phật đồng tiếng mình, 
Đó là thần lực Pháp bất cộng
Phật dùng một tiếng diễn nói Pháp, 
Chúng sanh chỗ hiểu tùy mỗi hạng, 
Khắp được thọ hành đều lợi ích
Đó là thần lực Pháp bất cộng
Phật dùng một tiếng diễn nói Pháp, 
Có người kinh sợ hoặc vui mừng
Có kẻ dứt nghi hoặc nhàm chán
Đó là thần lực Pháp bất cộng
Lạy đấng Thập lực đại tinh tấn
Lạy đấng đã đặng không chỗ sợ, 
Lạy đấng trụ nơi Pháp bất cộng
Lạy đấng Đạo sư (45) của muôn loài. 
Lạy đấng hay dứt mọi kiết phược(46) 
Lạy đấng đã đến nơi bờ kia, 
Lạy đấng hay vượt các thế gian
Lạy đấng trọn lìa đường sanh tử
Biết hết chúng sanh tướng đến lui 
Khéo nói các Pháp được giải thoát
Như hoa sen trong đời chẩng nhiễm, 
Thường khéo vào nơi hạnh không tịch.(47) 

Lúc đó Trưởng giả tử Bảo Tích đọc bài kệ tán thán xong, bạch Phật rằng : “'Bạch Thế Tôn ! Năm trăm vị Trưởng giả tử nầy đều đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác nguyện nghe cõi Phật thanh tịnh, cúi mong Thế Tôn dạy cho những hạnh của Bồ Tát được Tịnh độ (quốc độ thanh tịnh).” 

Phật bảo : “Hay thay Bảo Tích ! Ông lại vì các vị Bồ Tát mà hỏi Như Lai những hạnh được Tịnh độ, vậy hãy lắng nghe chín chắn, suy nghĩ kỹ nhớ lấy, ta sẽ nói cho ông rõ”. 

Lúc ấy Bảo Tích cũng 500 vị Trưởng giả tử vâng lời Phật dạy, cung kính lóng nghe. 

Phật dạy rằng : “Này Bảo Tich ! Tất cả chúng sanhcõi Phật của Bồ Tát. Vì sao ? – Bồ Tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật (Tịnh độ); tùy chỗ điều phục chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật ; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào vào trí tuệ của Phật mà lãnh lấy cõi Phật ; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào phát khởi căn tánh Bồ Tát mà lãnh lấy cõi Phật. Vì sao thế ? – Vì Bồ Tãt lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì muốn lợi ích chúng sanh. Ví như : Có người muốn xây dựng cung nhà nơi khoảng đất trống, tùy ý được thành công, nếu xây dựng giữa hư khỏng quyết không thành tựu được ; Bồ Tát cũng thế, vì thành tựu chúng sanh nên nguyện lãnh lấy cõi Phật – Nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi rỗng không vậy. 

Bảo Tích, ông nên biết ! - Trực tâm (49) là Tịnh dộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không dua vạy, sanh sang nước dó. Thâm tâm (50) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó. Bồ Đề tâm (51) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh có tâm đại thừa sanh sang nước đó. Bố thíTịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả mọi vật sanh sang nước đó. Trì giớí là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành (52), hạnh nguyện đầy đủ, sanh sang nước đó. Nhẫn nhụcTịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt (53) trang nghiêm sanh sang nước đó. Tinh tiếnTịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang nước đó. Thiền địnhTịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp tâm chẳng loạn sanh sang nước đó. Trí tuệTịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh được chánh định sanh sang nước đó. Tứ vô lượng tâm(54) là Tịnh độ của Bồ Tát ; Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả sanh sang nước đó. Tứ nhiếp Pháp (55) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó. Phương tiệnTịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng đặng phương tiện không bị ngăn ngại ở các pháp, sanh sang nước dó. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (56) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo, sanh sang nước đó. Hồi hướng tâm (57) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, được cõi nước đầy đủ tất cả công đức. Nói Pháp trừ tám nạnTịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, cõi nước không có ba đường ác (58) và tám nạn (59) . Tự mình giữ giới hạnh không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, cõi nưỡc không có tên phạm giới cấm. Mười điều lànhTịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu to, phạm hạnh (60), lời nói chắc thật, thường dùng lời dịu dàng, quyến thuộc không chia rẻ, khéo giải hòa việc đua tranh kiện cáo, lời nói có lợi ich, không ghét không giận, thấy biết chân chánh sanh sang nước đó. 

Như thế, Bảo Tích ! Bồ Tát tùy chỗ trực tâm mà hay phát hạnh, tùy chỗ phát hạnh mà được thâm tâm, tùy chỗ thâm tâm mà ý được điều phục, tùy chỗ ý được điều phục mà làm được như lời nói, tùy chỗ làm được như lời nói mà hay hồi hướng, tùy chỗ hồi hướng mà có phương tiện, tùy chỗ có phương tiệnthành tựu chúng sanh, tùy chỗ thành tựu chúng sanhcõi Phật được thanh tịnh, tùy chỗ cõi Phật thanh tịnh mà nói Pháp được thanh tịnh, tùy chỗ nói Pháp thanh tịnhtrí tuệ được thanh tịnh, tùy chỗ trí tuệ thanh tịnhtâm thanh tịnh, tùy chỗ tâm thanh tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh. Cho nên, Bảo Tích này ! 
Bồ Tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm thanh tịnh; tùy chỗ Tâm thanh tịnhcõi Phật được thanh tịnh

Lúc ấy, ông Xá Lợi Phất nương oai thần của Phật mà nghĩ rằng : “Nếu tâm Bồ Tát thanh tịnh chắc cõi Phật phải được thanh tịnh, vậy Thế Tôn ta khi trước làm Bồ Tát tâm ý lẽ nào không thanh tịnh, sao cõi Phật này không thanh tịnh như thế ?”. 

Phật biết ông suy nghĩ vậy liền bảo rằng : 
– Ý ông nghĩ sao ? Mặt trời, mặt trăng há không thanh tịnh sáng suốt ư, sao người mù không thấy ? 

– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải thế. Đó là tại người mù, không phảỉ lỗi ở mặt trờimặt trăng

– Xá Lợí Phất ! Cũng thế, bởi chúng sanh do tội chướng nên không thấy được cõi nước của Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chớ không phải lỗi ở Như Lai – Này Xá Lợi Phất ! Cõi nước của ta đây vẫn thanh tịnh mà tại ông không thấy đó thôi. 

Bấy giờ ông Loa Kế Phạm Vương thưa với ông Xá Lợi Phất rằng : 
– Ngài chớ nghĩ như thế, mà cho cõi Phật đây là không thanh tịnh. Vì sao ? – Vì tôi thấy cõi nước của Phật Thích Ca Mâu Ni thanh tịnh, ví như cung trời Tự Tại (61). 

Ông Xá Lợí Phất nói : 
– Sao tôi thấy cõi này toàn gò nỗng, hám hố, chông gai, sỏi sạn, đất đá, núi non, nhơ nhớp dẫy đầy như thế ? 

Ông Loa Kế Phạm Vương thưa rằng : 
– Đấy là do tâm của Ngài có cao thấp không nương theo trí tuệ của Phật nên thấy cõi này không thanh tịnh đó thôi – Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí tuệ của Phật thì mới thấy được cõi Phật này thanh tịnh

Khi ấy Phật lấy ngón chơn nhấn xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại thiên thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm nghìn thứ trân bảo trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm của Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả Đại chúng ngợi khen chưa từng có và đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu. 

Phật bảo Xá Lợi Phất
– Ông hãy xem cõi Phật, đây trang nghiêm thanh tịnh

Ông Xá Lợi Phất thưa : 
– Dạ, bạch Thế Tôn ! Từ trước dến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nay cõi nước của Phật đều hiện rõ trang nghiêm thanh tịnh

Phật bảo :
– Này Xá Lợi Phất ! Cõi nước của ta thường thanh tịnh như thế ! Nhưng vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh đó thôi. Ví như Chư Thiên đồng dùng một thứ bát bằng ngọc báu để ăn, nhưng tùy phước đức của mỗi vị mà sắc cơm có khác. Như thế, Xá Lợi Phất ! Nếu tâm người thanh tịnh, sẽ thấy cõi này công đức trang nghiêm

Trong khi Phật hiện ra cõi nước trang nghiêm thanh tịnh, 500 vị Trưởng giả tử do ông Bảo Tích dắt đến đều chứng được vô sanh Pháp nhẫn, tám vạn bốn nghìn người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

Bấy giờ Phật thâu nhiếp thần túc (62) lại, cõi nước trở thành như xưa. Ba vạn hai nghìn người và Trời cầu Thanh văn thừa đều nhận rõ các Pháp hữu vi (63) là vô thường, xa lìa trần cấu (64) đặng pháp nhãn thanh tịnh (65), tám nghìn vị Tỳ kheo không còn chấp thọ các pháp, kiết lậu (66) đã hết, tâm ý được giải thoát

Chú thích của phẩm I 

1. Kinh: Nói đủ là “Khế kinh”, nghĩa là “pháp thường” khế hiệp chơn lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh

2. Duy Ma Cật: Tên một vị Trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly, tàu dịch là “Tịnh Danh”. 

3. Bất khả tư nghị giải thoát: Là pháp môn giải thoát tự tại vô ngại không thể nghĩ bàn. Hai chữ “Giải thoát” đây là xa lìa tất cả phiền não nghiệp chướng khổ lụy, cứu cánh viên mãn tự tại vô ngại, không phải như hàng Nhị thừa giải thoát sanh tử mà còn chướng ngại với cảnh pháp... Xem phẩm Bất khả tư nghị sau thời rõ. 

4. Phật quốc: Cõi nước của Phật. Như Tây phương Tịnh độ là cõi nước của Phật A Di Đà, Ta bà là cõi nước của Phật Thích Ca

5. Tỳ Da Ly: Tàu dịch là Quảng Nghiêm, nghĩa là thành này châu vi rộng lớn rất trang nghiêm, tốt đẹp, ở về Trung Ấn Độ. 

6. Am La : Tàu dịch là “nan phân biệt” nghĩa là thứ trái cây này từ khi còn sống đến khi chín chỉ có một màu xanh nên khó phân biệt được trái nào sống trái nào chín. 

7. Sư tử rống: dụ Phật, Bồ Tát thuyết pháp tự tại không sợ sệt, lại làm cho tất cả phiền não mê tánh của chúng sanh đều tiêu trừ, ví như sư tử rống lên một tiếng thì tất cả các thú đều khiếp sợ chạy trốn

8. Sáu căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. 

9. Ba nghiệp: 1)Thân nghiệp, 2) Khẩu nghiệp, 3) Ý nghiệp

10. Năm món che ngăn: 
1) Tham dục
2) Sân nhuế
3) Thùy miên: Tâm hôn trầm không làm chi được; 
4) Trạo hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động
5) Nghi pháp : Đối với việc gì cũng mờ ám dụ dự không quyết đoán. 
Năm món này hay che đậy chơn tánh và làm cho các pháp lành không phát khởi hiển lộ được. 

11. Mười điều ràng buộc
1) Vô tàm : có tội lỗi mà không biết hổ : 
2) Vô quý : có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn. 
3) Tật : thấy người hiền đức giàu sang sanh lòng ghen ghét; 
4) Xan : bỏn sẻn không Bố thí
5) Hối: ăn năn những tội lỗi đã làm; 
6) Thùy miên: hôn mê không tỉnh sát được thâm tâm
7) Điệu cử : Tâm niệm xao động
8) Hôn trầm : thần thức hôn mê không rõ biết chi cả; 
9) Sân hận : đối trước nghịch cảnh sanh tâm giận dũi; 
10) Phú : che dấu tội ác

12. Niệm định tổng trì: Niệm tức là Tuệ; Tổng Trì: gồm nhiếp tất cả các pháp. Trong định gồm có tuệ, trong tuệ gồm có định gọi là niệm định tổng trì

13. Vô sở đắc: Là đối với hữu sở đắc mà nối. Nghĩa là không còn trụ trước một pháp nào cả, dầu trí chứng và cảnh chứng cũng không thấy có. 

14. Vô sanh pháp nhẫn: Vô sanh tức là không sanh không diệt. Nhẫn có nghĩa là tin nhận giữ gìn; là nói dùng trí vô lậu an trú trong thể chơn lý bất sanh bất diệt, tâm không lay động. Trong “Đại Trí Độ luận”, quyển 50 nói : “Đối thật tướng vô sanh diệt của các pháp, tin nhận thông suốt, không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô sanh nhẫn”. 

15. Pháp luân bất thối : Phật Bồ Tát thuyết pháp gọi là chuyển pháp luân. Các bậc Bồ Tát nghe pháp Phật dạy, đạo niệm càng thêm tăng tấn gọi là bất thối (không lui). Lại các bậc Bồ Tát đã chứng được “bất thối” rồi, đem pháp ấy dạy cho chúng sanh để cho được bất thối, nên gọi là chuyển pháp luân bất thối

16. Đại chúng: là một nhóm người đông. Trong những thời thuyết pháp của Phật, trừ Phật ra còn bao nhiêu bậc Hiền Thánh đều gọi là đại chúng. Chúng Tăng theo Phật tu học cũng gọi là Đại chúng

17. Tu Di: Tàu dịch là Diệu Cao, núi này thuần bằng bốn chất báu: vàng: bạc, lưu ly, pha lê rất xinh đẹp nên gọi là Diệu, Cao hơn tất cả núi khác nên gọi rằng Cao. 

18. Lý Duyên khởi: Tất cả các pháp đều từ nơi các duyên nhóm họp mà sanh khởi. Vì tỏ ngộ lý duyên khởi, nhận rõ các pháp không thật có, như huyễn hóa nên chẳng chấp có, nhưng các pháp là do duyên sanh, không phải hẳn là không, nên chẳng chấp không. Có không đều lìa, mới là thâm nhậpduyên khởi

19. Hải đạo sư: Là nguời rất rành giỏi đường biển, làm thầy hướng đạo dắt dẫn các kẻ thương nhân vào biển để tìm ngọc báu không sợ lạc đàng. Dụ cho Phật và Bồ Tát là bực dắt dẫn chúng sanh đi vào chánh đạo không sai lạc

20. Thập lực: Mười trí lực của Phật. Trí lực của Phật 
1) Biết rõ những điều hợp lý và trái lý.

2) Biết rõ nhơn quả nghiệp báo của chúng sanh trongng ba đời

3) Biết rõ các pháp thiền định giải thoát tam muội

4) Biết rõ tùng bực cao thấp các căn tánh của chúng sanh

5) Biết rõ những ưa muốn sai khác của chúng sanh

6) Biết rõ tất cả những cảnh giới sai khác của chúng sanh trong thế gian

7) Biết rõ chỗ đi đến của tất cả phàm phu, Hiền Thánh thế gianxuất thế gian

8) Biết rõ tánh danh khổ, vui, thọ, yễu của tất cả chúng sanh

9) Biết rõ sự sống chết qua lại các kiếp trước của tất cả chúng sanh, và vô lậu Niết bàn của các Hiền Thánh

10) Tự biết mình đã dứt hết nghiệp hoặc tập khí, không còn sanh tử triền phược nữa. 

21. Vô úy: Bốn món vô úy
1) Nhứt thế trí: hiểu biết tất cả pháp thế gianxuất thế gian
2) Lậu tận: hoặc nghiệp sanh tử đều biết hết; 
3) Thuyết chướng đạo: nói pháp ma ngoại là chướng thánh đạo
4) Thuyết tận khổ đạo: nói những đạo pháp có thế diệt hết các khổ. 
Bốn điều này Phật đối giữa Đại chúng các hàng Thiên ma, Phạm thiên, Sa môn, Bà la môn, nói một cách tự tại không sợ ai, không ai nói đuợc nên gọi là “Vô úy”. 

22. Thập bát bất cọng: Mười tám (18) Pháp bất cọng này chỉ có Phật chứng đặng mà chẳng chung đồng với hàng Nhị thừaBồ Tát.
1) Thân không lỗi. 
2) Miệng không lỗi. 
3) Niệm không lỗi. 
4) Không có tâm tuởng khác. 
5) Không có tâm bất định
6) Không có tâm không biết. 
7) Sự muốn không giảm. 
8) Tinh tấn không giảm. 
9) Niệm không giảm. 
10) Huệ không giảm. 
11) Giải thoát không giảm. 
12) Giải thoát tri kiến không giảm. 
13) Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động. 
14) Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà hành động. 
15) Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động. 
16) Trí tuệ biết đời vị lai không ngại. 
17) Trí tuệ biết đời quá khứ không ngại. 
18) Trí tuệ biết đời hiện tại không ngại. 

23. Năm đường : Trời, người, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.

24. Đại y vương: Thầy thuốc trị bịnh giỏi hơn các Thầy thuốc khác. Đức Phật hay tùy thuận căn cơ chúng sanh, khéo hóa độ, khiến xa lìa tất cả khổ não, như ông Thầy thuốc hay khéo tịi lành các bịnh nhơn nên gọi Phật là “Đại y vương”. 

25. Thi khí : Tên vị vua cõi trời Đại Phạm Thiên, ở từng trời thứ ba cõi sơ thiên của Sắc giới

26. Tứ thiên hạ: Bốn châu thiên hạ
1) Đông thắng thần châu
2) Nam thiệm bộ châu
3) Tây ngưu hóa châu
4) Bắc cu lô châu. 

27. Thiên, long thẩn v.v... : Tục gọi là Thiên, Long Bát bộ. 
1) Thiên : chư Thiên
2) Long : là rồng ; 
3) Dạ xoa : loài quỉ bay đi rất mau ; 
4) Càn thát bà : thần âm nhạc
5) A tu la : thần chiến đấu. Tàu dịch là Phi thiên ; có phước như Trời mà đức kém hơn Trời ; 
6) Ca lâu na : chim đại bàng ; 
7) Khẩn na la : thần pháp nhạc;. 
8) Ma hầu la dà : thần mãng xà. 

28. Tỳ kheo : Tiếng Phạn “Bhiksu”, các thầy xuất gia thọ giới cụ túc (thọ 250 giới của Phật). Đàn ông gọi là Tỳ kheo, còn đàn bà gọi là Tỳ kheo ni (Thọ 350 giới). 

29. Ưu bà tắc : Tàu dịch là cận sự nam. Cận sự : nghĩa là thường thân cận cúng dường ủng hộ các bực xuất gia tu hành, tức là chỉ những người tại gia cư sĩ bên nam giới. 

30. Ưu bà di : Tàu dịch là cận sự nữ tức là nữ cư sĩ

31. Tòa sư tử : Pháp tòa của Phật ; Phật ngồi chỗ nào thuyết pháp, thời chỗ ấy gọi là “tòa sư tử”; vì Phật tự tại vô úy hàng phục được tất cả các ngoại đạo nên lấy sư tử làm ví dụ . 

32. Trưởng giả tử : con ông Trưởng giả. Trưởng giả là người vừa có của cải, vừa có đức hạnh đầy đủ. Kinh Pháp Hoa Huyền Tán quyển 10 nói : “Tâm tánh ngay thẳng, lời lẽ chơn thật, hành vi thuần cẩn, tuổi tác già cả, của cải giàu có gọi là Trưởng giả.” 

33. Bảy báu : Vàng, Bạc, Lưu ly, Pha lê, Xa cừ, Xích châu, Mã não

34. Tam thiên Đại thiên thế giới : Một thái dương hệ tương đương với một tiểu thế giới; một ngàn tiểu thế giớì, là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Vậy đại thiên thế glới là một thế giới trải qua ba lần nhơn cho số ngàn, nên gọi là “Tam thiên Đại thiên thế giới”. 

35. Dùng tích độ chúng : Tức dùng đạo lý Niết bàn tịch diệt dứt trừ tất cả nghiệp chướng khổ lụy để độ chúng sanh

36. Đệ nhứt nghĩa : Tượng trưng chơn lý cứu cánh, thật tánh các pháp; trên hết tất cả là “đệ nhứt”, có lý do như thật gọi là “nghĩa”. Cảnh giới của bậc tự giác thánh trí chứng đặng. Chẳng phải hạng dùng ngôn thuyết vọng tưởng so lường biết được. Trong kinh Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 4 nói : “Cái đạo nhứt thật, lý cùng tột không chi hơn là “đệ nhứt””. Có nguyên do như thật gọi là “Nghĩa”. 

37. Phật thọ : Tức là cội bồ đề; chỗ Phật thành đạo ở dưới cội cây này gọi là Phật thọ, Đạo thọ hay là Bồ đề thọ

38. Cam lồ diệt : Cam lồ dụ cho Niết bàn; chứng đặng Niết bàn, dứt dòng sanh tử, gọi là “Cam lồ diệt”. 

39. Không tâm ý, không thọ hành: Là không còn tâm niệm vọng tưởng phân biệt và tâm cảm giác xúc thọ, thi vi động tác. 

40. Ba lần chuyển pháp : Tức tam chuyển pháp luân. Khi đức Phật Thích Ca mới thành đạo, nói pháp tứ đế cho 5 thấy Tỳ Kheovườn Lộc Uyển, ba phen nói thành mười hai hành... Pháp của Phật dạy hay dẹp trừ phiền não của chúng sanh, như bánh xe hay cán dẹp cỏ rác, cát, sạn, nên gọi là Pháp luân. Người nói giáo pháp để chuyển tâm ô nhiểm của chúng sanh thành tâm thanh tịnh gọi là “Chuyển pháp luân”. Lại có nghĩa là chuyển ba món : hoặc, nghiệp, khổ trở thành ba đức: Bát nhã, Giải thoát, Pháp thân gọi là ba lần chuyển pháp. 

41. Pháp hải: Biển pháp. Phật pháp rộng lớn khó lường ví như bể cả. 

42. Nhơn bảo : Phật là đấng báu quí hơn hết trong cõi trờicõi người

43. Tam giới tôn : Đức Phậtđấng cao cả đầy đủ phước đức hơn hết trong 3 cõi, tất cả nhơn thiên đều cung kính tôn trọng nên gọi là “Tam giới tôn”. 

44. Pháp bát cộng : cũng như thập bát bất cộng, có giải ở số 22. 

45. Đạo sư : Bậc dắt dẫn chúng sanh đi vào chánh đạo; tên chung của Phật và Bồ Tát

46. Kiết phược : Các phiền não ràng buộc thân tâm làm cho không được tự tại giải thoát, nên phiền não cũng gọi là “kiết phược”. 

47. Không tịch: Không các tướng là “Không”. Không khởi diệt là “tịch”. Rổng rang xa lìa tất cả tướng, không tâm niệm khởi diệt gọi là hạnh “không tịch”. 

48. Pháp tướng : Tướng trạng sai khác của các pháp trong vũ trụ. Sách Đại Thừa nghĩa chương quyển 2 nói : “Tất cả pháp hữu vi, vô vi trong thế gian đều gọi là pháp tướng”. 

49. Trực tâm : Tâm chơn thật, không dua dối tà vạy; tâm chánh niệm chơn như

50. Thâm tâm : Tâm mong cầu Phật quả cao thâm; tâm ưa muốn nhóm góp gieo trồng tất cả công đức cao dày, bền chắc, không thể dứt mất. 

51. Bồ đề tâm : Tâm cầu đạo lý chơn chánh, tâm mong đạo quả chánh giác

52. Mười điều lành : Thuận lý khởi tâm đối với cảnh không phạm 10 điều dữ : 
1) Sát sanh; 2) Trộm cắp; 3) Tà dâm; 4) Nói dối; 5) Nói lời thêu dệt
6) Nói hai lưỡi; 7) Nói lờỉ độc ác; 8) Tham; 9) Sân; 10) Si 
mà thật hành những điều: phóng sanh, Bố thí, phạm hạnh, nói chắc thật, nói lời chơn chánh, nói lời hòa hiệp, nói lời dịu dàng, chẳng ghét, chẳng giận, chẳng tà kiến

53. Ba mươi hai tướng tốt
1) Trên đỉnh đầu thịt nổi cao lên; 
2) Lông trắng chặn giữa hai chơn mày (bạch hào); 
3) Tròng mắt đen trắng phân minh
4) Lông nheo dài đẹp như của Long vưong; 
5) Gương mặt tròn trịa như mặt trăng rằm; 
6) Răng đủ 40 cái; 
7) Răng nhỏ đều khít khao; 
8) Răng trắng trong tinh sạch; 
9) Luỡi rộng dài khi le ra đến chơn tóc; 
10) Tiếng nói thanh tao nghe rất xa; 
11) Trong cổ hầu thường có chất nước cam lồ rịn ra; 
12) Thân mình nở nang tròn suông; 
13) Nam căn ẩn kín; 
14) Hai bên hông đầy đặn; 
15) Hal tay dài quá gối; 
16) Cánh tay và bàn tay da thịt mềm dịu như bông; 
17) Ngón tay dài và vót; 
18) Vế như vế của Lộc vương; 
19) Lưng hai bàn chân no tròn; 
20) Lòng bàn chân bằng phẳng; 
21) Gót chân tròn trịa; 
22) Lòng bàn chân có chỉ xoáy tròn rõ ràng như bánh xe nghìn cọng; 23) Kẻ ngón tay và ngón chân có da mỏng mịn như giăng lưới; 
24) Bảy chỗ trong thân đều đầy đặn: (hai lòng bàn tay, hai lưng bàn chân, hai vai và yết hầu); 
25) Tất cả lỗ chơn lông đều có lông đẹp; 
26) Lông và tóc đều xoáỵ tròn về phía hữu; 
27) Da mịn màng trơn láng; 
28) Màu da như màu vàng ròng tử kim; 
29) Thân hình cao lớn hơn mọi người;
30) Hình tướng đoan nghiêm
31) Thân hinh ngay thẳng vững vàng
32) Thường có ánh sáng sắc vàng ròng chiếu ra một tầm. 

54. Tứ vô lương tâm : Cũng gọi là tứ đẳng tâm. 
1) Từ : lòng ban vui cho chúng sanh
2) Bi : lòng cứu khổ chúng sanh
3) Hỷ : lòng vui mừng khi thấy người khỏi khổ được vui ; 
4) Xả : lòng không chấp trước chỗ thật hành của ba tâm trên. 
Từ nơi cảnh sở duyên (chúng sanh) nói là vô lượng; từ nơi tâm năng duyên (Bồ Tát) mà khởi bình đẳng nên gọl là đẳng. 

55. Tứ nhiếp pháp
1) Bố thí nhiếp : Bồ Tát dùng tài pháp bố thí nhiếp dẫn chúng sanh trụ nơi chơn lý; 
2) Ái ngữ nhiếp : Bồ tát hay tùy thuận căn tánh của chúng sanh và dùng lời nói hay ho ủy dụ họ trụ nơi chơn lý ; 
3) Lợi hành nhiếp : Bồ Tát khởi hạnh từ thiện nơl thân, khẩu, ý làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhơn đó họ được trụ nơi chơn lý.
4) Đồng sự nhiếp : Bồ Tát dùng pháp nhãn thấy rõ căn tánh của chúng sanh, tùy theo chỗ ưa muốn của họ mà phân hình thị hiện, khiến họ được thắm nhuần lợi ích, nhơn đó họ được an trụ nơi chơn lý. 

56. 37 phẩm trợ đạo : 4 pháp niệm xứ ; 4 pháp chánh cần ; 4 pháp như ý túc ; 5 căn ; 5 lục ; 7 pháp giác chi ; 8 pháp đạo phần . 37 pháp này giúp cho người tu hành thành tựu được đạo quả, nên gọi là trợ đạo, có giải rõ ở sau. 

57. Hồi hướng tâm: Hồi: Hồi chuyển; Hướng: thu hướng. Hồi hướngkhởi lòng đại bi cứu độ chúng sanh, xoay chuyển công đức, căn lành hướng về ba chỗ: 1) Chỗ sở chúng chơn như thật tế; 2) Chỗ sở cấu vô thượng Bồ đề; 3) Chỗ sở độ tất cả chúng sanh

58. Ba đường ác : 1) Địa ngục, 2) Ngạ quỉ, 3) Súc sanh

59. Tám nạn
1) Địa ngục
2) Ngạ quỉ
3) Súc sanh
4) Trường thọ thiên ;
5) Bắc cu lô châu ; 
6) Đui, điếc, ngọng, liệu ;
7) Thế trí biện thông
8) Sanh trước Phật hay sau Phật. 
Sở dĩ gọi là tám nạn là vì ở tám chỗ này dù cảm thọ quả khổ vui có khác, nhưng đều không được thấy Phật, không được nghe chánh pháp

60. Phạm hạnh : Giới hạnh thanh tịnh, hạnh đoạn dâm dục. 

61. Cung trời Tự tại : Cung điện của trời Tự Tại Thiên Vương ở trên chót từng tứ thiền cõi sắc giới

62. Thần túc : Pháp thần thông biến hóa tự tại vô ngại của Phật tu chứng

63. Hữu vi : các pháp có tạo tác, sanh diệt, tức là chỉ tất cả hiện tượng biến thiên trong vũ trụ

64. Trần cấu : Nghĩa là bụi nhớp, tức là những sự mê lầm làm cho tâm phải mờ tối. Xa lìa trần cấu tức dứt hết 88 phẩm kiến hoặc trong ba cõi

65. Pháp nhãn thanh tịnb : Thấy rõ được lý chơn thật của các pháp ; tiểu thừa chứng đưọc sơ quả, do đã xa lìa trần cấu kiến hoặc, thấy rõ thật lý pháp tứ đế. Đại thừa chứng được Vô sanh pháp nhẫn vào bậc Sơ địa

66. Kiết lậu : Các phiền não kết dệt trong tự tâm, nên phiền năo cũng gọi là “kiết lậư”. Kiết lậu đã hết, vì dứt trừ lòng ái nhiễm mê đắm không còn chấp thọ các pháp nên tâm ý được giải thoát, chứng đến bực vô học (A la hán). 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33068)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6486)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11194)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30340)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30397)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12134)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11553)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12741)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34671)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52214)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10708)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10475)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10412)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13029)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16192)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21764)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9572)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7071)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12681)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16185)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16477)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13808)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16515)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12063)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14274)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9161)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11714)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11228)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16260)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14309)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16166)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12035)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15627)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11468)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13994)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11982)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12593)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14947)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14487)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20642)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20644)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14291)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20276)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17576)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13959)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31816)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11958)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant