Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Phẩm Đệ Tử

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6565)
3. Phẩm Đệ Tử

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

III PHẨM ĐỆ TỬ (1)

XÁ LỢI PHẤT (2)

Lúc bấy giờ, Trưởng giả Duy Ma Cật nghĩ thầm rằng :
– Nay ta bịnh nằm ở giuờng, Thế Tôn là đấng Đại từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót !

Phật đã biết ý ông, liền bảo Xá Lợi Phất rằng: 
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Xá Lợi Phất bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại trước kia, con từng ở trong rừng ngồi yên lặng (tọa thiền) dưới gốc cây, khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng : “Thưa Ngài Xá Lợi Phất ? Bất tất ngồi sững đó mới là ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý, mới là ngồi yên lặng; không khởi diệt tận định(3) mà hiện các oai nghi, mới là ngồi yên lặng ; không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu, mới là ngồi yên lặng ; tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng ; đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng; không đoạn phiền não mà vào Niết bàn(4) mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là chỗ Phật ấn khả (chứng nhận) vậy”. 

Bạch Thế Tôn, lúc ấy con nghe nói những lời đó rồi, im lặng không trả lời đặng, nên con không dám đến thăm bịnh ông. 

MỤC KIỀN LIÊN (5)

Phật bảo Đại Mục Kiền Liên:
– Ông đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Mục Kiền Liên bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại trước kia, con vào trong thành Tỳ Da Ly ở trong xóm làng nói Pháp cho các hàng cư sĩ nghe, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng : “Này Ngài Đại Mục Kiền Liên, nói Pháp cho bạch y cư sĩ, không phải như Ngài nói đó. Vả chăng nói Pháp phải đúng như pháp (xứng tánh) mà nói. Pháp không chúng sanh, lìa chúng sanh cấu(6); pháp không có ngã, lìa ngã cấu, Pháp khôngthọ mạng, lìa sanh tử ; Pháp không có nhơn, làn trước làn sau đều dứt ; Pháp thường vắng lặng, bặt hết các tướng ; Pháp lìa các tướng, không phải cảnh bị duyên ; Pháp không danh tự, dứt đường ngôn ngữ ; Pháp không nói năng, lìa giác quán(7) ; pháp không hình tướng; như hư không; Pháp không hí luận, rốt ráo là không ; Pháp không ngă sở(8), lìa ngã sở ; Pháp không phân biệt, lìa các thức ; Pháp không chi so sánh, không có đối đãi ; Pháp không thuộc nhân, không nhờ duyên, Pháp đồng pháp tánh, khắp vào các Pháp ; Pháp tuy nơi như, không có chỗ tùy ; Pháp trụ thật tế(9), các bên (hữu, vô, thường, đoạn) không động được ; Pháp không lay động, không nương sáu trần(10) ; Pháp không tới lui, thường không dừng (trụ) ; Pháp thuận “không”, tùy “vô tướng”, ứng “vô tác”(11) ; Pháp lìa tốt xấu ; Pháp không thêm bớt ; Pháp không sanh diệt ; Pháp không chỗ về ; Pháp ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; Pháp không cao thấp : Pháp thường trụ không động ; Pháp lìa tất cả quán hạnh. Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Pháp tướng như thế đâu có thể nói ư ?

Vả chăng người nói Pháp, không nói, không dạy, còn người nghe, cũng không nghe không được. Ví như nhà huyễn thuật nói Pháp cho người huyễn hóa nghe, phải dụng tâm như thế mà nói Pháp. Phải biết căn cơ của chúng sanhlợi độn, khéo nơi tri kiến không bị ngăn ngại, lấy tâm đạì bi ngợi khen Pháp Đại thừa, nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất, như vậy mới nên nói Pháp”. 

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rồi, tám trăm Cư sĩ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con không được biện tài như thế, nên không dám lãnh đến thăm bịnh ông.

ĐẠI CA DIẾP (12)

Phật bảo Đại Ca Diếp :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Ca Diếp bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Là vì sao? - Con nhớ lại trước kia, khi khất thực trong xóm nhà nghèo, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng : Này Ngài Đại Ca Diếp! Có lòng từ bi mà không phổ cậpbỏ nhà giàu mà đi đến nhà nghèo. Ngài Ca Diếp ! Ở Pháp bình đẳng nên đi khất thực theo thứ lớp. Vì không ăn mà đi khất thực ; vì phá tướng hòa hiệp mà bốc cơm ăn ; vì không nhận mà nhận món ăn của người ; vì tưởng “không tụ” mà vào làng xóm ; có thấy sắc cũng như người đui ; có nghe tiếng cũng như vang ; có ngửi mùi cũng như gió ; lúc nếm vị không phân biệt ; chạm các vật như trí chứng(13) ; biết các Pháp tướng như huyễn, không tự tánh, không tha tánh, trước vốn không sanh, nay cũng không diệt. Ngài Ca Diếp ? Nếu có thể không bỏ bát tà(14) mà vào bát giải thoát(15), dùng tướng tà mà vào Chánh pháp, dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bực Hiền Thánh rồi sau mới ăn. Ăn như thế, không phải có phiền não, không phải rời phiền não, không phải vào định ý(15), không phải ra định ý, không phải ở thế gian, không phải ở Niết bàn, người thí không có phước lớn, không có phước nhỏ, không được lợi ích, không bị tổn hại, đó chính là vào Phật đạo, không nương theo hạnh Thanh Văn. Ngài Ca Diếp ? Nếu ăn như thế là ăn đồ cúng thí của người không uổng vậy.

Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy tỏ ngộ được điều chưa từng có, càng sâu khởi tâm cung kính tất cả các vị Bồ Tát. Con lại nghĩ rằng : “Kẻ danh gia này có biện tài trí tuệ mới được như thế ? Ai nghe mà chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ? Từ ấy đến nay, con chẳng còn đem hạnh Thanh Văn(17), Bích Chi Phật (18) để khuyên dạy người, vì thế nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

TU BỒ ĐỀ (19)

Phật bảo Tu Bồ Đề :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Tu Bồ Đề bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại thuở trước, con vào khất thực nơi nhà ông, lúc đó trưởng giả Duy Ma Cật lấy cái bát của con đựng đầy cơm rồi nói với con rằng : “Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Đối với cơm bình đẳng, thì các Pháp cũng bình đẳng, các Pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh món ăn. Như Tu Bồ Đề không trừ dâm nộ si cũng không chung cùng với nó, không hoại
thân mình mà theo một tướng, không dứt si ái sanh ra giải thoát, ở tướng ngũ nghịch(20) mà đặng giải thoát, không mở cũng không buộc, không thấy tứ đế(21) cũng không phải không thấy tứ đế, không phải đắc quả cũng không phải không đắc quả, không phải phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không phải thánh nhơn, không phải không thánh nhơn, tuy làm nên tất cả các Pháp mà rời tướng các Pháp, thế mới nên lấy món ăn. Như Tu Bồ Đề
không thấy Phật không nghe Pháp, bọn lục sư ngoại đạo(22) kia như Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Dà Lê Câu Xa Lê Tử , San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử , A Kỳ Đa Xy Xá Khâm Ba La, Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của Ngài. Ngài theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư kia đọa, Ngài cũng đọa theo, mới nên lấy món ăn. Tu Bồ Đề ! Nếu Ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi tám nạn, không được khỏi nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh tịnh, Ngài được vô tránh tam muội(23), tất cả chúng sanh cũng được tam muội ấy, những người thí cho Ngài chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho Ngài đọa vào ba đường ác(24), Ngài cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, Ngài cùng với các ma và các trần lao như nhau không khác, đối với tất cả chúng sanh mà có lòng oán hận, khinh báng Phật, chê bai Pháp, không vào số chúng (Tăng), hoàn toàn không được diệt độ, nếu Ngài được như thế mới nên lấy món ăn. 

Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con nghe những lời ấy rồi mờ mịt không biết là nói gì, cũng không biết lấy lời chi đáp, con liền để bát lại muốn ra khỏi nhà ông. Ông Duy Ma Cật nói : Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Ngài lấy bát chớ sợ ? Ý Ngài nghĩ sao ? Như Phật biến ra một người huyễn hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc này hỏi Ngài, chừng ấy Ngài có sợ chăng ? - Con đáp : “Không sợ !”. Trưởng giả Duy Ma Cật lại nói : Tất cả các Pháp như tướng huyễn hóa, Ngài không nên có tâm sợ sệt. Vì sao ? – Vì tất cả lời nói năng không lìa tướng huyễn hóa, chí như người trí không chấp văn tự nên không sợ. Vì sao thế ? - Tánh văn tự vốn ly, không có văn tự đó là giải thoát. Tướng giải thoát đó là các Pháp vậy”.

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rói, hai trăm Thiên Tử được Pháp nhãn thanh tịnh. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

PHÚ LÂU NA (25)

Phật bảo Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Phú Lâu Na bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? Nhớ lại trước kia con ở trong rừng lớn, dưới gốc cây nói Pháp cho các Tỳ Kheo mới học, lúc đó ông Duy Ma Cật đến bảo con : “Thưa Phú Lâu Na ! Ngài nên nhập định trước để quán sát tâm địa của những người này, rồi sau mới nên nói Pháp. Ngài chớ đem món ăn dơ để trong bát báu, phải biết rõ tâm niệm của các vị Tỳ kheo này, chớ cho ngọc lưu ly đồng với thủy tinh, chớ nên dùng pháp tiểu thừaphát khởi cho họ, những người kia tự không có tì vết, chớ làm cho họ có tì vết, họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Ngài chớ nên đem biển lớn để vào dấu chơn trâu, chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm. Ngài Phú Lâu Na ! Những vị Tỳ kheo này đã phát tâm đại thừa từ lâu, giữa chừng quên lãng, nay tại sao lại lấy pháp tiểu thừa dẫn dạy họ? Tôi xem hàng tiểu thừa trí tuệ cạn cợt cũng như người mù, không phân biệt được căn tánh lợi độn của chúng sanh.

Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội (chánh định) làm cho những vị Tỳ kheo đó biết được kiếp trước của mình đã từng ở 500 đức Phật vun trồng các cội đức, hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, liền đó rỗng suốt trở lại đặng bổn tâm (Đại thừa). Khi ấy, các vị Tỳ kheo cúi đầu đãnh lễ nơi chơn ông Duy Ma Cật, ông liền nhân đó nói pháp làm cho tất cả không còn thối lui nơi đạo vô thượng Bồ Đề.

Con nghĩ hàng Thanh Văn như con không quán được căn cơ của người, không nên nói Pháp. Vì thế con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

MA HA CA CHIÊN DIÊN (26)

Phật bảo Ma Ha Ca Chiên Diên
– Ông đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Ca Chiên Diên bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, Phật nói lược qua yếu chỉ các Pháp cho các Tỳ Kheo nghe, sau khi đó, con diễn nói lại nghĩa ấy, là những nghĩa vô thường(27), khổ(28), không(29), vô ngã(30), và tịch diệt(31). 

Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng. Thưa Ngài Ca Chiên Diên ! Ngài chớ nên đem tâm hạnh sanh diệt mà nói Pháp thật tướng(32). Ngài Ca Chiên Diên ! Các Pháp rốt ráo không sanh, không diệt là nghĩa “vô thường” ; năm ấm rỗng không, không chỗ khởi là nghĩa “khổ” ; các Pháp rốt ráo không có, là nghĩa “không” ; ngã và vô ngã không hai, là nghĩa “vô ngã” ; Pháp trước không sanh, nay cũng không diệt, là nghĩa “tịch diệt”.

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy xong, các Tỳ Kheo kia tâm được giải thoát. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

A NA LUẬT(33)

Phật bảo A Na Luật :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

A Na Luật bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại lúc trước con đi kinh hành một chỗ nọ, khi ấy có vị Phạm Vương tên Nghiêm Tịnh, cùng với một muôn Phạm Vương khác, phóng ánh sáng trong sạch rực rỡ đến chỗ con cúi đầu làm lễ và hỏi : “Thưa Ngài A Na Luật ? Thiên nhãn của Ngài thấy xa được bao nhiêu ?”. Con liền đáp : “Nhơn giả, tôi thấy cõi Tam thiên Đại thiên thế giới của Phật Thích Ca Mâu Ni đây như thấy
trái Am-ma-lặc(34) trong bàn tay vậy. Lúc đó ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Thưa Ngài A Na Luật ? Thiên nhãn của Ngài thấy đó làm ra tướng mà thấy hay là không làm ra tướng mà thấy ? Nếu như làm ra tướng thì khác gì ngũ thông(35) của ngoại đạo, nếu không làm ra tướng thì là vô vi, lẽ ra không thấy ? Bạch Thế
Tôn ! Lúc ấy con nín lặng.

Các vị Phạm thiên nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi đặng chỗ chưa từng có, liển làm lễ hỏi ông rằng “Bạch Ngài ở trong đời ai là người có chơn thiên nhãn (36) ?”. 

Trưởng giả Duy Ma Cật đáp : “Có Phật Thế Tôn được chơn thiên nhãn, thường ở tam muội, thấy suốt các cõi Phật không có hai tướng” .

Khi ấy Nghiêm Tịnh Phạm vương cùng quyến thuộc năm trăm Phạm Vương đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đảnh lễ dưới chơn ông Duy Ma Cật rồi bỗng nhiên biến mất. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

ƯU BA LY (37)

Phật bảo Ưu Ba Ly :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Ưu Ba Ly bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Con nhớ lại ngày trước có hai vị Tỳ Kheo phạm luật hạnh, lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, đến hỏi con rằng : “Dạ thưa Ngài Ưu Ba Ly ! Chúng tôi phạm luật thật lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, mong nhờ Ngài giải rõ chỗ nghi hồi cho chúng tôi được khỏi tội ấy”. Con liền y theo pháp, giải nói cho hai vị.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con : “Thưa Ngài Ưu Ba Ly, Ngài chớ kết thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo này, phải trừ dứt ngay, chớ làm rối loạn lòng họ. Vì sao ? - Vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Như lời Phật nói : “Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch nên chúng sanh sạch. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm kia như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các Pháp cũng thế không ra ngoài chơn như. Như Ngài Ưu Ba Ly, khi tâm
tướng được giải thoàt thì có tội cấu chăng ?”. Con đáp : “Không”. Ông Duy Ma Cật nói : “Tất cả chúng sanh tâm tướng không nhơ cũng như thế ? Thưa Ngài Ưu Ba Ly ! Vọng tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch ; điên đảo là nhơ, không điên đảo là sạch ; chấp ngã là nhơ, không chấp ngã là sạch. Ngài Ưu Ba Ly ? Tất cả pháp sanh diệt không dừng, như huyễn, như chớp ; các Pháp không chờ nhau cho đến một niệm không dừng ; các Pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. Người nào biết nghĩa này gọi là giữ luật, người nào rõ nghĩa này gọi là khéo hiểu.

Lúc đó hai vị Tỳ Kheo khen rằng : “Thật là bực thuợng trí ? Ngài Ưu Ba Ly này không thể sánh kịp Ngài là bực giữ luật hơn hết mà không nói được”.

Con đáp rằng : “Trừ đức Như Lai ra, chưa có bực Thanh VănBồ Tát nào có thể chế phục được chỗ nhạo thuyết biện tài(38) của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ của ông thông suốt không lường”.

Khi ấy, hai vị Tỳ kheo dứt hết nghi hối, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giácphát nguyện rằng : “Nguyện làm cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như vậy”. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

LA HẦU LA(39)

Phật bảo La Hầu La :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

La Hầu La bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lúc trước kia, các Trưởng giả tử ở thành Tỳ Da Ly đến con cúi đầu làm lễ hỏi rằng ? “Thưa Ngài La Hầu La, Ngài là con của Phật vì đạo bỏ ngôi Chuyển Luân Vương(40) mà xuất gia, việc xuất gia đó có những lợi ích gì ?”. Con liền đúng theo Pháp mà nói sự ích lợi của công đức xuất gia. Lúc đó, ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng : “Thưa La Hầu La ! Ngài không nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Vì sao ? – Không lợi không công đức, mới thật là xuất gia. Về pháp hữu vi(41) có thể nói là có lợi, có công đức còn xuất giapháp vô vi(42), trong pháp vô vi không lợi, không công đức - La Hầu La ? Vả chăng xuất gia là không kia, không đây, cũng không ở chính giữa ; ly sáu mươi hai môn kiến chấp(43), ở nơi Niết bàn, là chỗ nhận của ngưỡi trí, chỗ làm của bực Thánh, hăng phục các ma, khỏi ngũ đạo(44), sạch ngũ nhãn(45), đặng ngũ lực(46), lập ngũ căn(47), không làm náo người khác, rời các tạp ác(48), dẹp các ngoại đạo, vượt khỏi giả danh, ra khỏi bùn lầy ; không bị ràng buộc, không ngã sở, không chỗ thọ, không rối loạn trong lòng, ưa hộ trợ ý người khác, tùy thiền định, rời các lỗi. Nếu được như thế mới thật là xuất gia”.

Khi ấy, ông Duy Ma Cật bảo các Trưởng giả tử : “Các ngươi nay ở trong Chánh Pháp nên cùng nhau xuất gia. Vì sao ? - Phật ra đời khó gặp”. 

Các Trưởng giả tử nói :
– Thưa Cư sĩ, chúng tôi nghe Phật dạy : “Cha mẹ không cho, không được xuất gia”. 

Ông Duy Ma Cật nói :
– Phải, các ngươi nếu phát tâm Vô Thượng Bồ Đề(49), đó chính là xuất gia, đó chính là đầy đủ Giới Pháp.

Bấy giờ ba mươì hai vị Trưởng g,iả tử đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.



A NAN (50)

Phật bảo A Nan :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

A Nan bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Là vì sao ? - Nhớ lại lúc trước, Thế Tôn thân hơi có bịnh phải dùng sữa bò, con cầm bát đến đứng trước cửa nhà người đại Bà la môn. Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến bảo con : “Này A Nan ? Làm gì cầm bát đứng đây sớm thế ?”. 

Con đáp : “Cư sĩ, Thế Tôn thân hơi có bịnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đây xin sữa”. 

Ông Duy Ma Cật nói : “Thôi thôi ! Ngài A Nan chớ nói lời ấy ! Thân Như Lai là thể kim cang(51), các ác đã dứt, các lành khắp nhóm, còn có bịnh gi, còn có não gì ? - Im lặng bước đi, Ngài A Nan ! Chớ phỉ báng Như Lai, chớ cho người khác nghe lời nói thô ấy, chớ làm cho các trời oai đức lớn và các Bồ Tát từ Tịnh độ phương khác đến đây nghe được lời ấy ! Ngài A Nan ! Chuyển Luân Thánh Vương có ít phước báu còn không tật bịnh, huống chi Như Lai phước báu nhiều hơn tất cả đấy ư ? Hãy đi Ngài A Nan ? Chớ làm cho chúng tôi chịu sự nhục đó, hàng ngoại đạo Phạm Chí nếu nghe lời ấy, chắc sẽ nghĩ rằng : “Sao gọi là Thầy, bịnh của mình không cứu nổi mả cứu được bịnh ngươi khác ư ?” Nên lẽn đi mau, chớ để cho người nghe ! Ngài A nan ! Phải biết thân Như Lai, chính là Pháp Thân(52), không phải thân tư dục (53). Phật là bực Thế Tôn hơn hết ba cõi, thân Phật là vô lậu(54), các lậu đã hết, thân Phật là vô vi, không mắc vào các số lượng, thân như thế còn có bịnh gì ?”.

Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con thật quá hổ thẹn không lẽ con gần Phật mà nghe lầm ư ? Con liền nghe trên hư không có tiếng nói rằng : “A Nan ! Đúng như lời Cư sĩ đã nói, chỉ vì Phật ứng ra đời ác đủ năm món trược (55) nên hiện ra việc ấy, để độ thoát chúng sanh thôi. A Nan! Hãy đi lấy sữa chớ có thẹn”. 

Bạch Thế Tôn ! Ông Duy Ma Cật trí tuệ biện tài dường
ấy, cho nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.

Như vậy, năm trăm vị đại đệ tử mỗi người đếu đối trước Phật trình bày chỗ bổn duyên(56) của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại những lời của ông Duy Ma Cật và đều nói : “Không kham lãnh đến thăm bịnh ông”.

Chú thích của phẩm III

1. Đệ tử : Em, con, nghĩa là theo đạo thầy trò, thời Thầy coi trò như em, nên dùng theo cách đối với người em và cư xử. Trò thờ Thầy như cha, nên lấy theo đạo lý con ngườiphụng sự Thầy. Thầy trò đối đãi với nhau nên xưng là “Đệ tử”. Lại có nghĩa : Giác ngộ sau Phật gọi là em (đệ). Trí giác ngộ nhờ Phật phát sinh gọi là con (tử). Hai chữ “Đệ tử”, ở đây chuyên chỉ cho hàng Thanh Văn. Dẫu biết rầng Phật là Đạo sư trong ba cõi, cha lành của bốn loài, thời ai chẳng phải là đệ tử của Phật. Nhưng vì hàng Thanh Văn là những bậc xuất gia, theo Phật nghe pháp, hiểu biết, ngộ đạo chứng quả, nhiếp về số chúng tăng giữ gìn ngôi Tam Bảo, làm mô phạm cho ba cõi, hằng theo hầu Phật châu du giáo hóa khắp nơi. Chắng phải như hàng tại gia, tuy tin Phật mà còn phụng sự quân thân, hàng Bồ Tát dù khế hợp Phật đạo, mà lại tùy cơ tùy chỗ ứng hiện giáo hóa không định, nên trong kinh thường gọi Đệ tử là riêng chỉ cho hàng Thanh Văn vậy. 

2. Xá Lợi Phất : (Sariputra) Tàu dịch là “Thu tử”, nghĩa là con bà “Thu Lộ”. Ông là người trí tuệ cao siêu, biệt tài mẫn thiệp. Khi ông còn ở trong bụng mẹ, đã xui cho mẹ biện luận giỏi hơn người cậu là Cu Si La (Kansthla). Đến khi ông lên 8 tuổi đã có tài diễn thuyết, cả 16 nước không ai nghi luận bằng. Sau ông theo học đạo Phật, mới bảy ngày đã thông hiểu các Pháp, nên gọi là Trí tuệ đệ nhất. 

3. Diệt tận định : (Nirodbasamapatti) cũng gọi Diệt thọ tưởng định : nghĩa là diệt hết 6 thức tâm vuơng và tâm sở không còn khởi hiện hạnh. Hàng nhị thừa từ quả thứ ba sắp lên, tạm tưởng nhập Niết bàn thời nhập định này, thuộc về thánh quả chớ chẳng phải như vô tâm định của ngoại đạo

4. Niết Bàn : (Nirvana) cũng gọi là Nê hoàn. Tàu dịch Diệt độ : Nghĩa là dứt hết phiền não nghiệp chướng vượt khỏi vòng sanh tử. Lại dịch là Viên tịch : Đức đầy đủ khắp trần sa là “Viên”, bặt dứt nghiệp chướng khổ lụy, gọi là “Tịch”. Cũng chỉ cho bản tánh tịch tịnh, rời tất cả pháp sanh diệt khổ lụy. 

6. Mục Kiền Liên : (Mua Dgalyayana) : Tàu dịch : họ Thái Thúc. Ban sơ ông tu theo ngoại đạo đã lâu mà không công hiệu gì, sau nhờ ông Xá Lợi Phất thuật lại bài kệ Nhân duyên cho ông nghe, liền tỏ ngộ : theo Phật tu hành chứng quả Thanh Văn, đặng phép Thần thông bậc nhất. 

6. Chúng sanh cấu : Các tâm chấp ngã, chấp có chúng sanh. Trên bản thể chơn pháp khôngchúng sanh, nếu chấp có chúng sanh thành nhơ chơn pháp, nếu ngộ được chơn pháp khôngchúng sanh, thời cái nhơ chấp trước kia không còn nữa. 

7. Giác quán : Cũng gọi là Tầm Từ : Suy nghĩ bằng cách tâm niệm vội vàng thô động gọi là giác. Suy nghĩ chín chắn bằng tâm nhỏ nhiệm gọi là quán. Hai món này làm chướng ngại rối loạn cho tâm định, lại làm nguyên nhân phát khởi ra lời nói năng. Nếu lìa Giác Quán thì không còn lời nói năng. 

8. Ngã sở : Ngã : Ta, là lối ngoại đạo, phàm phu chấp chính thân ta có một chủ tể hằng còn, hay ngoài thân có đấng chủ tể thường còn cùng khắp, thọ dụng tất cả và hay sanh vạn vật. Ngã sỡ : vật sở hữu, phụ thuộc của Ngã (ta), ngã là chủ của vạn vật, vạn vậtsở hữu của ngã. Đây là do tính chấp có ngã mới có ngã sở

9. Thực tế : Cùng cực thật lý của bản thể vũ trụ, Pháp tánh chơn như

10. Sáu trần : Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. 

11. Không, Vô tướng. Vô tác : Gọi là tam không. Ba môn này đều nói về Lý Không, cũng gọi là Tam tam muội
1) Không tam muội : Quán các pháp từ nhơn duyên sanh, không có ngã và ngã sở
2) Vô tướng tam muội : Xa lìa những tướng Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và tướng Nam, tướng Nữ. 
3) Vô tác tam muội : Đối với các pháp xả hết tâm mong muốn, không còn sự tạo tác 

12. Đại Ca Diếp : Tàu dịch là Ẩm Quang, nghĩa là hào quang chói sáng trùm hết các ánh sáng khác. Nguyên kiếp trước ông chung đậu vàng với người ta và ra công thiếp tượng Phật, nhờ công đức ấy, nên đời đời cảm đặng cái báo thân sắc vàng ánh chóí. Khi gặp Đức Phật ra đời giáo hóa, ông nguyện theo tu hành, sau lãnh thọ đặng chánh pháp. Trong hàng Đại đệ tử, ông là đức hạnh bực nhất, cũng là khổ hạnh bực nhứt nữa. 
13. Như trí chứng : Tức là khi Thật trí chứng chơnthành tựu đạo quả, toàn thân nhẹ nhàng an vui mà không sanh đắm nhiễm ; ý nói thân chạm lánh các vật tốt, xấu, êm ấm v.v... cũng không có cảm thọ mê đắm như trí chứng vậy. 

14. Bát tà : 1. Tà kiến, 2. Tà tư duy, 3. Tà ngữ, 4. Tà nghiệp, 5. Tà mạng, 6. Tà phương tiện, 7. Tà niệm: 8. Tà định. Trái với Bát chánh đạo thời gọi là Bát tà.

15. Bát giải thoát : Cũng là bát bội xả. Nghĩa là tám pháp thiền định này có công năng xa lìa, trãi bỏ tất cả phiền não được giải thoát những sự triền phược trong ba cõi
1) Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc : Vì muốn diệt trừ lòng tham đắm, người tu hành trước phải quán thân mình là vật nhơ nhớp, nhưng vì còn lòng tham đối với thân người, nên cũng phải quán cái thân ngưòi khác cũng như thế. 
2) Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc : Mới diệt được sắc tướng trong thân nhưng lòng tham dục đối với người ở cõi Dục khó đoạn hết, nên cũng còn quán tướng người khác bất tịnh
3) Tịnh bội xả thân tác chứng : Đến đây không còn tham trước tướng bất tịnh ở ngoài, chỉ ở trong cảnh định luyện tập tâm sắc quang minh trong suốt (Tịnh Bội xả). Tâm đã sáng suốt thì vui càng tăng trưởng đầy khắp trong thân (thân bội xả). 
4) Hư không xứ bội xả : Người tu hành diệt được lòng tham muốn sắc thân bất tịnh của mình và của người, được nhứt tâm duyên “Không” cùng với “Không” tương ứng, tức nhập được định “Vô biên hư không xứ”. 
5) Thức xứ bội xả : Do xả Hư không xứ định, nhứt tâm duyên thức. Lúc nhập định này, tức quán định, nhàm chán không ưa đắm nữa. 
6) Vô sở hữu xứ bội xả : Do xả thức xứ, nhứt tâm duyên Vô sở hữu xứ. Lúc nhập định này, tức quán định y nơi năm uẩn đều không thật nên không còn ái trước nữa. 
7) Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng xứ bội xả : Do xả vô sở hữu xứ định, nhứt tâm duyên phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Lúc nhập định này, y nơi năm uẩn đều không thật, nên tâm sanh nhàm chán
8) Diệt thọ tưởng bội xả : Vì nhàm chán cái tâm tán loạn nên nhập định cho diệt hẳn tâm ấy đi. Khi đắc định cả rồi thì thành ra tám đạo giải thoát nên gọi là Bát giải. 

16. Định ý : Tức tịnh tâm. Tu thiền định xa lìa ý tán loạn

17. Thanh Văn : Hàng đệ tử Tiểu thừa y theo chánh giáo của Phật dạy, tu tập pháp Tứ đế, đoạn Kiến hoặc và Tư hoặc, chứng chánh quả. Có 4 bực:
1) Tu đà hoàn (Dự lưu quả), 2. Từ đà hàm (Nhứt lai quả), 3. A na hàm (Bất lai quả), 4. A la hán (Vô sanh quả). 

18. Bích Chi Phật : Thuộc về trung thừa có 2 hạng : 
1) Độc Giác : ra đời không gặp đặng Phật và giáo pháp, do căn lành sẵn có, ngó thấy cảnh tang thương, hoa tàn, lá úa v.v... ngộ lý vô thường, phát tâm xuất ly dục trần, tự tu tập pháp vô thường quán, chứng quả vô sanh khỏi vòng sanh tử trong tam giới
2) Duyên Giác : Ra đời gặp Phật và giáo pháp, tu tập theo phép quán 12 nhơn duyên chứng quả vô sanh (Đồng bực A La Hán của Thanh Văn). 

19. Tu Bồ Đề : (Shabuti) Tàu dịch là Không Sanh. Bực Đại A La Hán tỏ ngộ lý chơn không, bực nhứt trong hàng Thanh Văn

20. Ngũ nghịch : 1) Giết cha ; 2) Giết mẹ ; 3) Giết A La Hán ; 4)Phá hòa hợp của chúng Tăng ; 5) Làm cho thân Phật chảy máu. 

21. Tứ Đế
1) Khổ đế : tất cả cảnh khổ trong ba cõi như sanh, già, bịnh, chết v.v... 
2) Tập đế : Nguyên nhân tất cả cảnh khổ, tức phiền não tham, sân, si v.v. chứa nhóm kết thành. 
3) Diệt đế : Tịch diệt Niết bàn ; dứt hết phiền não nguyên nhân thống khổ, khỏi hẳn sanh tử an vui vắng lặng
4) Đạo đế : Các Thánh đạo, những phương pháp tu hành để đoạn phiền não, chứng Thánh quả

22. Lục sư ngoại đạo : Sáu ông Thầy chủ trương học thuyết ngoại đạo
1) Phú Lan Na, chủ trương thuyết đoạn diệt
2) Mạt Già Lê, chủ trương thuyết tự nhiên sinh ; 
3) San Xà Gia, chủ trương thuyết không tu hành
4) A Kỳ Đa, chủ trương khổ hạnh
5) Ca Na, chủ trương thuyết ngụy blện ; 
6) Ni Càn Đà, chủ trương thuyết định mạng, tức Ấn Độ giáo bây giờ. 

23. Vô tránh tam muội : Là môn chánh định cao siêu hơn hết trong các môn chánh định của hàng Thanh Văn. Môn định này do vì liễu ngộ lý không, nên bỉ, ngã đều quên, không làm tổn não chúng sanh, lại hay khiến chúng sanh không khởi phiền não

24. Ba đường ác : Đia ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh

25. Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử : (Purnamaitrayaniputra) Tàu dịch là Mãn Từ Tử, nghĩa là con của ông Mãn (cha) bà Tữ (mẹ). ông có tài thuyết pháp bực nhứt trong hàng Thanh Văn

26. Ma Ha Ca Chiên Diên : (Maha Katyayana) Tàu dịch Văn Sức, nghĩa là nói năng diu dàng, biện luận rành rẽ. Ông là người có biện tài bực nhứt trong hàng Tỳ kheo

27. Vô thường : Tất cả pháp trong đời sanh diệt dời đổi phút chốc không dừng gọi là Vô thường. Trong Trí Độ Luận về quyển 23 nói : “Tất cả pháp hữu vi đều vô thường vì chập chập sanh diệt, vì thuộc nhơn duyên vậy”. 

28. Khổ : Những việc bức não thân tâm gọi là khổ, như sanh, già, bịnh, chết v.v... 

29. Không : Các pháp do nhân duyên sanh ra, tìm xét cùng tột không có thật thể, nên gọi là không. 

30. Vô ngã : Thân thể chỉ do ngũ uẩn giả hợp không có chủ tể thường nhứt. Các pháp đều do nhân duyên sanh cũng không có ngã thể thường nhứt. Trong kinh Kim Cang nói : người thông suốt được pháp vô ngã, Như Lai gọi là Chơn Bồ Tát

31. Tịch diệt : Tiếng Phạn gọi là Niết Bàn. Lý thể tịch tịnh lìa tất cả tướng gọi là Tịch Diệt

32. Thật tướng : Tướng chân thật không giả dối, tức là chỉ cho bản thể vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể ấy có khi gọi là Pháp tánh, Chơn như hay Thật tướng. Danh từ tuy khác mà thể là một. 

33. A Na Luật : (Aniruddha) cũng gọi A Nậu Lầu Đà. Tàu dịch là Như ý. Nghĩa là kiếp trước ông có cúng dường một vị Phật Bích Chi, nên đời đời cảm đặng quả báo phú túc, chỗ cầu đều mãn nguyện. Khi ông mới nhập đạo, tánh hay ưa ngủ, bị Phật quở trách ông tự hổ, tinh tấn tu tập thức luôn bảy ngày đêm đến nỗì hai mắt không thấy đường, nhờ Phật dạy tu pháp “Kim cang tam muội” nên sau ông đặng Thiên nhãn bực nhứt. 

34. A Ma Lặc : Thứ trái cây hình giống trái Binh Lang (trái cau) ăn nó trừ được bịnh phong lãnh. 

35. Ngũ thông : 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mạng thông, 5. Thần túc thông

36. Chơn thiên nhãn : Là mắt của Phật, Phật hằng ở trong định, vạn tượng đều hiện trước mắt, chưa từng không thấy, mà chưa từng có thấy, nên nói không có hai tướng. 

37. Ưu Ba Ly : (Upali) Tàu dịch là Cận Chấp, nghĩa là nói lúc Phật làm Thái tử, ngài Ưu Ba Ly làm quan đại thần: thân cận giúp cho Thái tử, sau theo Phật xuất gia, chứng quả A La Hán, ngài là bực giữ luật thứ nhứt. 

38. Nhạo thuyết biện tài : Bồ Tát do nội trí phát sáng hay tùy thuận căn tánh chúng sanh ưa nghe pháp mà diễn nói một cách viên dung vô ngại

39. La Hầu La : (Rahula) Tàu dịch là Phú Chướng, nghĩa là bị ngăn chướng ở trong thai mẹ 6 năm mới sanh ra, ông là con của Phật Thích Ca. Khi bà Da Du Đà La sanh ông ra, nhằm lúc thần A tu la lấy tay che khuất mặt trời, vì thế nên dặt tên ông là La Hầu La. Trong kinh Nhân Duyên nói : Trong 10 người đệ tử lớn của Phật, ông La Hầu Lamật hạnh bực nhứt. Đến hội Pháp Hoa, ông được thọ ký sau sẽ thành Phật hiệu là “Đạo thất Bảo Hoa Như Lai”. 

40. Chuyển Luân Vương : có bốn : 1. Thiết Luân Vương cai trị một châu thiên hạ; 2. Đồng Luân Vương cai trị 2 châu thiên hạ; 3. Ngân Luân Vương cai trị 3 châu thiên hạ; 4. Kim Luân Vương (cai trị 4 châu thiên hạ). Vì phước nghiệp đời trước, nên khi làm vua, có xe báu tự nhiên, hoặc bằng sắt, đồng, bạc, vàng hiện ra, vua ngồi xe đó đi tuần hay dẹp giặc trong cõi mình cai trị nên gọi là Chuyển Luân Thánh Vương

41. Hữu vi : Các pháp có tạo tác sanh diệt, tức là chỉ tất cả hiện tượng biến thiên trong vũ trụ

42. Vô vi : Vi là thi vi tạo tác, vô vi là cái không có thi vi tạo tác lại không bị bốn tướng Sanh, Trụ, Dị, Diệt cai quản, tức là bản thể chơn lý. 
43. Sáu mươi hai món kiến chấp : Đối với pháp ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mỗi ấm phái ngoại đạo khởi 4 món kiến chấp sai lầm : 1) Chấp sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc ; 2) Chấp ngã lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngã ; 3) Ngoài sắc chấp ngã riêng ; 4) Ngã tức là Sắc. Sắc ấm như thế thì các ấm kia cũng thế, cộng thành 20 kiến, trải ba đời nhơn thành 60 kiến, thêm hai phần căn bảnĐoạn kiếnThường kiến, thành 62 món tà kiến. Vì rừng kiến chấp sai lầm ấy, nên người đời không chừa một tội lỗi nào mà không làm. 

44. Ngu đạo : Năm đường : Trờí, người, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục

45. Ngũ nhãn
1) Nhục nhãn : Mắt thịt thấy gần không thấy xa, thấy ngoài không thấv trong, vì bị sắc chất ngăn ngại ; 
2) Thiên nhãn : Mất của chư Thiên nhơn tu thiền định mà thành. Mắt này có thể thấy tất cả xa gần, trước sau, trên dưới, ngày đêm, vì không có sắc chất làm ngăn ngại ; 
3) Huệ nhãn : mắt của hàng nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) quán thấy tất cả đều không ; 
4) Pháp nhãn : mắt của Bố Tát. Bồ Tátđộ sanh dùng Pháp nhãn thanh tịnh quán khắp tất cả các pháp và tất cả chúng sanh đem những món phương tiện dạy dỗ khiến họ tu chứng
5) Phật nhãn : Mắt của Phật, do trí tuệ viên mãn cứu cánh của Phật có đủ bốn con mắt trước nhưng có phán đặc biệt hơn, như : Người thấy rất xa, Phật lại thấy rất gần, người thấy tối tăm, Phật lại thấy sáng, cho đến không việc gì mà Ngài không thấy, không biết, không nghe, không cần để ý mà đều thấy nghe tất cả. 

46. Ngũ căn : 1. Tín căn ; 2.Tấn căn ; 3. Niệm căn ; 4. Định căn ; 5. Huệ căn đã giải nơi 2 phẩm trong phần 37 phẩm trợ đạo số 26). 

47. Ngũ lực : Tức tu năm căn trên được tăng trưởngthế lực phá trừ 5 chướng : 
1) Tín lực : tín căn tăng trưởng, phá các lòng tin sai lầm mù quáng
2) Tấn lực : tinh tấn căn tăng trưởng phá được tính lười biếng của thân tâm; 3) Niệm lực : niệm căn tăng trưởng phá được các niệm sai lầm tà vạy
4) Định lực : định căn tăng trưởng phá được các tư tưởng loạn dộng ; 
5) Huệ lực : huệ căn tăng trưởng phá được các sự mê lầm trong 3 cõi. 

48. Tạp ác : Các việc không lành của tâm tạp nhiễm gây tạo. Hai chữ tạp ác đây, ý nói, dù làm mọi việc phước thiện mà tâm tạp nhiễm tán loạn cũng gọi là tạp ác. Chỉ dứt trừ vọng tưởng đến đạo lý cứu cánh Niết Bàn mới gọi là lìa các tạp ác. 

49. Vô thượng Bồ đề : Tức trí giác tuyệt đối, cũng như chữ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có giải ở trước. 

50. A Nan : Nói đủ A Nan Đà (Anada). Tàu dịch là Khánh Hỷ, ông là con chú bác với Phật Thích Ca, học rộng. nhớ nhiều là bực đa văn thứ nhứt trong hàng Thanh Văn đệ tử

51. Kim cang : Một chất rất cứng chắc không chi phá vỡ nó được, mà nó lại hay phá vỡ các thứ cứng 

52. Pháp thân : Có 3 thứ : 
1) Pháp Hóa sanh thân, tức là thân Kim cang
2) Ngũ phần pháp thân (đã giải nơi phẩm 2) ;
3) Thật tướng của các pháp, 
đồng hợp thành thân Phật. 

53. Tư dục thân : Thân hình do tư tưởng ái dục đợi duyên hòa hiệp sanh ở trong 3 cõi. 

54. Vô lậu : Không còn rơi lọt, tức từ các bực Thánh trong hàng Thanh Văn. Bồ Tát tu hành đã dứt hết phiền não, tự tâm thanh tịnh giải thoát, không còn nghiệp chướng rơi lọt vào trong ba cõi sanh tử nữa nên gọi là vô lậu

55. Năm món trược : 
1) Kiếp trược : thời gian biến đổi không ngừng có đủ 4 món trược dưới đây : 
2) Kiến trược : sự thấy biết sai lầm, tin nhận tà vạy, chính là những món “Lợi sử” vậy. 
3) Phiền não trược : tham sân lững lẫy, si mê điên đảo v.v... chính là những món “Độn sử’ vậy. 
4) Chúng sanh trược : sanh tử, tử sanh nối luôn không dứt. 
5) Mạng trược : thọ mạng ngắn ngủi. 

56. Bổn duyên : Do lai duyên sự của mình. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11597)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16499)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19586)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11811)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12576)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15621)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13572)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17953)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11124)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant