Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

9 Phẩm Pháp Môn Không Hai

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6757)
9 Phẩm Pháp Môn Không Hai

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

9. PHẨM VÀO PHÁP MÔN KHÔNG HAI

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng: Thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai? Xin cứ theo chỗ hiểu biếttùy ý thích mà nói. 

Phẩm này là trọng yếu của Kinh Duy Ma Cật, là trung tâm điểm của giáo lý Đại Thừa chủ trương bỏ tướng trạng để nhập Tánh Thể. Phẩm này tuy dài nhưng tóm lại có thể chia ra làm ba phần: 
1) Phần đầu trình bầy các chủ trương, chỗ thích ý hoặc xu hướng công phu tu tập hoặc sự tu chứng của 31 vị Bồ Tát để vào Pháp Môn Không Hai.
2) Phần thứ hai là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trình bầy ý kiến của Ngài.
3) Phần thứ ba là chủ trương của ông Duy Ma Cật

Danh từ không hai (Bất Nhị) có nghĩa là không phải là hai, không có đối đãi giữa một và hai. Không Hai có phải là một không? Nói Một cũng không đúng, chỉ tạm dùng thôi, vì nói một là ám chỉ có cái khác, không phải một, là hai, là ba, bốn gì đó. Thí dụ: Một là đối với nhiều, sáng đối với tối, xấu đối với tốt... nói bên này là nghĩ tới bên kia, luôn luôn có hai cái đối đãi với nhau

Chúng ta hãy học vài ý kiến của một số vị Bồ Tát

Bồ Tát Đức Thủ nói: Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Ngã là ta, ngã sở là cái của ta. Vì chấp có ngã, cái ta là thật có, nên chấp luôn có ngã sở nghĩa là những cái của ta, thuộc về ta, chúng cũng thật có. Chấp có ngã và ngã sở thì phải bảo vệ chúng, cưng chiều chúng, ai đụng đến là không được, mong cho chúng được tốt đẹp, sống lâu giầu bền, hơn mọi người khác. Nhưng mọi mong cầu đâu có được như ý muốn, sinh già bệnh chết, vô ngã vô thường... ai mà tránh được. Càng chấp ngãngã sở nhiều thì càng đau khổ lắm. Nếu xả bỏ được lòng cố chấp, hiểu ngã và ngã sở là Không, là không có thật, là giả huyễn, được không vui, mất không buồn, hiểu biết luật Trời, nắm vững Chánh Pháp, an nhiên tự tại, hết khổ được vui, hết đối đãi thị phi, mà vượt lên trên tất cả để thể nhập vào Chân Như vô cùng vô tận, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Bất Thuấn nói: Thọ, không thọ là hai. Nếu các pháp không thọ thì không có được, vì không có được nên không thủ xả không gây không làm, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Thọ là nhận, là chịu. Không thọ là không nhận, không chịu. Được khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là có thọ. Khen không vui, chê không buồn là không thọ. Vui buồn, sướng khổ, nổi sân si là tâm bị động, là có thọ. Nếu đối cảnh mà tâm không động là không thọ. Ăn rau chê nhạt miệng, ăn thịt khen ngon, đó là có thọ. Chấp ăn chay là phải, ăn thịt là trái cũng là có thọ, vì còn thấy phải trái, khen chê. Ăn để sống, không chấp chay mặn, không chấp mặn nhạt ngon dở, thì là không thọ. Nói vậy không có nghĩa là khuyến khích người ăn chay trường nên ăn thịt, vì quý vị đó không thể ăn thịt được nữa, mà chủ yếu là giữ tâm không động, không phân biệt, không chấp trước. Các tu sĩ Bắc Tông ăn chay trường là y theo giới luật Bắc Tông, không nên chấp thọ khó chịu nếu thấy các tu sĩ Nam Tông còn ăn thịt cá do Phật Tử cúng dường, vì Nam Tông chủ trương đi khất thực ai cúng gì ăn nấy, bất tùy phân biệt, không phạm giới cấm. Nếu khởi tâm phân biệt chay mặn cao thấp là còn thọ. Các tu sĩ Nam Tông đắp y, để hở vai bên phải là cung kính. Các tu sĩ Bắc Tông mặc áo phải kín cả hai tay mới là tề chỉnh, hở vai là thô lỗ, không kín đáo đúng phép. Nếu biết tùy phong tục địa phương mà giữ tâm không động, không chê cười, là không thọ. Nếu còn chấp là hở hoặc kín là có thọ. Nơi này cho là phải, là Chân Lý; nơi khác cho là trái, là phi lý. Đừng chấp thọ, đừng chê bai, đừng động tâm, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Đức Đảnh nói: Nhơ sạch là hai. Thấy được tánh chân thật của nhơ thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Nhơ sạch là tùy người, tùy phong tục địa phương, có điều mình cho là nhơ thì người khác cho là sạch. Người Việt Nam ăn cơm bằng bát đũa, cho là sạch; nếu bốc cơm bằng tay thì cho là nhơ. Người Ấn Độ bốc cơm bằng tay cho là sạch, dùng bát đũa cho là nhơ. Người lương thiện cho đồng tiền kiếm được một cách bất chính là nhơ, kẻ trộm cướp cho là sạch. (Có người nói: đồng tiền không có mùi. Xin để quý vị phê bình). Nếu còn thấy có nhơ sạch đối đãi là còn chấp tướng, khi thấy được Thể Tánh chân thật của các pháp thời không chấp hai tướng nhơ sạch nữa, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Phất Sa nói: Thiện, Bất Thiện là hai. Nếu không khởi Thiện và Bất Thiện, vào gốc không tướngthông suốt được, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Thiện và Bất Thiện đôi khi cũng khó phân biệt, cùng một việc làm mà người cho là thiện, người cho là bất thiện. Hồi Pháp thuộc, có vị sư giúp những thanh niên ái quốc chống Pháp ẩn náu trong chùa, do lòng từ bi, đó là thiện, nhưng đối với nhà cầm quyền Pháp thì đó là vi phạm luật pháp, là bất thiện. Xử tử kẻ giết người được coi là đúng luật là thiện; đối với người giữ giới sát sinh thì giết một sinh vật đã là phạm tội huống chi giết người. Giữ tâm thanh tịnh không động không chấp, không ích kỷ thì sẽ không bị thiện ác chi phối, không bị hình tướng bề ngoài che đậy, có cái thấy thông suốt vào Thể Tánh, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Sư Tử nói: Tội, phước là hai. Nếu thông đạt được tánh của tội thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, không buộc không mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Tội và phước là được coi trong vòng tương đối mà thôi, vì có việc người này cho là tội thì người khác cho là phước. Giết trâu bò gà lợn để cúng tế thần linh hoặc tổ tiên được coi là đúng tục lệ, có hiếu, nhưng giáo lý Đạo Phật lại cho là phạm tội sát sinh, không được phước gì cả. Nếu thông đạt được Tánh của tội thì tội cùng phước không khác. Phát huy được trí huệ sáng suốt như ngọc kim cang thì vượt lên trên tội phước tương đối, không còn trói buộc mà phải mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Thiện ý nói: Sinh tử, Niết Bàn là hai. Nếu thấy được tánh sinh tử thời không có sinh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế đó là vào Pháp Môn Không Hai

Đứng về tướng trạng thì có sinh tử khổ đau. Niết Bàn an lạc. Người nào còn chán sinh tử, ưa Niết Bàn, mà chưa ra khỏi sinh tử chưa tới Niết Bàn thì khổ đau phiền não. Nếu thấy được Tánh của sinh tử là Không, cuộc đờimộng huyễn, sinh cũng không mà tử cũng không, Niết Bàn cũng không thể ra khỏi vòng sinh diệt mộng tưởng đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Phổ Thủ nói: Ngã, vô ngã là hai. Ngã còn không có thời phi ngã đâu có được. Thấy được Thật Tánh của ngã không còn có hai tướng, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Chúng ta chấp có ngã, có cái ta do năm uẩn họp thành. Rồi từ cái chấp ngã đó mà tạo vô lượng tội lỗi. Để phá cái chấp đó, Đức Phật dạy lý vô ngã, giúp chúng sinh xa lìa chấp ngãngã sở. Đó là phương tiện lấy độc trị độc mà thôi. Khi Bồ Tát thâm nhập Trí Huệ Ba La Mật thì thấy năm uẩn là Không, ngã không có thì làm gì có phi ngã. Thật Tánh của các pháp là bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, không có hai tướng, thấy được như vậy là vào Pháp Môn Không Hai

Lần lượt 31 vị Bồ Tát phát biểu ý kiến của mình, tuy có 31 câu trả lời nhưng tất cả đều quy vào một điểm: đứng về tướng thì có phân biệt đối đãi: Ngã và ngã sở, thọ và không thọ, nhơ và sạch, thiện và ác, tội và phước, sinh tửNiết Bàn... rõ ràng có hai bên, hai phía; nhưng đứng về Thể Tánh, Thật Tướng thì vượt lên trên sự phân biệt, nhìn thấu suốt qua hình tướng để vào Bản Thể Chân Như thì không thấy hai, mà cũng không thấy một (vì thấy một là ám chỉ hai), chỉ thấy tất cả là Không. chẳng phải hai chẳng phải một, đó là Bất Nhị, Không Hai. 

Chúng sinh thấy có sinh có diệt là hai, đó là phần tướng. Các Bồ Tát đứng về phần Tánh thấy chẳng có gì sinh chẳng có gì diệt, mà sinh diệt chỉ là hiện tượng giả lập huyễn hóa mộng tưởng, nằm mộng thấy có, tỉnh giác biết là giả, không có thật. Chúng sinh thấy sắc và không là hai, một bên có một bên không. Khi thâm nhập Bát Nhã thì sắc tức là không, không tức là sắc. Khi đứng về tướng là còn trong vòng đối đãi phân biệt, nhưng đứng về Tánh nghĩa là đặt mình trong Chân Lý rốt ráo tột cùng, nhập vào Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình đẳng thì không có tướng trạng, không phân biệt tốt xấu tội phước, chẳng có không gianthời gian, mà chỉ thấy một sự bình đẳng tuyệt vời, một pháp giới bao la vô cùng vô tận vô biên, trong đó tất cả mọi pháp đều dung thông hòa hợp, tất cả là một, một là tất cả, danh từ một cũng là gượng dùng mà thôi, vì nói một là bao hàm có hai, có khác, nhưng ngoài danh từ một thì chẳng có danh từ nào khác để chỉ cái Thể Tánh Chân Như đó. 

Chúng ta cần bỏ qua sự dùng giác quaný thức tầm thường mà chúng ta vẫn quen dùng để phân biệt mọi vậthình tướng khác nhau: cao thấp, rộng hẹp, vuông tròn, xấu đẹp, đen trắng... mà phải cố gắng vươn lên trên, dùng trí huệnhận xét đến chỗ tận cùng thì thấy tất cả mọi sự mọi vật đều giả hợp, vô ngã vô thường, không thật có, không bền vững, trước còn sau mất, trước có sau không. Đó mới là giai đoạn đầu của quá trình chuyển Thức thành Trí, tùng Tướng nhập Tánh. Tiến lên một bước nữa thì thoạt nhìn qua tướng trạng bề ngoài mà đã thấy ngay cái Bản Thể Nhất Như, không cần chờ phân tích các tướng tan hoại. Đó là cái Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình đẳng lìa hẳn mọi sai khác đối đãi. Cái Lý Thể đó không thể dùng danh từ ngôn ngữ tâm duyên để diễn tả, nhưng nếu không diễn tả thì làm sao người khác hiểu được, cho nên các Bồ Tát gắng gượng tạm dùng danh từ Không Hai. 

Sau khi 31 vị Bồ Tát tạm dùng danh từ ngôn ngữ để diễn tả thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai, đến lượt Ngài Văn Thù. Vị Bồ Tát này được xưng tụngĐại Trí, có trí huệ lớn nhất trong các hàng Đại Bồ Tát, Ngài nói: Đối với tất cả các pháp không nói không rằng, không chỉ không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Ngài Văn Thù đã chứng ngộ Chân Lý, biết rằng ngôn từ không diễn tả được Thực Thể phải xa lìa các lời nói năng vấn đáp, phải trải qua kinh nghiệm sống, phải thân chứng mới biết cái Thực Thể bất Sinh bất diệt tiềm ẩn trong mọi loài chúng sinh, cái đó ở Phật không hơn, ở chúng sinh không kém. Tuy Ngài Văn Thù biết các pháp xa lìa các vấn đáp, nhưng Ngài vẫn dùng tiếng nói để đáp lại câu hỏi của các vị Bồ Tát, dùng ngôn ngữ để nói về cái mà ngôn ngữ không diễn tả được. 

Đến lượt ông Duy Ma Cật thì ông im lặng không nói năng chi cả. Đây là chỗ cao tột của bộ Kinh này, đưa chúng sinh vượt qua ngôn ngữ mà vào Thể Tánh Chân Như, ví như thiền sư vượt đầu sào trăm trượng để nhảy vào hư không. Đây chính là chỗ Tổ Sư Đạt Ma ngồi tham thiền quay mặt vào tường chín năm không nói, Ngài Đại Ca Diếp mỉm cười khi Đức Thích Ca dơ cành hoa sen trong hội Linh Sơn, và chính Đức Thích Ca cũng diễn tả bằng câu nói: “Trong 49 năm trời thuyết pháp, ta chưa hề nói lời nào”. Đứng về tướng thì có nói, nhưng đứng về Tánh thì không nói, vì Chân Lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì dùng ngôn ngữ diễn tả Chân Lý làm sao được. Sở dĩ phải dùng lời nói, thuyết pháp, in kinh dịch sách... là tạm dùng phương tiện để dắt dẫn chúng sinh trong bước đầu tu học, sau đó thì người tu phải tự mình tìm một phương pháp thích hợp với căn cơ của mình để vươn lên, vượt ra khỏi vòng tương đối để nhập vào Tuyệt Đối, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Ông Duy Ma Cật im lặng không nói, nhưng để chứng minh sự nhập Thể cao tột đó, Ngài Văn Thù khen ngợi: đó mới là vào Pháp Môn Không Hai. Đây là Ngài Văn Thù muốn chỉ rõ cho chúng sinh biết rằng ông Duy Ma Cật đã vượt lên trên ngôn ngữ để nhập Thể Tánh chứ không phải ông Duy Ma Cật không biết, không trả lời nổi câu hỏi. Cũng trong tinh thần siêu việt đó, kinh sách có câu: Ngôn ngữ Đạo đoạn, nghĩa là lời nói làm đứt Đạo. 

Chủ ý của Phẩm này là khuyên chúng sinh rời bỏ những chấp trước tầm thường trong danh từ ngôn ngữ, mà cần thâm nhập vào nghĩa ẩn của lời Phật trong kinh, vượt ra ngoài khuôn sáo nhỏ hẹp để vươn lên, nhập vào Bản Thể Chân Như vô cùng vô tận. Đây cũng là chỗ thấy của hàng Bồ Tát phát lòng đại từ đại bi đại hỷ đại xả, vì thấy chúng sinh đang bị đau khổ trong địa ngục vô minh, làm sao các Ngài tự tại an vui được; vì sao? vì Bồ Tátchúng sinh là một, không hai, Bất Nhị

Lấy thêm một thí dụ cụ thể thường ngày cho dễ hiểu
Chúng ta đứng ở dưới đất thì phân biệt rõ ràng người này với người kia, vật này với vật nọ, nào kích thước, mầu sắc, xấu đẹp, quý tiện... khác nhau rất nhiều. Đó là chúng ta nhận xét, so sánh, phân biệt tương đối. Nếu chúng ta đứng trên sân thượng một tòa nhà mười tầng thì lúc đó sự so sánh phân biệt đã bớt rõ, chỉ thấy người đi qua đi lại mà không thấy mặt mày xấu đẹp, quần áo sang hèn mới cũ được nữa. Nếu chúng ta đứng trên nóc một tòa nhà chọc trời 100 tầng thì chỉ thấy lờ mờ những điểm nhỏ di động, không khác biệt nhau bao nhiêu, sự tương đối so sánh phân biệt đã giảm đi rất nhiều. Nay nếu chúng ta ngồi trên một máy bay phản lực siêu thanh bay thật mau trên độ cao mười cây số thì chúng ta không còn phân biệt gì bên dưới, mà chỉ thấy một màu trắng trinh nguyên, đồng nhất vô sai biệt

Đây là tạm thí dụ mà thôi, chứ còn thấy mầu trắng là còn tương đối phân biệt trắng với đen, còn đối đãi với các mầu khác, chưa tới chỗ tột cùng cao siêu tuyệt đối. Chúng ta là những người còn đứng dưới thấp, các Bồ Tát là những vị đã ở trên cao, sự thấy biết của chúng ta thua kém cạn hẹp, sai lầm, còn sự thấy biết của các Bồ Tát thì cao siêu và đúng sự thật. Nhưng nếu chúng ta chịu tin theo học hỏi và làm đúng các lời dạy của Đức Phật và chư vị Bồ Tát thì lần lần chúng ta cũng chuyển phần nào đôi mắt thịt thành cặp mắt trí huệ, sự hiểu biết của chúng ta cũng cao rộng thêm lên, sự chấp ngã ích kỷ mỏng dần, rồi có ngày tan vỡ để chúng ta nhập một với Bản Thể của vạn vật, như các giọt nước gặp nhau trong biển cả, lúc đó chỉ còn một vị nước mặn chứ không còn phân biệt nước suối hay nước sông, khi đó chúng ta đã vào Pháp Môn Không Hai vậy. 

Để áp dụng vào cuộc đời, thực hành Pháp Môn Không Hai trong xã hội, chúng ta đừng nhìn đời sốnghai mặt đối đãi tốt xấu, thiện ác, quen lạ, thân sơ, xuất gia tại gia, chiến tranh hòa bình... cái nhìn đó chưa được toàn diện, còn thiếu sót, mà phải nhìn cuộc sống trong thế gian với Tâm tĩnh lặng, nhờ trí huệ chiếu soi, không thương ghét thù hận, thấy chúng sinhhình tướng sai khác, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ, nhưng tất cả đều có chung một cái cao cả mà không một danh lừ ngôn ngữ nào diễn tả được, nói ra là sai, vẽ ra là trật, nghĩ đến là biến, gượng dùng các danh từ Bản Thể, Chân Như, Thật Tướng, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục, Chân Tâm,... tạm chỉ mà thôi. Chúng ta dùng các phương tiện như niệm Phật, tụng Kinh, trì Chú, tu Thiền, quán tưởng... để diệt trừ vọng tưởng, giữ Tâm được an định, phát huy trí huệ sẵn có, bao nhiêu tạp niệm lắng xuống, chúng ta có cái nhìn đúng đắn về con người, về xã hội, về mọi hoàn cảnh; nhất là biết rõ chúng ta là ai, có mặt trên thế gian này với mục đích gì, và sẽ đi về đâu ? Hiểu biết được vậy là chúng ta vào Pháp Môn Không Hai

Trong phẩm này, các Bồ Tát thị hiện phân biệt nói năng dùng nhiều danh từ ngôn ngữ, để hướng dẫn chúng sinh trong giai đoạn mới học mới tu, rồi Ngài Văn Thù phá chấp ngôn ngữ, nó không thể diễn tả Chân Lý mà chỉ là phương tiện mà thôi, chỉ là chiếc bè đưa qua sông, là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng Ngài vẫn phải dùng ngôn ngữ hóa độ chúng sinh. Đến ông Duy Ma Cật mới là tuyệt đối cao siêu, dùng sự im lặng đưa dắt chúng sinh thể nhập Bản Tánh Như Như Bất Động, vì không thể nói ra được. 

Chúng ta đang sống trong cuộc đời tương đối, chưa thể làm như ông Duy Ma Cật được, nhưng đừng chấp lời thị phi, lắng lòng soi tâm lặng lẽ, đừng nói nhiều, không nói những lời vô ích làm buồn người khác, mà nên nói ít, nói đúng thời, đúng pháp, làm lợi ích chúng sinh. Các bậc Thánh Hiền, các người hiểu biết thường ít nói hoặc không nói (tri giả bất ngôn), còn chúng ta nói quá nhiều vì chúng ta chắng biết Chân Lý (ngôn giả bất tri). 

Nghe xong phẩm này, trong chúng có năm ngàn Bồ Tát đều vào Pháp Môn Không Hai, chứng vô sinh pháp nhẫn. Chỉ có các Bồ Tát đã có trí huệ mới thể nhập Chân Lý, còn các Thanh Văn và Trời người thì không hiểu được. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10979)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53448)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12875)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16392)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15263)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19055)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19815)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15422)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15243)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15060)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20185)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23732)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12949)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19852)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13174)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28929)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11603)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18184)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16525)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12693)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13124)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12882)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12900)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13439)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11588)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17648)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22276)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13345)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14196)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105564)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14502)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19633)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38301)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15421)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34546)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15948)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11266)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15566)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13906)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19292)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13054)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13372)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21486)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17859)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21757)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15969)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15983)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18971)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24598)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant