Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

12 Phẩm Thấy Phật A Súc

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6425)
12 Phẩm Thấy Phật A Súc

 ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

12. PHẨM THẤY PHẬT A SÚC

A Súc là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Bất Động. Phật A SúcPháp Thân chẳng sinh diệt, chẳng tới lui, vắng lặng thường còn, chẳng hề động chuyển, nên gọi là Bất Động

Đức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Muốn thấy Như Lai thì lấy gì quán sát? 

Như Lai, theo nghĩa hẹpĐức Phật Thích Ca hoặc chư Phật mười phương, nghĩa rộng là cái gì như như bất động, không sinh không diệt, không tới không lui, là Bản Thể, là Thật Tướng, là Pháp Tánh của mọi sự mọi vật, là nguồn gốc của mọi loài từ đó mà sinh ra, là cái Không sinh ra cái Có, là Chân Lý cao siêu tuyệt vời huyền diệu vô cùng vô tận

Trong Kinh Kim Cang có câu: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai, nghĩa là những vật gì có hình tướng đều là giả dối hư huyễn, nếu thấy được cái Phi Tướng tức tướng Không nằm ẩn trong hình tướng bên ngoài thì thấy được Như Lai, thấy Chân Lý

Ở đây, ông Duy Ma Cật cũng nói giống như vậy: Muốn thấy Như Lai phải quán Thật Tướng, lìa phân biệt hư vọng, rời hai bên đối đãi, phá năm ấm bốn đại, không bờ này bờ kia, chẳng dòng sông phiền não, không sạch không nhơ, không lớn không nhỏ, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng trí chẳng ngu, chẳng thủ chẳng xả, chẳng dùng lời nói diễn tả được, đó là quán sát chân chánh (chánh quán), nếu quán khác thì gọi là tà quán

Ngài Xá Lơi Phất, tùy theo lòng nghi ngờ chưa hiểu biết rốt ráo của hàng Thanh Văn, hỏi ông Duy Ma Cật ở đâu chết rồi sinh nơi đây? Hàng Thanh Văn chưa nắm được liễu nghĩa của Như Lai chẳng đến chẳng đi, chẳng sinh chẳng diệt.. nên vẫn còn chấp có chỗ đi và có nơi đến. Ông Duy Ma Cật bèn dùng pháp tu chứng quả và người huyễn hóa sinh ra làm thí dụ cho Ngài Xá Lợi Phất dễ hiểu

Đứng về hình tướng thì có sinh có diệt, nhưng đứng về Thể Tánh thì sinh diệtpháp giả dối huyễn hóa. Chết là tướng bại hoại của pháp hư dối để rồi lại tiếp tục sinh hóa, mà sinh cũng là tướng tương tục của pháp hư dối mà thôi, chẳng có gì thật là sinh, thật là diệt cả. Ví như nước và sóng. Khi lặng là nước, khi động là sóng, hết động trở lại là nước, trước sau vẫn là nước, động tịnh là những hiện tượng giả huyễn tạm thời. 

Đến đây Đức Phật e hàng Thanh Văn lạc vào chỗ chấp không rồi sinh hoang mang mờ mịt nên Ngài đứng về tướng trạng mà bảo Ngài Xá Lợi Phất: ông Duy Ma Cật vốn ở nước Diệu Hỷ của Phật Vô Động, chết rồi sinh nơi đây. 

Danh từ chết là Đức Thế Tôn phương tiện dùng cho hàng Thanh Văn dễ hiểu, chứ thật ra thì ông Duy Ma Cậtlòng từ bi thương xót chúng sinh cõi Ta Bàthị hiện ở cõi này để hóa độ, ông đã ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, không còn sống chết nữa. Ngài Xá Lợi Phất vẫn còn chấp có hai cõi thanh tịnh (Diệu Hỷ) và nhiều oán hại (Ta Bà), ông Duy Ma Cật phải lấy thí dụ mặt trời đem ánh sáng soi chiếu nơi tối tăm. Bồ Tát vì bổn hoài lợi tha nên phải thị hiện ở nơi nhơ uế nhiều đau khổ để cứu giúp chúng sinh, nhưng không hề nhiễm trần cấu bất tịnh, ví như hoa sen mọc trong bùn mà chẳng ngại hôi tanh, chuyển chất liệu uế trược của bùn thành mùi thơm thanh khiết của hoa sen, tung rải hương thơm khắp nơi. 

Nghe lời Đức Thích Ca nói xong, tất cả đại chúng đều khát ngưỡng mong được thấy nước Diệu Hỷ, Phật Vô Động và các hàng Bồ Tát, Thanh Văn của nước đó. Tuân theo lời Đức Thích Ca dạy và muốn cho đại chúng cõi Ta Bà thấy được cõi Diệu Hỷ, tượng trưng cho Bản Thể, Chân Lý cao siêu mầu nhiệm, ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội, nghĩa là vào chánh định, hiện sức thần thông mang nước Diệu Hỷ để vào cõi Ta Bà. Chư vị Bồ Tát và những người có thần thông ở nước Diệu Hỷ ý thức đươc việc di chuyển này, còn các người chưa có thần thông thì không hay biết gì cả. Đó là nghĩa làm sao? 

Ví như quả đất tự quay và chạy quanh mặt trời với một tốc độ rất mau, nhưng chúng ta không ý thức được việc chuyển động đó, vì chúng ta ngu muội không có trí huệ, chúng ta sống kẹt trong bầu khí quyển bao bọc mịt mùng nên cứ tưởng là quả đất đứng im; còn đối với các nhà khoa học có trí thông minh sáng suốt có những dụng cụ tinh vi tối tân, hoặc đối với các bậc Thánh siêu phàm thì rõ ràng quả đất chuyển động thật mau. Các Ngài đã vượt lên trên sự hiểu biết tầm thường của thế gian; nhờ trí huệ sáng suốt, các ngài đã thấy được sự thật, nhưng sự thật đó khó tin khó hiểu, nói ra ít ai chịu nghe. Giống như dưới thời Vua Tự Đức, ông Nguyễn Trường Tộ đi sang Âu Châu về tâu Vua những sự phát minh khoa học như đèn điện, tàu hỏa,... Vua và triều đình không tin, cho là nói dối. Chúng ta cũng vậy, sự hiểu biết còn nông cạn hẹp hòi, những gì mắt thấy tai nghe mới tin, còn những gì siêu việt thì khăng khăng cố chấp cho là huyền hoặc, giống như ếch ngồi đáy giếng đâu biết bầu trời bao la

Nhân dân nước Diệu Hỷ không có thần thông thì không hay biết sự việc nhiệm mầu, sự biến chuyển siêu nhiên của nước Diệu Hỷ hòa nhập vào cõi Ta Bà, toàn thể cõi nước của họ di động mà họ chẳng hay chẳng biết gì cả, chỉ có các Bồ Tát, Thanh Văn cùng các Trời người có thần thông thì biết rõ. Nước Diệu Hỷ được đặt vào cõi Ta Bà mà không thêm không bớt, còn cõi Ta Bà cũng không chật hẹp, vẫn y nguyên như trước. Đây là luận về Bản Thể, Pháp Tánh nên không có sự phân biệt rộng chật, không có vật chất cản trở ngăn ngại nhau, chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một. 

Đại chúng cõi Ta Bà thấy rõ nước Diệu Hỷ trang nghiêm tốt đẹp nên đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sinh sang nước đó. Đức Thích Ca liền thọ ký cho và bảo muốn vậy phải học cái Đạo của Đức Vô Động Như Lai đã làm, nghĩa là phải giữ tâm như như bất động, vô phân biệt, tùng tướng nhập Tánh. Danh từ thọ ký có nghĩa là nói trước, báo trước cho người tu hành chân chánh biết về sau sẽ thành tựu quả vị gì, ở lại nước nào, cõi đó tốt đẹp ra sao, sau bao nhiêu kiếp sẽ được thành Phật

Huyền nghĩa của đoạn kinh này là chúng sinh nào muốn trở về Bản Tâm như như bất động thì phải bỏ qua những tướng trạng bên ngoài mà quay về thâm nhập Thật Tướng bên trong. Chúng sinh thường chỉ tin tưởng vào những gì mắt thấy tai nghe và những sự việc vật chất do giác quan tiếp thụ, còn những gì siêu việt do Tâm cảm nhận thì không tin. Ông Duy Ma Cật dùng thần thông đem nước Diệu Hỷ để vào cõi Ta Bà khiến cho chúng sinh thấy và phát lòng tin rằng ngoài cõi Ta Bà còn có nhiều cõi nước khác nhiều cảnh giới tốt đẹp nhiệm mầu, nhưng đều không ngoài Tâm mà có. Duy Ma Cật được dịch là Tịnh Danh hoặc Tịnh Tâm. Ông Duy Ma Cật đem nước Diệu Hỷ cho chúng sinh thấy, nghĩa là phải giữ tâm thanh tịnh, như như bất động, phải tu Định thì trí huệ phát sinh, thấy được sự thật huyền diệu an vui (nước Diệu Hỷ của Phật Vô Động). Muốn tới đó thì phải bỏ lòng chấp trước ích kỷ hẹp hòi tán loạn điên đảoquay về với Tâm Bất Động, chính Tâm này là Bản Thể nguồn gốc sinh ra mọi sự mọi vật, là Chân Không phát sinh Diệu Hữu

Sau khi làm xong những việc lợi ích nơi cõi Ta Bà, Đức Phật Bất Động và tất cả nhân dân nước Diệu Hỷ trở về chốn cũ, cả đại chúng đều thấy rõ. Ngài Xá Lơi Phất tán thán thần thông của ông Duy Ma Cật và nguyện tất cả chúng sinh được thanh tịnh như Phật Vô Động. Ngài và đại chúng thời bấy giờ được nhiều lợi lành, được gặp và cúng dường ông Duy Ma Cật, Ngài nguyện cho những chúng sinh đời hiện tại hoặc vị lai được nghe kinh này, tin hiểu thọ trì đọc tụng giải nói, đúng như pháptu hành, sẽ được kho tàng Pháp bảo và được chư Phật hộ niệm. 

Nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải nói Kinh này là tốt lắm, nhưng quan trọng hơn hết là phải đúng như pháptu hành. Nếu không tu hành đúng như pháp thì chỉ là học suông, chỉ có bề ngoài, chỉ có học mà không tu thì khác gì cái đãy đựng sách, cái tủ sách đầy bụi, không lợi ích cho ai cả. Đã học rồi thì phải hành, mà phải hành đúng như pháp, nghĩa là đúng Chân Lý, đúng luật Phật, hợp thời hợp cơ, tùy hoàn cành, tùy phương tiện, miễn làm sao lợi người lợi mình, tự giác giác tha, cùng nhau đi trên đường giác ngộgiải thoát. Phật dạy gì ta làm nấy, Pháp dạy thế nào ta theo nấy, Tăng sống hòa hợp thanh tịnh như thế nào ta bắt chước nấy, bất cứ làm việc gì cũng chỉ vì cứu giúp chúng sinh, không mong cầu, không ích kỷ ngã chấp, không chứng không đắc đó là đúng như pháptu hành vậy. Cúng dường những người tu hành như vậy tức là cúng dường chư Phật, vì người đó đã đi đúng con đường Phật, làm đúng việc Phật, chắc chắn sẽ thành Phật. Tuy còn mang hình tướng chúng sinh nhưng hột giống Phật trong người đó đã nẩy mầm mạnh mẽ, Phật Tánh đã được lau chùi hết bụi, ánh sáng giác ngộ đã chiếu sáng, chẳng bao lâu sẽ ngồi dưới cội bồ đề, đại phá ma quân, thành Đạo Vô Thượng

Nếu có người nào biên chép thọ trì kinh này thì chính là trong nhà người ấy có Như Lai. Kinh là Pháp Bảo, là báu vật đưa chúng sinh từ mê tới ngộ, từ phàm tới Thánh, tới Phật cho nên trong nhà có kinh này được gọi là nhà có Như Lai. Kinh Pháp Bảo là nhân mà Như Lai, Phật Bảo là quả. Nhưng điều cần yếuthọ trì rồi y theo nghĩa lý trong kinh mà thực hành thì mới có lợi, chứ chẳng phải chỉ đọc tụng như con vẹt mà không hiểu huyền nghĩa ẩn ý của kinh, không thực hành đúng đắn lời kinh thì dù trong nhà có thiên kinh vạn quvển, bìa dầy chữ vàng, cũng chẳng có Như Lai

Người nghe kinh này mà tùy hỷ thì sẽ được đến bậc Nhất Thiết Trí. Tùy hỷ là vui theo. Thấy người khác được lợi lạc mà mình không có lòng ganh ghét đố kỵ, lại vui theo, mừng cho người ấy thì được gọi là tùy hỷ. Sau khi vui theo rồi, mình cần bắt chước người đó mà tu hành thì rồi cũng phát huy được cái trí huệ sẵn có của mình, biết được tất cả mọi sự mọi vật một cách đúng như thật, đúng Chân Lý, trí huê sáng suốt đó gọi là Nhất Thiết Trí

Cho đến người nào chỉ tin hiểu kinh này cho đến một bài kệ bốn câu rồi giải nói cho người khác nghe, phải biết người đó được thọ ký quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Kinh sách có câu: Lòng tin là mẹ sinh ra chư Phật. Phải có lòng tin ba ngôi báu Phật Pháp Tăng để trở về nương tựa (quy y) và tinh tấn tu hành thì sẽ được thành Phật. Thiếu lòng tin thì không có cơ sở vững chắcxây dựng tòa nhà tinh thần, muốn ở nhà lầu cao đẹp mà không đặt nền móng cho tốt, cho ngay thẳng thì dễ bị sụp đổ. Nhưng không phải ai nói gì cũng tin, thấy gì cũng tin, tin càn tin bướng, tin tà ma quỷ quái, mà phải có lòng tin chân thật gọi là Chánh Tín, tin lẽ phải, tin luật nhân quả, tin lý vô thường, vô ngã, tin theo gương sáng của Phật, tin theo lời Phật, kinh Phật tức là Pháp, tin theo đời sống thanh tịnh hòa hợp của chư Tăng, lòng tinđiều kiện thứ nhất trong ba điều kiện thiết yếu được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà (Tín, Nguyện, Hạnh). 

Sau khi tin rồi thì cần phải học hiểu cho rõ lời Phật, nghĩa Kinh gồm cả nghĩa đennghĩa bóng, nhất là thâm ý ẩn tàng trong Kinh, chư Tổ thường đạy đọc kinh cầu lý là thế đó. Tin hiểu rồi thọ trì nghĩa là nắm vững lý kinh một cách chắc chắn sâu xa bền vững không còn sai lầm, rồi đem giải nói cho những người khác nghe, nghĩa là tự giác rồi thì phải giác tha, chẳng bao giờ ôm lòng ích kỷ, mà lúc nào cũng muốn làm lợi ích cho người khác. đó là tâm niệm của Bồ Tát chỉ nhắm việc lợi tha, nhân lành đó đưa đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là quả vị Phật cao tột. Kinh điển Đại Thừa rất nhiều, cao siêu rộng lớn, nhưng chì dùng một bài kệ bốn câu giải nói cho người khác nghe mà được lợi ich lớn lao như vậy, vì giúp người khác nghe rồi tin hiểu thọ trì, cũng như đánh thức người đó tỉnh giấc chiêm bao, tỉnh rồi thì không mê nữa, mình chỉ đánh thức một lần là đủ, chĩ dùng bốn câu kệ là đã tạo duyên lành, mở đầu cho hột giống Phật trong người đó nẩy mầm, rồi lần lần đơm hoa kết quả. Kẻ nói người nghe Kinh này đều được thọ ký, chúng sinh đời sau tu hành theo kinh này cũng được thọ ký, bộ kinh này thật là Pháp Bảo vô giá vậy. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31290)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26198)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27480)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27857)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26679)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31174)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20228)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22859)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 29991)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21528)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20202)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22611)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20720)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30247)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28746)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34676)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44173)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35466)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22506)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21322)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20645)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24733)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37852)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 18993)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19294)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21774)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20840)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29484)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35058)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28780)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32563)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26190)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28885)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43087)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34877)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43855)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37831)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21308)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 42992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48975)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39784)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53752)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36788)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40769)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49689)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47270)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27663)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 26989)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27197)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24054)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20819)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34285)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22432)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25076)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25795)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22917)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22450)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21726)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23301)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21136)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant