Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11 Phẩm Hạnh Của Bồ Tát

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6539)
11 Phẩm Hạnh Của Bồ Tát

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

11. PHẨM HẠNH BỒ TÁT

Khi đó, Đức Phật đang nói pháp ở vườn cây Am La, vườn ấy bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả đại chúng trong pháp hội đều trở thành sắc vàng. Lời kinh muốn diễn tả tâm thức của đại chúng đã rộng mở sẵn sàng đón nhận tư tưởng Đại Thừa. Người Ấn Độ có mầu da nâu hoặc đen, nay chuyển sang da mầu vàng là mầu đẹp đẽ tôn quý, vườn cây trở nên rộng rãi trang nghiêm, ám chỉ sự hoán chuyển nội tâm biến hiện ra bên ngoài, trong tốt thì ngoài cũng đẹp, tinh thần sáng suốt thì tướng trạng vật chất bề ngoài cũng oai nghiêm, Chánh BáoY Báo đều tốt đẹp

Ông A Nan thấy điềm lành này liền hỏi và được Phật giải thích đây là ông Duy Ma Cật, Ngài Văn Thù cùng đại chúng phát tâm muốn đến đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn. Câu kinh này muốn nói là sau khi được ông Duy Ma Cật khai ngộ giáo lý Đại Thừa, tất cả đại chúng đều phát tâm hướng về chỗ giác ngộ hoàn toàn, giải thoát hoàn toàn, chứ không ham phước báo cõi Trời, cõi người, không mong những địa vị tu chứng cục bộ từng phần của hàng Nhị Thừa nữa. Họ đã được nghe Chánh Pháp rồi, nay mong được đảnh lễ cúng dường Phật, họ đã được chỉ con đường giác ngộ, nay mong tiến bước đạt tới Chân Lý

Ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem tất cả đại chúng và các tòa sư tử để trên tay hữu đi đến chỗ Phật, tất cả cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi đứng qua một bên. Theo phong tục tập quán Ấn Độ thời bấy giờ, để tỏ lòng tôn kính Phật hoặc một vị giáo chủ, các đệ tử cúi đầu đảnh lễ, trán hai tay hai chân phải chạm đất (ngũ thể đầu địa), đi quanh bên hữu bảy vòng, rồi chắp tay đứng sang một bên. Sau đó hai bên mới bắt đầu thưa hỏi và trả lời. Ở đây, Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất là vị đại đệ tửtrí huệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn, có thấy thần lực của Bồ Tát Đại Sĩ Duy Ma Cật chăng? Ngài Xá Lợi Phất tán thán oai lực tự tại đó không thể nghĩ bàn được. Rồi đến ông A Nan, vị đệ tử nổi tiếngđa văn đệ nhất trong hàng Thanh Văn, ngửi thấy mùi hương thơm từ xưa chưa từng có, không biết là mùi hương gì ? Ngài Xá Lợi Phất nói lỗ chân lông của chúng tôi cũng có mùi hương thơm đó, do được ăn cơm thơm do ông Duy Ma Cật xin ở cõi Chúng Hương về, nên có mùi thơm như vậy. Mùi thơm này kéo dài cho đến khi cơm đó tiêu, nghĩa là khi hàng Thanh Văn phát tâm tu theo Đại Thừa, được vào chánh vị, giải thoát, được vô sinh nhẫn, chỉ còn một đời là được thành Phật. Cơm thơm này chính là giáo lý Nhất Thừa Phật Đạo, có công năng đưa hàng Thanh Văn tới quả vị Phật, ví như thuốc tốt trừ được các chứng nan y gây bệnh nơi thân, diệt trừ các phiền não gây khổ trong tâm, xé màn vô minh đưa chúng sinh ra khỏi luân hồi sinh tử

Đây là pháp môn phương tiện tu hành đặc biệt của chúng sinh cõi Chúng Hương chỉ ăn cơm thơm, ngửi mùi hương ngồi dưới cây hương mà được tam muội đầy đủ công đức của Bồ Tát. Còn ở cõi Ta Bà cùng các cõi khác thì chư Phật dùng mọi phương tiện tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh địa phương mà làm Phật sự, dẫn dắt chúng sinh đi trên đường chân chánh tu hành. Có cõi lấy ánh sáng của Phật hoặc thân Phật mà làm Phật sự, có cõi lấy Bồ Tát, lấy cây bồ đề, lấy cơm ăn, lấy mộng huyễn, lấy tiếng nói văn tự, có cõi dùng thanh tịnh vắng lặng... mà làm Phật sự. Tóm lại, tất cả mọi oai nghi đi đứng ngồi nằm, các việc thi vi nhỏ nhặt của chư Phật đều là Phật sự cả. Đây là ý nghĩa câu: Tất cả các việc đều là việc Phật, tất cả các pháp đều là Phật Pháp. Mỗi việc, mỗi pháp, dù thuận dù nghịch, nếu khéo dùng đúng thời, đúng căn cơ đều có tác dụng ích lợi để giáo hóa chúng sinh

Cũng có khi Phật dùng các ma chướng phiền não để làm Phật sự, đây là phương pháp dùng nghịch cảnh để thử thách người tu hànhnhẫn nhục kiên gan bền chí không? Bồ Tát cần phát tâm thanh tịnh vô phân biệtlàm Phật sự, dù thấy cõi Phật nghiêm tịnh cũng không mừng, không ham muốn kiêu mạn; dù thấy cõi Phật bất tịnh cũng không lo không ngại không chán, lúc nào cũng ngợi khen công đức chư Phật chưa từng có, bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng sinh tâm tính khác biệt mà phương tiện hiện ra các cõi Phật không đồng. 

Ba danh từ Tam Miệu Tam Phật Đà, Đa Đà A Dà Độ và Phật Đà là để tôn xưng những vị đã hoàn toàn giác ngộgiải thoát, nghĩa là đắc quả Phật. Tam Miệu Tam Phật Đà nói cho đủ là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Phật Đà, phiên âm chữ Phạn Anudhara Samma Sam Buddha, dịch nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng là không ai cao hơn, Chánh Đẳng là có địa vị chân chánh nhất, để phân biệt với hàng Duyên Giác mới giác ngộ đẳng phần, từng phần (phần giác), Chánh Giácgiác ngộ, hiểu biết sáng suốt chân chánh, để phân biệt với hàng Thanh Văn hãy còn hiểu biết lệch lạc (thiên giác). Ngoài ra còn hai nghĩa nữa là Chánh Biến GiácChánh Biến Tri: hiểu biết chân chánh cùng khắp các pháp, mọi sự mọi vật

Đa Đà A Dà Độ, phiên âm chữ Phạn Tathagata, dịch nghĩa là Như Lai, Như Như Bất Động, Lai Thành Chánh Giác, là người giữ được tâm không động, không từ đâu đến, không đi đâu, đã được giác ngộ chân chánh. Như Lai là một trong mười đanh hiệu để tôn xưng Đức Phật

Phật Đà, phiên âm chữ Phạn Buddha, dịch nghĩa là Giác Giả, là người đã hoàn toàn giác ngộ, hiểu biết Chân Lý tuyệt đối. Chúng ta thường đọc là Phật hay Bụt. 

Đức Thích Ca tán thán công đức trí huệ của mười phương chư Phật vô ngại không thể nghĩ bàn. Thấy oai đức của chư Phật lớn lao như vậy, thấy giáo lý Đại Thừa cao siêu nhiệm mầu nên ông A Nan đem lòng sợ hãi, hổ thẹn, bị nhiếp phục, kbông dám tự nhận là đa văn nữa. Đa văn là nghe nhiều, nhớ kỹ, học rộng, ông A Nan tuy đa văn nhưng chưa phát tâm tu hành rốt ráo nên chưa chứng quả A La Hán, trong khi đó nhiều đệ tử khác của Phật, tuy tài học kém ông A Nan nhưng nhờ quyết tâm tu tập công phu nên đã chứng quả A La Hán

Đoạn này nói riêng về ông A Nan nhưng ám chỉ những hàng Thanh Văn chỉ ham học rộng nghe nhiều mà không chịu tu hành các pháp môn thù thắng. Ông A Nan hối hận tự thú lỗi mình, hứa từ nay xin chừa không dám nhận là đa văn, không chấp vào việc chỉ học mà không tu. Đức Phật an ủi: “Chớ khởi tâm thối lui nản chí. Ta nói ông đa văn hơn hết trong hàng Thanh Văn, chứ không phải đối với hàng Bồ Tát. Chư Bồ Táttrí huệ biện tài, công phu thiền định rộng sâu không thể nghĩ bàn, hàng Thanh Văn không sao bằng được. Hãy để riêng việc Bồ Tát ra, ông Cư Sĩ Duy Ma Cật đây hiện bày sức thần thông trong một lúc mà tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật trải trăm ngàn kiếp tận lực biến hóa đều không làm được.”

Đức Phật đề cao hàng Bồ Tát là để khuyến khích hàng Thanh Văn bỏ chí hèn kém, được chút ít cho là đủ, nay phải phát tâm tu hành thêm nữa, tiến tới quả vị Bồ Tát và Phật. Lúc đó các Bồ Tát ở cõi Chúng Hương tự hối đã khinh thị cõi Ta Bà xấu xa thấp kém, nay biết là do Phật phương tiện làm ra vậy để hợp với căn cơ chúng sinh, nay cúi xin Phật dạy cho một pháp để đem về cõi Chúng Hương tu hành, nghĩ nhớ đến Phật Thích Ca, ví như hiện thời chúng ta đi du lịch nơi xa, mua quà kỷ niệm đem về để nhớ đến nơi vừa đi thăm. Đức Thích Ca liền dạy pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát

Tận là pháp hữu vi, Vô Tậnpháp vô vi. Không tận hữu vi, không trụ vô vi thì được giải thoát

Các pháp hữu vi là các việc làm sắc tướng, còn có ý mong cầu, thấy có việc làm, có pháp môn tu, có quả vị chứng. Các pháp vô vi là các việc làm thanh tịnh, không còn chấp sắc tướng, làm mà không thấy làm, vô cầu, vô chứng, vô đắc. Thông thường thì người tu hành lìa bỏ các pháp hữu vi và tu theo các pháp vô vi. Nhưng ở đây, các Bồ Tát không tận hữu vi, là có ý dạy người tu hành đừng khởi tâm phân biệt, cứ an nhiên làm tất cả mọi việc lành tốt để cầu nhất thiết trí, hành các pháp môn để cứu giúp chúng sinh. Đó là đứng về phần tướng, không bỏ qua một việc tốt nào mà không làm. Còn không trụ vô vi là tuy tu ba môn Không, Vô Tướng, Vô Tác mà không lạc vào chỗ chấp không; tuy chứng vô sinh mà vẫn không chấp có tu có chứng. Tuy biết mọi sự mọi vật vô thường mà vẫn làm các việc lành, tuy biết cuộc đời là khổ mà vẫn không ghét sinh tử, tuy biết chúng sinh vô ngã mà vẫn dạy dỗ dắt dìu... Đây là người đã kiến tánh, nhưng vẫn không lìa tướng, vẫn tu vẫn hành, lìa hai bên chấp có chấp không, giữ vững lý trung đạo. Đứng về tướng, chẳng chấp có nhưng không bỏ một việc phước nhỏ; đứng về tánh, chẳng chấp không mà vẫn làm các hạnh lành, tu mọi pháp thiện. Đức Phật thường răn dạy các đệ tử đừng khinh chê phước nhỏ mà không làm, một bữa nọ, trên đường đi thuyết pháp, Phật dừng chân xỏ kim giùm một bà lão kém mắt, nói vài lời mộc mạc khuyên bảo mấy em nhỏ chăn trâu; cộng nhiều phước nhỏ thành phước lớn, nếu chê phước nhỏ không làm, lấy đâu phước lớn, nhưng làm mọi việc lành mà không chấp, không mong cầu thì mới là tốt. Tuy quán Không, biết mọi sự mọi vật là giả huyễn, nhưng không vì vậy mà chẳng chịu làm gì, thấy việc lành là làm, thấy ai cần là giúp, đó là lòng Đại Bi của chư Bồ Tát. Làm được mọi việc lợi ích chúng sinh mà lòng không chấp trước, không mong cầu, đó gọi là Bồ Tát không tận hữu vi, không trụ vô vi. Đó gọi là pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát

Các Bồ Tát nước Chúng Hương nghe Phật nói pháp này rồi hết sức vui mừng, đem các hoa báu đủ mầu rải khắp tam thiên đạì thiên thế giới cúng dường Phật, kinh Pháp này cùng các Bồ Tát, lễ Phật tán thán rồi bỗng nhiên biến trở về cõi Chúng Hương. Các vị Bồ Tát này được Đức Phật Thích Ca khai ngộ cho, bỏ lòng kiêu mạn, hết tâm khinh chê lớn nhỏ sạch uế, rải hoa cúng dường Tam Bảo Phật Pháp Tăng tỏ lòng quy y kính ngưỡng, trở về cõi Chúng Hương, nghĩa là trở về quê cũ, trở về Bản Tâm thanh tịnh vô phân biệt

Đoạn kinh này chỉ dạy người tu đừng quá thiên về Lý mà bỏ Sự, đừng quá nghiêng về Tánh mà quên Tướng, vẫn làm các Sự Tướng mà không rời Lý Tánh, thì công phu tu hành mới gọi là viên dung, sớm thành Phật Đạo. Nhưng sau khi đã thành tựu mọi công đức, dứt trừ vi tế vô minh, Bồ Tát sắp bước vào cửa Phật, đưa mắt nhìn xuống cõi trần thấy chúng sinh còn đang ngụp lặn trong bể khổ trầm luân mong được cứu vớt, Ngài ung dung tự tại quay gót trở lại trần gian với nụ cười đầy từ bi hỷ xả, phát nguyện lớn độ hết chúng sinh rồi Ngài mới thành Phật. Vô ngã lợi tha, quên mình vì người, đó là Hạnh Bồ Tát. Do đó phẩm này được đặt tên là Hạnh Bồ Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34464)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33327)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43695)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56803)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39239)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38331)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52707)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36430)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32095)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40203)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43242)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31311)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46467)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36020)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28564)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29064)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31740)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28650)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 28965)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60780)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39508)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26480)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29498)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37131)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39872)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26714)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42435)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37042)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28144)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28760)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26264)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27043)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26069)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34324)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27655)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30292)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33018)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28344)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 29915)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25352)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21711)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51035)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26517)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28475)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27535)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24196)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27279)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31708)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30001)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27545)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35204)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27302)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29841)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31525)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22899)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 23982)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22861)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant