Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Phẩm Bồ Tát

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6535)
4. Phẩm Bồ Tát

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

IV PHẨM BỒ TÁT (1)

BỒ TÁT DI LẶC (2)

Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ Tát Di Lặc
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Di Lặc bạch Phật
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? - Nhớ lại lúc trước con nói hạnh “bất thối chuyển” (3), cho vị Thiên Vươngcõi trời Đâu Suấtquyến thuộc của người, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng : “Ngài Di Lặc ! Thế Tôn thọ ký (4) cho Ngài một đời sẽ được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là đời nào mà Ngài được thọ ký ? Đời quá khứ chăng ? Đời vị lai chăng ? Đời hiện tại chăng ? Nếu là đời quá khứ thời quá khứ đã qua. Nếu là đời vị lai thời vị lai chưa đến. Nếu là đời hiện tại thời hiện tại không dừng (trụ) . Như lời Phật nói : “Này Tỳ Kheo! Như ông ngay bây giờ cũng sanh, cũng già, cũng chết !”. Nếu dùng vô sanh (5) mà được thọ ký, thì vô sanh tức là chánh vị (6), ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng không được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế nào Di Lặc được thọ ký một đời ư ? Là từ “Như” sanh mà được thọ ký, hay là từ “Như” diệt mà được thọ ký ? Nếu từ Như sanh mà được thọ ký, mà Như không có sanh. Nếu từ Như diệt được thọ ký, mà Như không có diệt. Tất cả chúng sanh đều Như, tất cả Pháp cũng Như, các Thánh Hiền cũng Như, cho đến Di Lặc cũng Như. Nếu Di Lặc được thọ ký, tất cả chúng sanh cũng phải được thọ ký - Vì sao ? Vì Như không hai không khác. Nếu Di Lặc được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả chúng sanh cũng đều được. Vì sao ? - Tất cả chúng sanh chính là tướng Bồ Đề(7). Nếu Di Lặc được diệt độ, tất cả chúng sanh cũng phải diệt độ. Vì sao ? - Chư Phật biết tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng, chính là tướng Niết bàn, chẳng còn diệt nữa. Cho nên Di Lặc, chớ dùng Pháp đó dạy bảo các Thiên tử, thật không có chi phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có chi thối lui. Ngài Di Lặc ! Phải làm cho các vị Thiên tử này bỏ chỗ kiến chấp phân biệt Bồ Đề. Vì sao ? Bồ Đề không thể dùng thân được, không thể dùng tâm được. Tịch diệtBồ Đề, vì diệt các tướng; chẳng nhận xétBồ Đề, vì ly các duyên ; chẳng hiện hạnh là Bồ Đề, vì không ghi nhớ; đoạn là Bồ Đề, bỏ các kiến chấp ; ly là Bồ Đề, lìa các vọng tưởng ; chướng là Bồ Đề, ngăn các nguyện (8) ; bất nhập là Bồ Đề, không tham đắm ; thuận là Bồ Đề, thuận chơn như ; trụ là Bồ Đề, trụ pháp tánh ; đến là Bồ Đề, đến thật tế ; bất nhị (9) là Bồ Đề, ly ý pháp; bình đẳngBồ Đề, đồng hư không ; vô viBồ Đề, không sanh, trụ, diệt ; tri là Bồ Đề, rõ tâm hạnh chúng sanh ; không hội là Bồ Đề, các nhập không nhóm(10) ; không hiệp là Bồ Đề, rời tập khí phiền não; không xứ sở là Bồ Đề, không hình sắc ; giả danhBồ Đề, danh tự vốn không; như huyễn hóa là Bồ Đề, không thủ xả ; không loạn là Bồ Đề, thường tự vắng lặng ; thiện tịch là Bồ Đề, tánh thanh tịnh ; không thủ là Bồ Đề, rời phan duyên; không khác là Bồ Đề, các Pháp đồng đẳng ; không sanh là Bồ Đề, không thể ví dụ ; vi diệuBồ Đề, các Pháp khó biết. 

– Bạch Thế Tôn ? Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, hai trăm vị Thiên tử chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. 

ĐỒNG TỬ QUẢNG NGHIÊM (11–12)

Phật bảo Đồng tử Quang Nghiêm : 
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Quang Nghiêm bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? - Nhớ lại ngày trước con ở trong thành lớn Tỳ Da Ly vừa ra, lúc đó ông Duy Ma Cật mới vào thành, con liền chào và hỏi rằng : “Cư sĩ, từ đâu đến đây ?”. 

Ông đáp : “Tôi từ Đạo tràng (13) đến”. 

Con hỏi : “Đạo tràng là gì ?”. 

Ông đáp Trực tâmĐạo tràng, vì không hư dối ; phát hạnh là đạo tràng, làm xong các việc ; thâm tâmđạo tràng, thêm nhiều công đức ; Bồ Đề tâmđạo tràng, vì không sai lầm; bố thíđạo tràng, không mong phước báu; trì giớiđạo tràng, được nguyện đầy đủ ; nhẫn nhụcđạo tràng, đối chúng sanh tâm không chướng ngại ; tinh tấnđạo tràng, không biếng trễ ; thiền địnhđạo tràng, tâm điều nhu (14) ; trí tuệđạo tràng, thấy rõ các Pháp ; từ là đạo tràng, đồng với chúng sanh ; bi là đạo tràng, nhẫn chịu sự khổ nhọc ; hỉ là đạo tràng, ưa vui Chánh Pháp ; xả là đạo tràng, trừ lòng thương ghét; thần thôngđạo tràng, thành tựu Pháp lục thông; giải thoátđạo tràng, hay trái bỏ; phuơng tiện là đạo tràng, giáo hóa chúng sanh; tứ nhiếp là đạo tràng, nhiếp độ chúng sanh ; đa văn(15) là đạo tràng, đúng theo chỗ nghe mà thật hành ; phục tâm là đạo tràng, chánh quán (16) các Pháp ; ba mươi bảy phẩm trợ đạođạo tràng, bỏ Pháp hữu vi; tứ đếđạo tràng, chẳng dối lầm thế gian; duyên khởiđạo tràng, từ vô minh cho đến lão, tử đều không hết ; các phiền nãođạo tràng, biết là vô ngã; tất cả Pháp là đạo tràng, biết các Pháp trống không; hàng mađạo tràng, không lay động; tam giớiđạo tràng, không chỗ đến ; sư tử rống là đạo tràng, không sợ sệt; thập lực, vô úy, bất cộng phápđạo tràng, không các lỗi ; tam minhđạo tràng, không còn ngại ; một niệm biết tất cả Pháp là đạo tràng, thành tựu nhứt thiết chủng trí (17). Như vậy Thiện nam tử ! Nếu Bồ Tát đúng theo các Pháp ba la mậtgiáo hóa chúng sanh, thời bao nhiêu việc làm, hoặc nhứt cử nhứt động, phải biết đều là từ nơi đạo tràng mà ra, ở nơi Phật Pháp vậy”. 

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, năm trăm vị Thiên nhơn đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. 

BỒ TÁT TRÌ THẾ (18)

Phật bảo Bồ Tát Trì Thế : 
- Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Bồ Tát Trì Thế bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? - Nhớ lại lúc trước, con ở nơi tịnh thất, bấy giờ ma Ba Tuần (19) đem một muôn hai nghìn Thiên nữ giống như trời Đế Thích, trổi nhạc đờn ca đi đến chỗ con ở, Ma cùng với quyến thuộc cúi đầu làm lễ dưới chân con, chấp tay cung kính đứng sang một bên. Trong ý con cho là trời Đế Thích nên bảo rằng : “Lành thay, mới đến Kiều Thi Ca (20) ? Dù là có phước chớ nên buông lung. Ông nên quán ngũ dụcvô thường để cầu cội lành, ở nơi thân mạng, tài sảntu pháp bền chắc (21)”. 

Ma vương nói với con: “Thưa Chánh sĩ (22) ! Xin Ngài nhận một muôn hai nghìn Thiên nữ này để dùng hầu hạ quét tước”. Con nói rằng : “Này Kiều Thi Ca ! Ông đừng cho vật phi pháp này, tôi là kẻ Sa môn Thích tử, việc ấy không phải việc của tôi”. Nói chưa dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cạt đến nói với con : “Đây chẳng phải là Đế Thich, mà là Ma đến khuấy nhiễu ông đấy !...” Ông lại bảo Ma rằng : “Các vị Thiên nữ này nên đem cho ta, như ta đây mới nên thọ”. Ma sợ hãi nghĩ rằng : “Có lẽ ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng ?”. Ma muốn ẩn hình mà không thể ẩn, rán hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe giữa hư không có tiếng rằng : “Này Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma Cật thì mới đi được”. Ma vì sợ hãi, nên miễn cưỡng cho. 

Khi ấy ông Duy Ma Cật bảo các Thiên nữ rằng:
- Ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay các ngươi đều phải phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Rồi ông theo căn cơ của Thiên nữ mà nói pháp để cho phát ý đạo, và bảo rằng “Các ngươi đã phát ý đạo, có Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục (23) nữa”. 

Thiên nữ hỏi : “Thế nào là Pháp vui ?”. 

Đáp : “Vui thuờng tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng dường tăng; vui lìa ngũ dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ đại như rắn độc; vui quán nội nhập (sáu căn) như không; vui giữ gìn đạo ý; vui lợi ích chúng sanh; vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui nhẫn nhục nhu hòa; vui siêng nhóm căn lành, vui thiền định chẳng loạn; vui rời cấu nhiễm đặng trí tuệ sáng suốt; vui mở rộng tâm Bồ Đề; vui hàng phục các Ma; vui đoạn phiền não; vui thanh tịnh cõi nuớc Phật; vui thành tựu các tướng tốt mà tu các công đức; vui trang nghiêm đạo tràng; vui nghe pháp thâm diệu mà không sợ; vui ba môn giải thoátkhông vui phi thời (24); vui gần bạn đồng học; vui ở chung với người không phải đồng học mà lòng không chướng ngại, vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri thức; vui tâm hoan hỷ thanh tịnh; vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Đó là Pháp vui của Bồ Tát”. 

Khi ấy ma Ba Tuần bảo các Thiên nữ rằng : “Ta muốn cũng các ngươi đồng trở về Thiên cung”. 

Các Thiên nữ đáp : “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, chúng tôipháp vui, chúng tôi vui lắm, không còn muốn vui theo ngũ dục nữa”. 

Ma liền thưa với ông Duy Ma Cật rằng : “Xin Ngài nên xả các Thiên nữ này; người đem tất cả vật của mình để bố thí cho kẻ khác, đó mới là Bồ Tát”. 
Ông Duy Ma Cật nói : “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem đi để cho tất cả các người được pháp nguyện đầy đủ”. 

Lúc ấy các Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng:
- Chúng tôi làm thế nào ở nơi cung ma?

Ông Duy Ma Cật đáp : “Này các chị, có Pháp môn tên là “Vô tận đăng”, các chị nên học. Vô tận đăngví như một ngọn đèn mồi đốt trăm ngàn ngọn đèn, chỗ tối đều sáng, sáng mãi không cùng tận. Như thế đó các chị ? Vả lại một vị Bồ Tát mở mang dẫn dắt trăm nghìn chúng sanh phát tâm Bồ Đề, đạo tâm của mình cũng chẳng bị tiêu mất, tùy nói Pháp gì đều thêm lợi ích cho các Pháp lành, đó gọi là “Vô tận đăng”. Các chị dầu ở cung ma mà dùng Pháp môn “Vô Tận Đăng” này làm cho vô số Thiên nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác, đó là báo ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh”.

Bấy giờ các Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi theo ma Ba Tuần trở về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa. 

- Bạch Thế Tôn ! Ông Duy Ma Cậtthần lực tự tạitrí tuệ biện tài như thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. 

TRƯỞNG GIẢ TỬ THIỆN ĐỨC

Phật bảo Trưởng giả tử Thiện Đức
- Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Thiện Đức bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại thuở trước, con lập ra hội đại thí ở nhà cha con, hạn trong bảy ngày để cúng dường cho tất cả vị Sa môn, Bà la môn, cùng hàng ngoại đạo, kẻ nghèo khó, hèn hạ, cô độc và kẻ ăn xin. Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến trong hội nói với con rằng : “Này Trưởng giả tử ! Vả chăng hội đại thí không phải như hội của ông lập ra đâu, phải làm hội Pháp thí(26) chớ lập ra hội đại thí này làm gì ?. 

Con nói: “Thưa Cư sĩ ! Sao gọi là hội Pháp thí”. 

Ông đáp : “Hội Pháp thíđồng thời cúng dường tất cả chúng sanh, không trước không sau đó là hội Pháp thí”. 

Con hỏi : “Thế là nghĩa gì ?”. 

Cư sĩ đáp : “Nghĩa là vì đạo Bồ Đề, khởi từ tâm; vì cứu chúng sanh, khởi tâm đại bi ; vì muốn giữ gìn chánh pháp, khởi tâm hoan hỉ ; vì nhiếp trí tuệ, làm theo tâm xả ; vì nhiếp tâm tham lẫn, khởi bố thi ba la mật, vì độ kẻ phạm giới khởi trì giới ba la mật, vì không ngã (27) pháp (28), khởi nhẫn nhục ba la mật ; vì rời tướng thân tâm, khởi tinh tấn ba la mật; vì tướng Bồ Đề, khởi thiền định ba la mật; vì nhứt thiết trí, khởi trí tuệ ba la mật; vì giáo hóa chúng sanh mà khởi ra “Không” ; chẳng bỏ Pháp hữu vi mà khởi “Vô tướng”; thị hiện thọ sanh mà khởi “vô tác”; hộ trì Chánh Pháp, khởi sức phương tiện; vì độ chúng sanh, khởi pháp tứ nhiếp; vì kính thờ tất cả, khởi pháp trừ khinh mạn; đối thân, mạng và tài sản, khởi ba pháp bền chắc; trong pháp lục niệm(29) khởi ra pháp nhớ tưởng; ở sáu pháp hòa kính (30) , khởi tâm chất trực; chơn chánh thật hành thiện pháp, khởi sự sống trong sạch; vì tâm thanh tịnh hoan hỷ, khởi gần bậc Thánh hiền ; vì chẳng ghét người dữ, khởi tâm điều phục; vì pháp xuất gia, khởi thâm tâm; vì đúng theo chỗ nói mà làm khởi đa văn; vì Pháp vô tránh, khởi ở chỗ yên lặng; vì đi tới Phật huệ, khởi ra ngồi yên lặng (tọa thiền); vì mở ràng buộc cho chúng sanh, khởi tâm tu hành; vì đầy đủ tướng tốt và thanh tịnh cõi Phật, khởi sự nghiệp phước đức; vì muốn biết tâm niệm tất cả chúng sanh đúng chỗ nên nói pháp, khởi ra nghiệp trí; vì biết tất cả pháp không lấy không bỏ, vào môn nhứt tướng(31), khởi ra nghiệp huệ; vì đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả bất thiện, khởi làm tất cả pháp trợ Phật đạo. Như vậy Thiện nam tử ? Đó là hội pháp thí. Nếu Bồ Tát trụ nơi hội pháp thí đó, là vị đại thí chủ, cũng là phước điền cho tất cả thế gian”. 

- Bạch Thế Tôn ? Khi ông Duy Ma Cật nói pháp ấy, trong chúng Bà la môn hai trăm người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

Lúc đó tâm con đặng thanh tinh, ngợi khen chưa từng có, cúi đầu đảnh lễ dưới chơn ông Duy Ma Cật. Con liền mở chuỗi Anh lạc giá đáng trăm nghìn lượng vàng dâng lên, ông không chịu lấy. Con nói : “Thưa Cư sĩ ! Xin Ngài hãy nạp thọ, tùy ý Ngài cho”. ông Duy Ma Cật liền lấy chuỗi Anh lạc chia làm hai phần, một phần đem cho người ăn xin hèn hạ nhứt trong hội, còn một phần đem dâng cho đức Nan Thắng Như Lai. Tất cả chúng trong hội đều thấy cõi nước Quang Minh và đức Nan Thắng Như Laỉ, lại thấy chuỗi Anh lạc ở trên đức Phật kia biến thành bốn trụ đài quí báu, bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che nhau. 

Khi ấy, ông Duy Ma Cật hiện thần biến xong, lại nói rằng: “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy”. 

Trong thành những người ăn xin hèn hạ bực nhất thấy thần lực như vậy và nghe lời nói kia, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Như thế, các Bồ Tát dều tuần tự đến trước Phật trình bày chỗ bổn duyên của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại những lời ông Duy Ma Cật và đều nói “Không kham lãnh đến thăm bịnh ông”. 

Chú thích của phẩm IV

1.Bồ tát: Nói đủ là Bồ Đề Tát Đỏa [Bodhisatra] Tàu dịch là Giác hữu tình, nghĩa là tự mình đã giác ngộ, lại hay giác ngộ cho chúng sanh.

Bồ Tát có 3 bực :
A) Những người mới phát tâm tu hành cầu pháp Đại thừa, tu hạnh Bồ Tát, là Bồ Tát mới phát tâm
B) Những người học đạo Đại thừa đã lâu đời, chứng đặng bực Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng cho đến Thập Địa là bực Bồ Tát tu lâu. 
C) Bồ Tát chứng bực Đẳng giác (kề Phật gọi là Bổ xứ Bồ Tát). 

2. Di Lặc : (Maitreya) Tàu dịch là Từ Thị, là họ, tên là A Dật Đa. Ngài tu hạnh từ tâm không ai sánh bằng, sau sẽ ra đời nối Đức Phật Thích Cathuyết pháp độ sanh gọi là Bổ xứ Bồ Tát

3. Bất thối chuyển : Theo Đại thừa pháp tướng có 3 bực : 
1) Vị bất thối : Từ khi phát tâm tin chắcĐại thừa, trải muôn kiếp tu nhơn vào bực Thập trụ rồi không còn thối đọa trong đường sanh tử nữa. 
2) Hạnh bất thối : Đã vào bực Sơ Địa, nơi hạnh lợi tha không còn lui sụt. 
3) Niệm bất thối : từ bực Bát địa nhẫn lên đặng Diệu trí vô công dụng, mỗi niệm mỗi niệm thẳng vào biển quả chơn như, không còn một niệm nào thối chuyển

4. Thọ ký : Đức Phật đối với chúng sanh phát tâm Đại thừa trao cho lời ký về sau ở nơi kiếp nào, sẽ thành Phật hiệu là gì, cõi nước tên chi và trụ thế bao lâu, độ sanh bao nhiêu. 

5. Vô sanh : Chơn lý Niết bàn không sanh không diệt. 

6. Chánh vị : Tức thật tướng thường trú Niết bàn của Tiểu thừa cũng gọi là chánh vị; chính là quả vị để tu chứng

7. Bồ đề tướng : Cái tướng không tướng là tướng Bồ Đề 

8. Chướng nguyện : Chơn như đạo lý không có sự mong muốn nên ngăn tất cả sự nguyện cầu. 

9. Bất nhị :Không hai; Ý và Pháp là hai mà Bồ đềvô tâm ý thì còn có pháp gì nữa, nên nói là không hai.

10. Các nhập không nhóm : 6 nhập trong và ngoài, tức 6 căn và 6 trần xung nhập nhau. Tự tánh nó vốn không, nên nói là không nhóm. 

11. Quang nghiêm : Là dùng trí tuệ quang minhphước đức quang minh trang nghiêm Pháp thân thanh tịnh, gọi là Quang nghiêm. 

12. Đồng tử : Chẳng luận là tuổi trẻ mới gọi là Đồng tử, mà những vị tu hành từ nhỏ tới già trọn không phạm dâm dục, không mất hạnh thanh tịnh đều được gọi là Đồng tử

13. Đạo tràng : Là chỗ của đức Phật thành đạo như : tòa Kim Cang; hoặc chỗ cúng dường đức Phật, chỗ tu tập ngồi thiền, nơi chùa chiền cho đến những hạnh Pháp tu hành đắc đạo như trực tâm, thâm tâm v.v... cũng gọi là Đạo tràng

14. Điều nhu : Đối trị phiến não làm cho mềm đi. 

15. Đa văn : Rộng nghe Phật pháp, y theo chỗ nghe mà thật hành gọi là Đa văn
16. Chánh quán : Quán hiệp đúng như lời kinh Phật dạy là chánh quán, nếu quán khác là tà quán

17. Nhứt thiết chủng trí : Trí của Phật biết rõ tất cả đúng như thật

18. Trì Thế Bồ Tát : Là vị Bồ Tát giữ gìn Phật pháp, đem giáo hóa chúng sanh trong đời

19. Ba tuần : Tàu dịch là : Ác giả, sát giả tên thứ Ác maác ý, làm các việc ác, thường muốn làm dứt mất huệ mạng của người tu hành

20. Kiều Thi Ca : Là họ của trời Đế Thích, tên là Thích Đề Hoàn Nhơn

21. Tu pháp bền chắc : Có 3 pháp bền chắc là ở nơi thân mạngcủa cải đều quên bỏ, mà tu hành theo chánh đạo, sẽ được cái thân bất hoại, mạng vô cùng, của vô tận, dù cho trái đất cháy tan, kiếp số có cùng tận, mà 3 món ấy đều không tận, nên nói là bền chắc. 

22. Chánh sĩ : Tiếng Phạn là Bồ Tát, dịch là Chánh Sĩ, nghĩa là bực cầu chánh đạo tu hạnh Đại thừa

23. Ngũ dục : Năm món làm khởi tâm ham muốn của người: 1) Sắc, 2) Thinh, 3) Hương, 4) Vị, 5) Xúc. Lại có chỗ nói : 1) Của cải, 2) Sắc đẹp, 3) Uống ăn, 4) Danh dự, 5)Ngủ nghỉ. 

24. Vui ba môn giải thoát, không vui phi thời : Ba môn 1)Không, 2)Vô tướng, 3)Vô tác. Ba thừa đều noi theo tu tập gọi là môn, cởi mở sự ràng buộc gọi là giải thoát. Tu hành chưa đến chỗ cùng tột, giữa chừng muốn thủ chứng như hàng Nhị thừa, đó là Phi Thời. Hàng Bồ Tát không muốn như thế nên nói là không vui phi thời

25. Trưởng giả tử Thiện Đức : Là vị trưởng giả có căn lành đầy đủ, cội đức trồng sâu nên xưng là Thiện Đức

26. Pháp thí : Thí có 3 cách : 
1) Tài thí : là dùng của cải bố thí cho người; 
2) Tâm thí : dùng tâm từ, tâm bình đẳng ban sự vui cho người. 
3) Pháp thí : nói pháp độ người làm những việc lợi ích chúng sanh hiện tạivị lai

27. Ngã : Phần tác động chủ tể

28. Pháp : Phần thể chất, hình tượng, nghĩa lý, vũ trụ

29. Lục niệm
1) Niệm Phật : tuởng niệm đấng thực hiện sự thực; 
2) Niệm Pháp : tưởng niệm sự thực; 
3) Niệm Tăng : tưởng niệm người thực hành sự thực;
4) Niệm Giới : tưởng niệm công đức giới pháp và sự giữ giới
5) Niệm thí : tưởng niệm sự bố thí
6) Niệm thiên: tưởng niệm sanh về cõi chư Thiên. Thiên có ba: 1) Tam giới thiên : cõi Dục, Sắc và Vô Sắc; 2) Tịnh thiên : cảnh giới của Nhị thừa sanh về. 3) Đệ nhứt nghĩa thiên : cảnh giới của Bồ Tát sanh về. 

30. Sáu pháp hòa kính: 
1) Thân hòa kính : Thân nghiệp đồng cung kính nhau. 
2) Khẩu hòa kính: Khẩu nghiệp đồng ngợi khen khuyên nhủ nhau. 
3) Ý hòa kính : Tâm ý đồng tín mến nhau. 
4) Giới hòa kính : Đồng giữ một giới pháp
5) Kiến hòa kính : Chỗ hiểu biết đồng giải bày cho nhau. 
6) Lợi hòa kính : Đồng chia các món cúng dường

31. Nhứt tướng : Thể tánh chơn thật bình đẳng, không có tướng sai khác, nên gọi là Nhứt tướng. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33302)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6560)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11307)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30421)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30447)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7996)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12225)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12271)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11621)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12853)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34814)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52286)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10767)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13098)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16308)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21869)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9638)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7138)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12784)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16253)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16549)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13881)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16616)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12142)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13855)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14342)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9226)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11768)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11291)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16354)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14369)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16212)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11527)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12681)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11976)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13143)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14570)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20735)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20411)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17678)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14039)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant