Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6 Phẩm Bất Tư Nghị

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6733)
6 Phẩm Bất Tư Nghị

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

6. Phẩm BẤT TƯ NGHỊ

Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất thấy nhà ông Duy Ma Cật không có bàn ghế, bèn suy nghĩ không biết mọi người sẽ ngồi nơi đâu? Ông Duy Ma Cật biết ý liền hỏi Ngài vì Pháp mà đến hay vì chỗ ngồi mà đến? Ngài Xá Lợi Phất đáp vì Pháp mà đến. 

Nhà ông Duy Ma Cật giầu có tất nhiên có nhiều đồ đạc quý giá, nhưng ông dùng thần thông làm cho nhà trống rỗng là có ý muốn diễn tả tâm thanh tịnh, Tâm Không, hết phiền não nhiễm ô. Phẩm thứ V nói về Ngã Không, Phẩm thứ VI này nói về Pháp Không, dạy người tu hành đừng đắm nhiễm bất cứ một pháp nào, cứ tùy thuận mà tu. Người cầu pháp thân mạng còn không tham tiếc huống chi bàn ghế; muốn tới Chân Lý, người tu hành phải phá trừ ngã chấppháp chấp, lìa năm uẩn, mười hai nhập, mười tám giới. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mười hai nhập gồm có sáu căn và sáu trần. Mười tám giới gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức. Nói mười tám giới là gồm cả vật chấttinh thần hợp lại cấu tạo nên chúng sinh và cảnh vật trong ba cõi. Người cầu pháp không được đắm nhiễm trong mợi sự vật ở thế gian, ngay cả đến Ba Ngôi Quý (Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng) cũng không được đắm trước, vì đứng về Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không cầu. Pháp Bảo (Tứ Diệu Đế) cũng không đắc, Tăng Bảo cũng không trụ, Vô Cầu, Vô Đắc, Vô Trụ, không thể dùng hữu vi để cầu vô vi, không dùng hữu tướng để đắc Vô Tướng hay Thật Tướng. Vậy muốn cầu pháp, cầu Chân Lý thì phải Vô Cầu bỏ tâm mong cầu, vượt qua ngã chấppháp chấp thì thấy được Chân Lý

Người tu hành mà còn thấy có mình tu, có pháp môn tu, có chúng sinh để độ, có Niết Bàn để chứng thì còn chấp ngã, chấp pháp, còn luẩn quẩn trong vòng sắc tướng hữu vi thì không thể chứng ngộ pháp vô vi được. Nói chứng đắc nhưng thật ra không gì được cả vì chúng sinh sẵn có Phật Tánh đầy đủ Đức Tướng của Như Lai rồi, ví như viên ngọc nằm sẵn trong áo, mê thì không biết là có, nay tỉnh thì thấy viên ngọc cho là đắc, thật ra có đắc gì đâu. Pháp là tịch diệt, không sinh diệt, không tạo tác, không thủ xả, không xứ sở: đã là tịch diệt thì không chấp trước gì nữa, cứ để Tâm thanh tịnh an nhiên tự tại, việc gì tùy thuận lợi ích chúng sinh thì làm, làm xong thì bỏ, chỗ nào cũng tu được, ở chùa, ở chợ, ở nhà đều tu, mà tu nhà tu chợ cần hơn tu chùa, vì gần nhiều chúng sinh xấu ác, có nhiều cơ duyên thực hành Bồ Tát Đạo. Không chấp tướng giầu nghèo, không chấp hình thức lễ bái, không trụ một pháp môn nào, mà phải tùy thuận chúng sinh, tùy hỷ hướng dẫn tu hành, ai thích tụng kinh thì dạy tụng kinh, ai thích niệm Phật thì cùng niệm Phật, ai thích tu thiền thì cùng tọa thiền, không chấp pháp nào hơn pháp nào, miễn là hợp căn cơ ý thích của chúng sinh, lợi ích chúng sinh hướng về giác ngộ

Đối với tất cả pháp, đừng cầu một cái gì thì gọi là cầu pháp. Không móng tâm tham đắm, không mong được vật gì, là vì mình đã sẵn có đủ cả rồi; hiểu vậy thì không tham cầu nữa, luật nhân duyên quả báo rất minh bạch, dù cầu hoặc không cầu, khi đủ nhân duyên thì sẽ kết quả. 

Năm trăm vị Trời được pháp nhãn thanh tịnh; sau khi được nghe lời nói mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật, năm trăm vị Trời thức tỉnh, ví như người mù được sáng mắt, người ngủ mê tỉnh giấc chiêm bao, thấy rõ Chân Lý

Ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù nơi nào có những tòa sư tử tốt đẹp do công đức tạo thành ? Tòa sư tử là những ghế ngồi oai nghiêm, người nào được ngồi ghế đó phải có nhiều công đức người khác thấy phải kính trọng sợ sệt, ví như con sư tử chúa, các súc vật khác thấy phải sợ hãi. Ngài Văn Thù đáp: về phương Đông cách đây rất xa có thế giới Tu Di Tướng, có Phật hiệuTu Di Đăng Vương, có tòa sư tử cao đẹp trang nghiêm bậc nhất. 

Kinh Đại Thừa mỗi khi đưa ra tên một vị Phật, một vị Bồ Tát, một thế giới, một quốc độ... thường ám chỉ một đức tánh cao quý, một cái gì tuyệt vời khó diễn tả, vượt ra ngoài ngôn ngữ tâm duyên. Ở đây, danh từ Tu Di Đăng Vương, nghĩa đenngọn đèn Vua ở trên núi Tu Di, một ngọn núi cao nhất thế giới Ta Bà, sáng nhất, chiếu soi xa nhất, cao nhất. Đây là muốn ám chỉ Phật Tánh. Chân Tâm tuyệt vời huyền diệu, sáng soi vô cùng vô tận vô biên

Đức Phật Tu Di Đăng Vương có ba vạn hai ngàn tòa sư tử cao rộng trang nghiêm thanh tịnh, nghĩa là Chân Tâm có nhiều đức tánh, oai lực không thể nghĩ bàn, cũng có nghĩa là những người tu hành chân chánh có nhiều thần thông mạnh mẽ, dù không cầu mà vẫn có. Do ông Duy Ma Cật hiện sức thần thông mà ba vạn hai ngàn tòa sư tử đó đến vào trong nhà ông mà không bị ngăn ngại, không bị ép chật. Đứng về sác tướng thì có cao thấp, rộng hẹp, lớn nhỏ, đây đứng về Thể Tánh thì không có hình tướng nên mọi sự mọi vật dung thông tự tại. Kinh Hoa Nghiêm trình bày Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, cũng nói đem núi Tu Di nhét vào trong hạt cải mà không thấy chật hẹp. Vì sao? Đây là nói về Bản Thể không tướng trạng, mới như vậy. Lớn nhỏ (không gian), dài ngắn (thời gian) đều bị đảo lộn, lìa hình tướng vật chất để thể nhập tâm linh. Ông Duy Ma Cật tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh mà ai cũng có. Đem nhiều tòa sư tử vào nhà ông mà không bị ép chật, vì tòa sư tử đây là những đức tánh, những thần thông oai lực không có tướng trạng nên không thấy chật hẹp. Ví như chúng ta nghĩ tới núi Tu Di, đem hình bóng núi vào trong tâm mà không thấy bị dồn ép, vì chỉ là tâm tưởng mà thôi, không thật có. 

Tâm có nhiều sức mạnh, đem hình tướng những vật lớn vào trong tâm là đảo lộn không gian, đem quá khứ vị lai vào hiện tạiđảo lộn thời gian, tâm mình có khả năng như vậy, nhưng vẫn là vọng tưởng, là huyễn, là giả, đừng chấp là thật, thì tham sân si không nổi, được an định. Bồ Tát biết vọng tưởng là huyễn nên có chánh định, chúng sinh tưởng là thật nên bị tán loạn, không có định, bị khổ đau. Người tu hành không để trần cảnh chi phối mình; những gì đã qua thì đừng cho trở lại, gây thêm phiền não, những gì chưa đến thì chẳng bận lòng, do đó không sợ phiền não, không cần tránh né vì biết chúng không thật có, như huyễn, chúng đến thì rồi sẽ qua, gặp mọi hoàn cảnh đều coi nhẹ, chỗ nào cũng tu được, không chấp chùa mới thanh tịnh, còn chợ ồn ào, nhà ràng buộc. Chỉ cần Tâm tịnh thì nơi nào cũng tịnh, cảnh nào cũng thanh. 

Các Bồ Tát lớnthần thông nên biến hiện thân hình cao lớn, lên ngồi tòa sư tử được. Còn các Bồ Tát mới phát tâm và các hàng Thanh Vãn đệ tử đều không lên được. Các Đại Bồ Tát đã nhiều công tu hành, không còn chấp tướng, thâm nhập Bản Thểthần thông diệu dụng, tâm thể dung thông mọi sự mọi vật không gì chướng ngại, nên dễ dàng lên ngồi tòa sư tử, vì đối với các Ngài, làm gì còn cao thấp, rộng chật? Nhưng đối với các vị Bồ Tát mới phát tâm và hàng Thanh Văn thì còn chấp hình tướng, chấp có giới luật phải giữ, có pháp môn phải tu, có quả vị để chứng, các Ngài chưa thâm nhập Bản Thể, tâm chưa dung thông với vũ trụ, chưa hòa nhập với thiên nhiên, chưa thấy tất cả là một, nên còn thấy có cao thấp rộng chật, vì vậy không lên ngồi tòa sư tử được. Ông Duy Ma Cật liền bảo Ngài Xá Lợi Phất và hàng đệ tử phải đảnh lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai mới có thể lên ngồi được. Ngài Xá Lợi Phất được lên ngồi liền tán thán, ông Duy Ma Cật nói: Đó là pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát của các Bồ Tát

Các hàng Thanh Văn đệ tử phải đảnh lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, nghĩa là bỏ chỗ tối về chỗ sáng, bỏ vô minh về với ngọn đèn sáng soi cao diệu tuyệt vời, bỏ tướng nhập tánh, bỏ vọng thức quay về với Chân Tâm, hoán cải tâm hồn, bỏ Tiểu Thừa mà qua Đại Thừa, thì mới lên ngồi tòa sư tử, phải bỏ những gì thấp hèn, nặng nề, ô trược, mới bay bổng lên chỗ tuyệt đỉnh cao siêu. Đó là pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát, một pháp môn không thể nghĩ bàn, một con đường đưa đến giải thoát, vì nó vượt ra ngoài danh từ ngôn ngữ tâm duyên, chỉ khi nào chứng thì biết. Nói chứng là tạm nói cho dễ hiểu mà thôi, chứ thật ra thì vô chứng, vô đắc. Chư Tổ có dạy: Tu, vô tu, tu. Chứng, vô chứng, chứng. Có nghĩa là: tu đến chỗ không thấy mình tu mới thật là tu Chứng đến chỗ không thấy mình chứng mới thật là chứng. Những thí dụ: đem núi Tu Di nhét vào hạt cải, đem nước bốn biển lớn cho vào lỗ chân lông, ném cõi tam thiên đại thiên thế giới ra xa rồi đem trở lại, kéo dài bảy ngày làm một kiếp, thu ngắn một kiếp làm bảy ngày, hút gió vào miệng, đem lửa vào ý muốn diễn tả tất cả các pháp trong không gianthời gian (đất, nước, gió, lữa là bốn đại tượng trưng cho không gian, ngày và kiếp tượng trưng cho thời gian) đều là những tướng trạng tương đối, vô thường vô ngã, là những ước lệ đặt ra để phân biệt chúng đều là giả huyễn, không thật có. Các Đại Bồ Tát thấy rõ bản thể của vạn pháp nên các Ngài ung dung tự tại, còn chúng sinh thì u mê chấp trước nên cứ quanh quẩn trong vòng sinh tử luân hồi, bị các luật thiên nhiên vận chuyển chi phối mà không hay biết gì cả. 

Các Bồ Tát trụ cảnh Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát hay dùng thần thông hiện các thứ thân Phật, Bồ Tát, Trời, Vua... biến các thứ tiếng to nhỏ thành tiếng Phật diễn nói các pháp: Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn của các Đại Bồ Tát tùy duyên hóa độ chúng sinh, thuận theo ý chúng sinh mà biến hiện các hình tướng thích hợp, dù biết âm thanh như huyễn mà vẫn biến ra các thứ tiếng để hoằng dương Phật Pháp. Nếu chúng sinh biết lắng lòng quán sát các luật thiên nhiên đang vận hành vũ trụ, gió thổi lá rụng hoa tàn là luật vô thường, mọi vật đổi thay là lý vô ngã, thì đâu đâu cũng thấy hình bóng Phật, thể hiện Chân Lý tuyệt vời, mọi thứ tiếng trên thế gian đều là tiếng Phật, tiếng Pháp, tất cả đều diễn đạt Chân Lý

Nếu biết áp dụng thâm nghĩa của đoạn kinh này vào cuộc đời thì không còn chấp hình tướng, âm thanh mà vượt lên trên để tiêu dao tự tại, hết trói buộc khổ đau. Nếu không chấp hình tướng thì không cần đồ trang sức, quần áo sang trọng, trang điểm mặt mày... mà chỉ cần làm sao cho sạch sẽ vui vẻ, thanh tịnh hoan hỷ là được. Nếu không chấp âm thanh, biết các thứ tiếng, các lời nói như huyễn thì không để lời khen tiếng chê chi phối, những tiếng xấu ác thị phi đều coi như gió thoảng ngoài tai, khi đó tâm được an định, bình tĩnh sáng suốt để tu hành. Không nghe tiếng đời thì mới nghe được tiếng Phật, tiếng Tổ. Trái lại, nếu cố chấp tiếng thị phi thì dù Phật hay Tổ có dạy gì cũng khó nghe thấy để làm theo. Có câu thơ:

Đôi lời phù phiếm tiêu không nổi
Nói chi lời Tổ ở Tây Phương.

Ngài Đại Ca Diếp nghe được pháp môn Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát của Bồ Tát, ngợi khen chưa từng có, chúng sinb có mắt như mù, có tai như điếc không thấy không nghe, người trí được nghe ai mà chẳng phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các hàng Thanh Văn ngộ đạo được đôi chút cho là đủ, dù chứng quả A Lan Hán ra khỏi sinh tử luân hồi nhưng chưa được rốt ráo nay đứng trước sự thật tuyệt vời, thấy rõ oai lực của Bồ Tát, mới biết mình hãy còn chấp trước nơi pháp Tiểu Thừa, mình mới đã được một đoạn đường dẫn tới giải thoát, nên tủi thân trách phận, than khóc hối tiếc sự u tối của mình, còn các Bồ Tát thì hết sức vui mừng, tin hiểu tu theo pháp Đại Thừa, nhờ vậy chúng ma không thể làm gì được.

Chúng ta thường quan niệm ma là những hình bóng hiện lên đe dọa làm hại khiến chúng ta sợ hãi, làm chướng ngại sự tu hành. Nhưng ông Duy Ma Cật lại nói rằng Ma Vương phần nhiều là các bậc Bồ Tát trụ nơi pháp Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh, thị hiện làm Ma Vương, để giáo hóa thử thách chúng sinhtu hành kiên cố hay không ? Thí dụ: Có người phát tâm tu hành bố thí, các Bồ Tát thị hiện Ma Vương đến xin vàng bạc, nhà cửa, vợ con, chân tay đầu mắt... xem người tu đó có thực hành bố thí như đã phát nguyện không ? Hoặc có người phát tâm tu hạnh nhẫn nhục thì các Bồ Tát thị hiện Ma Vương đến quấy nhiễu xem người tu có nhẫn nhục được không? Hoặc có người phát thệ nguyện tu hành thanh tịnh lìa sắc dục thì các Bồ Tát thị hiện Ma Nữ đến thử thách quyến rũ xem người tu có bị sa ngã không? 

Nhưng nói về lý thì các Ma Vương chính là thất tình lục dục tiềm ẩn trong tâm khảm chúng sinh, những thói hư tật xấu luôn luôn xui giục chúng sinh làm điều sằng bậy, người tu hành cần tinh tấn sáng suốt đối trị vọng thức của mình, thấy điều xấu thì tránh, điều tốt thì làm (thực hành Tứ Chánh Cần), lần lần vọng tưởng bị điều phục, Chân Tâm sáng tỏ, đó là được giải thoát không thể nghĩ bàn vậy. Những việc khó làm như vậy chỉ có các vị Bồ Tát Đại Thừa mới kham được, còn các Thanh Văn tu theo Tiểu Thừa hoặc phàm phu thì không làm được, vì không chịu nổi sự thử thách nặng nề, ví như bị con voi lớn dày đạp, sức lừa không chịu nổi. Giáo lý Đại Thừa khó nghe khó hiểu, cần phát Bồ Đề Tâm dõng mănh mới tu theo được. 

Các Bồ Tát hiện thân Ma Vương để giáo hóa chúng sinh tu trong cảnh nghịch, mà chính những cảnh nghịch lại giúp người tu trưởng thành nhẫn nhục, phát huy trí huệ, nẩy nở khả năng bất ngờ, vì phải gắng sức tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt qua khó khăn. Mình có trải qua những khó khăn loạn động của cuộc đời rồi mới dạy người khác tu trong cảnh nghịch; nhờ biết các pháp như huyễn nên không sợ, không phiền não, không say đắm, nhờ có trí huệtừ bi nên có thể ở đời để cứu giúp chúng sinh mà không chán nản mỏi mệt, không sợ dòng đời lôi cuốn, đó là đường lối tu hành của Kinh Duy Ma Cật. Lấy gia đình xã hội làm đạo tràng, lấy chúng sinh tội lỗi làm mục tiêu thân cận giáo hóa, tìm Niết Bàn thanh tịnh trong đời sống xã hội, trong cảnh phiền não vọng tưởng của chúng sinh, chuyển hóa vọng thức của chúng sinh thành Chân Tâm, Tâm Tịnh là Đạo Tràng, Tâm Tịnh Quốc Độ Tịnh. Đó chính là tôn chỉmục đích của Kinh Duy Ma Cật

Ba vạn hai ngàn vị Trời nhờ tu mười điều thiện mà được hưởng nhiều phước báo, nay được nghe Ngài Đại Ca Diếp tán thán pháp môn Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát, liền phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, nghĩa là không ham phước đức nữa mà cầu công đức, bỏ pháp hữu vi hữu lậu để mong được vô vi vô lậu lìa Tiểu Thừa để bước trên đường rộng rãi, ngồi xe lớn tiến về chỗ giải thoát hoàn toàn, nhập Bản Thể Chân Như.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12476)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14067)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10823)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10491)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11150)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11963)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13092)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13595)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33607)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11307)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12876)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13016)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11586)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17845)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11381)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11795)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11454)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18930)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12503)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11282)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13109)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15716)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11786)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11659)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12715)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12597)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13915)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12947)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12891)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13256)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12729)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12656)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11697)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11686)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12287)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12346)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19791)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11920)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11959)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16842)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12648)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15017)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16065)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12839)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12189)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11883)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11900)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13117)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16477)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13201)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12445)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11781)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19808)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11122)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11224)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10372)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11057)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10936)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10000)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11711)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant