Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Phẩm Phật Đạo

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6503)
8. Phẩm Phật Đạo

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

VIII PHẨM PHẬT ĐẠO (1)

Bấy giờ Ngài văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng : 
- Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật đạo
- Bồ Tát thật hành phi đạo(2) (trái đạo) là thông đạt Phật đạo
- Lại hỏi : Thế nào là Bồ Tát thật hành Phi đạo
- Nếu Bồ Tát gây năm tội vô gián(3) mà không buồn giận, đến ở trong địa ngục mà không có tội cấu; đến trong loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỉ mà vẫn đầy đủ công đức; đến cảnh Sắc và Vô Sắc giới mà không cho là thù thắng; hiện làm tham dục mà không nhiễm đắm; hiện làm giận dữ mà đối với chúng sanh không có ngại gì; hiện cách ngu si mà dùng trí tuệ điều phục tâm mình; hiện làm hạnh tham lam bỏn sẻn mà bỏ tất cả của cải, không tiếc thân mạng; hiện phá giới cấm mà ở trong tịnh giới, đến như tội bé nhỏ cũng hết lòng sợ sệt; hiện làm giận dũi mà thường từ bi, nhẫn nhục; hiện làm lười biếng mà siêng tu các công đức; hiện làm loạn ý mà thường niệm định; hiện làm ngu sithông đạt trí tuệ thế gianxuất thế gian; hiện làm dua dối mà phương tiện thuận theo nghĩa các kinh; hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sanh mình cũng như cầu, đò(4); hiện làm tất cả phiền não mà lòng thường thanh tịnh; hiện vào trong chúng ma mà thuận theo trí tuệ của Phật, không theo đạo giáo khác; hiện làm hàng Thanh Văn mà nói các pháp chưa từng nghe cho chúng sanh; hiện vào hàng Bích Chi Phậtthành tựu lòng đại bi, giáo hóa chúng sanh; hiện vào hạng nghèo nàn mà có tay đầy đủ của công đức; hiện vào hạng tàn tật mà đủ tướng tốt để trang nghiêm thân mình; hiện vào hạng hèn hạ mà sanh trong giòng giống Phật, đầy đủ các công đức; hiện vào hạng người ốm yếu xấu xa mà được thân Na-la-diên (kim cang), tất cả chúng sanh đều muốn xem; hiện vào hạng già bịnh mà đoạn hẳn gốc bịnh, không còn sợ chết; hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm; hiện có thê thiếp, thế nữ mà tránh xa bùn lầy ngũ dục; hiện nơi hạng đần độnthành tựu biện tài, vẫn giữ tổng trì; hiện vào tà tế(5) mà dùng chánh tế độ chúng sanh; hiện vào khắp các đạo, để đoạn dứt nhơn duyên; hiện vào Niết bàn mà không bỏ sanh tử. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ? Nếu Bồ Tát làm được những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật đạo

Bấy giờ, ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng : 
- Thế nào là hột giống Như Lai
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : 
- Có thân là hột giống; vô minh có ái là giống; tham, sân, si là giống; 4 món điên đảo(6) là giống; 5 món che ngăn là giống; 6 nhập là giống ; 7 chỗ thức(7) là giống; 8 pháp tà(8) là giống; 9 món não(9) là giống; 10 điều bất thiện là giống; nói tóm lại 62 món tà kiến và tất cả phiền não đều là giống Phật cả. 

Ông Duy Ma Cật hỏi : 
- Tại sao thế ? 
- Nếu người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết bàn) thời không thể còn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ví như chỗ gò cao không thể sinh hoa sen, mà nơi bùn lầy thấp ướt mới có hoa sen. Như thế, người thấy vô vi, vào chánh vị không còn sanh trong Phật pháp được, mà ở trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh nghĩ đến Phật pháp mà thôi. Lại như gieo hột giống trên hư không thì không sinh được, ở đất phân bùn mới tốt tươi được. Như thế, người đã vào vô vi chánh vị không sanh được trong Phật pháp, kẻ khởi ngã kiến như núi Tu Di còn có Thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà sinh trong Phật pháp. Cho nên phải biết tất cả phiền não là giống Như Lai. Ví như không xuống bể cả, không thể đặng bảo châu vô giá, cũng như không vào biển cả phiền não thời làm sao mà có ngọc báu “nhứt thiết trí”. 

Lúc bấy giờ Ngài Đại Ca Diếp khen rằng : 
- Hay thay ! Hay thay ! Ngài Văn Thù Sư Lợi, lời nói thích quá. Thật đúng như lời Ngài nói những bọn trần lao là giống Như Lai. Hôm nay, chúng tôi không còn kham phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến như người đủ 5 tội vô gián còn có thể phát ý mong sanh trong Phật pháp, mà nay chúng tôi hoàn toàn không phát được. Ví như những người 5 căn(10) đã hư, đối với 5 món dục lạc chẳng còn cảm xúc. Cũng như hàng Thanh Văn đã đoạn hết kiết sử, ở trong Phật pháp không còn có lợi ích gì mấy, bởi không còn có chí nguyện

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Vì thế nên phàm phu ở trong Phật pháp còn có ảnh hưởng, mà hàng Thanh Văn thời không. Vì sao ? Vì phàm phu nghe Phật nói pháp khởi được đạo tâm vô thượng, chẳng đoạn Tam bảo, còn chính như Thanh Văn trọn đời nghe Phật pháp : 10 lực, 4 món vô úy v.v. . . mà hoàn toàn cũng không phát được đạo tâm vô thượng

Trong chúng hộiBồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cật rằng : 
- Cư sĩ ! Cha mẹ , vợ con, thân bằng quyến thuộc, những người tri thức là ai ? Tôi tớ, trai bạn, voi ngựa, xe cộ ở đâu ? 

Ông Duy Ma Cật dùng bài kệ đáp rằng : 

Trí độ(11) mẹ Bồ Tát
Phương tiện ấy là cha,
Đạo sư tất cả chúng, 
Đều do đấy sanh ra. 
Pháp hỷ(12) Chính là vợ, 
Tâm từ bi là gái, 
Tâm thành thực là trai, 
Rốt ráo vắng lặng : nhà. 
Trần lao(13) là đệ tử
Tùy ý mà sai sử, 
Đạo phẩm (14) vốn bạn lành . 
Do đấy thành chánh giác
Các độ(15) là pháp lữ
Tứ nhiếp là kỹ nữ. 
Ca ngâm tụng lời pháp, 
Lấy đó làm âm nhạc
Vườn tược ấy tổng trì(16), 
Cây rừng, pháp vô lậu
Hoa, giác ý(17) sạch mầu, 
Trái, giải thoát trí tuệ
Bát giải (thoát)(18) là ao tắm, 
Nước định lặng trong đầy, 
Rải bảy thứ tịnh hoa(19), 
Để tắm người không nhơ. 
Ngũ thông (20), voi, ngựa chạy, 
Đại thừa là xe cộ, 
Cầm cươngnhất tâm
Dạo chơi đường bát chánh(21). 
Tướng đủ nghiêm mặt mày, 
Các tốt trau hình dáng
Hổ thẹn làm thượng phục(22), 
Thâm tâm làm tràng hoa
Giàu có bảy của báu(23) 
Dạy bảo để thêm lợi, 
Như lời nói tu hành
Hồi hướng làm lợi lớn. 
Tứ thiền làm giường ghế, 
Từ tịnh mạng sanh ra, 
Học rộng thêm trí tuệ
Đó là tiếng tự giác
Món ăn : pháp cam lồ
Nước uống : vị giải thoát
Tắm rửa sạch tịnh tâm
Hương thoa là giới phẩm
Trừ dẹp giặc phiền não
Mạnh mẽ không ai hơn, 
Hàng phục bốn thứ ma(24) 
Phướng tốt dựng đạo tràng
Tuy biết không sanh diệt
Vì dạy chúng, có sanh, 
Khắp hiện vào các cõi, 
Như mặt nhựt, đều thấy. 
Cúng dường khắp mười phương
Không lường ức Như Lai
Chư Phật và thân mình, 
Không có tưởng phân biệt
Dầu biết các cõi Phật
Với chúng sanh đều không, 
Mà thường tu Tịnh độ
Dạy dỗ cho quần sanh
Bao nhiêu loài hữu tình
Oai nghi cùng hình, tiếng, 
Bồ Tát lực, vô úy
Đồng thời đều khắp hiện. 
Rõ biết các việc ma, 
Mà hiện theo hạnh nó. 
Dùng trí phương tiện khéo
Tùy ý đều hay hiện, 
Hoặc hiện già, bịnh, chết, 
Thành tựu cho chúng sanh
Rõ biết như huyễn hóa, 
Thông suốt không ngăn ngại. 
Hoặc hiện kiếp cháy tan, 
Đại địa đều trống rỗng, 
Những người có tưởng “thường”, 
Soi thấy rõ vô thường
Vô số ức chúng sanh
Đều đến thỉnh Bồ Tát
Đồng thời đến nhà kia, 
Dạy cho về Phật đạo
Kinh sách, cấm, chú thuật
Các nghề nghiệp khéo léo, 
Đều hiện làm việc ấy, 
Lợi ích cho quần sanh
Các đạo pháp thế gian
Nương đấy mà xuất gia
Để giải mê cho người, 
Mà chẳng đọa tà kiến 
Làm Nhựt, Nguyệt thiên tử, 
Làm Phạm Vương, chủ, chúa, 
Hoặc khi làm đất nước, 
Hoặc lại làm gió lửa. 
Vào kiếp có tật dịch, 
Hiện làm các cây thuốc, 
Nếu người nào uống đến, 
Các bịnh ác tiêu trừ
Vào kiếp có đói khát
Hiện làm đồ uống ăn, 
Trước là cứu đói khát
Sau giảng dạy chính pháp
Vào kiếp có đao binh, 
Duyên khởi lòng từ bi, 
Giáo hóa cho chúng sanh
Tâm đừng còn tranh đấu
Nếu có chiến trận lớn, 
Làm cho sức ngang nhau, 
Bồ Tát hiện oai thể, 
Hàng phục để yên hòa. 
Trong tất cả cõi nước, 
Chỗ nào có địa ngục
Đi ngay đến nơi đấy, 
Cứu vớt người khổ não
Trong tất cả cõi nước, 
Súc sanh ăn lẫn nhau, 
Đều hiện sanh ra nó, 
Làm cho được lợi ích
Thị hiện trong ngũ dục
Lại cũng hiện tu thiền
Để tâm ma rối loạn
Không thừa dịp hại đặng. 
Hoa sen sanh trong lửa, 
Thật đáng gọi ít có, 
Cõi Dục mà tu thiền
Ít có cũng như thế. 
Hoặc hiện làm dâm nữ
Dắt dẫn kẻ háo sắc, 
Trước lấy dục dụ người, 
Sau khiến vào trí Phật. 
Hoặc làm chủ trong ấp, 
Hoặc làm thầy khách buôn, 
Quốc sư và Đại thần, 
Để lợi ích chúng sanh
Các chỗ có kẻ nghèo, 
Hiện làm kho vô tận
Nhân đó khuyến dạy người, 
Cho phát tâm vô thượng
Kẻ kiêu căng ngã mạn
Hiện làm những lực sĩ
Tiêu phục lòng cống cao
Quay về đạo Vô thượng
Những người hay sợ sệt, 
Đến nơi để an ủi
Trước thí pháp “không sợ”, 
Sau dạy phát đạo tâm
Hoặc hiện lìa dâm dục
Làm vị tiên ngũ thông
Chỉ dạy cho chúng sanh
Để được giới, nhẫn, từ. 
Thấy người cần hầu hạ, 
Hiện làm kẻ tôi tớ, 
Vừa đẹp ý người kia, 
Vừa phát được đạo tâm
Tùy theo việc cần dùng
Mà vào trong Phật đạo
Dùng sức phương tiện khéo
Đều giúp cho đầy đủ. 
Đạo pháp nhiều không lường, 
Việc làm không bờ mé, 
Trí tuệ không hạng lượng, 
Độ thoát vô số chúng. 
Dầu cho tất cả Phật, 
Trong vô số ức kiếp
Khen ngợi công đức kia, 
Cũng không thể hết được. 
Ai nghe pháp như thế, 
Chẳng phát tâm Bồ Đề
Trừ những người bất tiếu, 
Ngu si không trí tuệ

Chú thích của phẩm VIII

1. Phật đạo : Tiếng Phạn là Phật đà Bồ đề, nghĩa là đạo giác ngộ như thật. Lại chỉ tất cả cáe điều phước huệ thanh tịnh thuần thiện của Phật đã thành tựu viên mãn, đều gọi là Phật đạo

2. Phi đạo : Chẳng phải Phật đạo, nghĩa là những phiền não tạp nhiễm, tập nghiệp của tất cả chúng sanh trong ba cõi, ba đờiđạo pháp của Nhị thừa đều chẳng phải Phật đạo. Nhưng nếu thông đạt Phật đạo thì phi đạo toàn là Phật đạo. Tỷ như thật hành các việc trong đời, mà không sa mắc vào đời, cho đến thật hành hiện nhập Niết Bàn của Nhị thừa, mà chẳng dứt sự sanh tử, độ sanh. Đó là ở nơi phi đạotự tại siêu xuất phi đạo, nên tức nơi phi đạothông đạt Phật đạo

3. Năm tội vô gián : 1) Giết cha, 2) Giết mẹ, 3) Giết A La Hán, 4) Phá hòa hiệp của chúng Tăng, 5) Làm cho thân Phật ra máu. Người tạo ra năm tội này, phải đọa vào đia ngục Vô gián (A tỳ), chịu các sự khổ bức, không khi nào hở dứt, nên gọi là Vô gián

4. Như cầu, đò : ý nói rất khiêm nhượng hạ mình, nghĩa là dù bị ngườl đời lấn lướt khinh khi, nhưng vẫn nhẫn chịu không khinh mạn lại, cũng như cầu đò cứ chịu họ dày đạp qua lại. 

5. Tà tế, Chánh tế : Ngoại đạo gọi là tà tế, ví như chỗ hiểm nạn dối gạt người. Phật đạo gọi là chánh tế, ví như chỗ bến đò có thể đưa người qua được. 

6. Bốn món điên đảo
1) Sự vật trong thế gianvô thường mà chấp là thường, 
2) Ngũ dục lạc, không phải vui mà chấp là vui, 
3) Thân này không phải ta mà chấp là ta, 
4) Thân này nhơ nhớp mà chấp là sạch. 
Đây là 4 món chấp của phàm phu

7. Bảy chỗ thức :
1) Sơ thiền
2) Nhị thiền
3) Tam thiền
4) Tứ thiền
5) Vô biên xứ thiền, 
6) Thức biên xứ thiền, 
7) Vô sở hữu xứ thiền, 
là bảy cảnh giới không có thống khổ bức não, thần thức được an trú. Trừ cõi Vô tưởng và cõi Phi phi tưởng không kể, là vì cõi này tâm tưởng quá vi tế, muội lược, tư niệm không rõ ràng

8. Tám pháp tà : Đã giải ở phẩm III số 14. 

9. Chín món não : 
Về quá khứ ai quấy nhiễu mình, quấy nhiễu thân thích mình, thì sanh não, ai khen ngợi kẻ oán của mình, mình cũng sanh não. Quá khứ như thế thì hiện tạivị lai cũng thế, nên gọi là chín chỗ não. 

10. Năm căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. 

11. Trí độ
Một độ trong 6 độ, nghĩa là trí tuệ viên mãn hay vượt qua biển sanh tử đến bờ Niết bàn rốt ráo

12. Pháp hỷ : Nghe pháp lãnh hội được, sanh lòng vui mừng gọi là pháp hỷ

13. Trần lao : Trần là nhiễm ô, nghĩa là các thứ tà kiến phiền não hay làm nhiễm ô chơn tánh. Lao là nhọc nhằn, nghĩa là các tà kiến phiền não làm cho chúng sanh trôi lăn mệt nhọc trong đường sanh tử

14. Đạo phẩm : Tức phương pháp giúp người tu hành, thành tựu đạo quả Bồ đề, như 37 phẩm trợ đạo v v 

15. Các độ : 6 độ, 10 độ. 

16. Tổng trì : Gồm nhiếp các pháp. 

17. Giác ý : ý niệm giác sát cho tâm điều hòa thích trung, không cao không thấp, không phóng tán, không hôn trầm

18. Bát giải : Tức Bát giải thoát đã giải ở phẩm III số 14. 

19. Bảy thứ tịnh hoa : 
1) Giới tịnh : động tác của thân, khẩu ý thanh tịnh; 
2) Tâm tịnh : tâm thanh tịnh không còn nhiễm trước
3) Kiến tịnh : thấy được chơn tánh các pháp không còn khởi vọng chấp
4) Độ nghi tịnh : Hiểu biết thấu đáo không còn ngờ vực
5) Phân biệt đạo tịnh : Phân biệt rõ ràng tà đạo, chánh đạo
6) Hành đoạn tri kiến tịnh : Tri kiến thật, hành thiện pháp, các ác pháp bị đoạn trừ, được thanh tịnh sáng suốt
7) Niết Bàn tịnh : Chứng được Niết Bàn xa lìa mọi cấu nhiễm

20. Ngũ thông : Lục thông trừ Lậu tận thông. Đã giải nơi phẩm II số 24.

21. Bát chánh : Giải ở phẩm II số 26 trong mục 37 phẩm trợ đạo phần sau. 

22. Thượng phục : Đồ y phục quí đẹp. Đoạn này, ý nól lấy sự hổ thẹn để ngăn ngừa lỗi quấy, cũng như đồ y phục che được gió lạnh vậy. 

23. Bảy của báu
1) Tín, 2) Giới, 3) Văn, 4)Xả, 5)Tuệ, 6) Tàm, 7) Quý. 
Do tin pháp lành nên mới giữ giới. Do giữ giới thì ngăn được các việc ác, việc ác đã dứt, việc lành mới tinh tấn làm thêm. Nhưng tinh tấn làm việc lành cốt do sự học rộng nghe nhiều. Có nghe nhiều đạo pháp, thì tâm niệm mới xả bỏ không còn chấp trước: Do xả bỏ nên trí tuệ phát sanh. Còn tàm và quý cũng như hai người phụ lực để thành tựu 5 pháp trên. 
24. Bốn thứ ma : 
1) Phiền não ma : tham. sân, si v .v. . . hay làm não hại thân tâm
2) Ấm ma : sắc, thọ, tưởng, hành, thức, 5 ấm đó thường sanh các thứ khổ não
3) Tử ma : chết hay đoạn tuyệt mạng căn của người. 
4) Thiên ma : Ma Vương ở trên từng trời Tha hóa tự tại thứ 6 của Dục giới, hay làm hại mất việc phúc thiện của người đời.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15756)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11053)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53604)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12951)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16501)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15374)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19148)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19914)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15544)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15335)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15136)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20305)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23900)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15452)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13015)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20062)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13263)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29007)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11682)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18262)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16636)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13224)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12785)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13228)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12958)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12848)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12997)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13522)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11694)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17710)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22570)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13431)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14315)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105725)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14591)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19756)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38401)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15512)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34665)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16043)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11317)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15640)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14014)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12817)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12482)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19358)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26995)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13105)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13456)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21579)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17944)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21857)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16053)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16098)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19080)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24759)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant