Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 3 Thanh Văn

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7067)
Phẩm 3 Thanh Văn

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 3. THANH VĂN

I. LƯỢC VĂN KINH 

Lúc bấy giờ, Duy Ma Cật nghĩ rằng ông bệnh, lẽ nào Đức Thế Tôn là đấng đại từ lại không đoái lòng thương xót. Phật biết ý ông, liền bảo Xá Lợi Phất đến thăm bệnh Duy Ma.

 Xá Lợi Phất bạch Phật rằng ông không dám thăm bệnh Duy Ma. Vì nhớ lại trước kia đang ngồi Thiền dưới gốc cây trong rừng, thì Duy Ma đến hỏi Xá Lợi Phất rằng “Thưa Ngài Xá Lợi Phất, không cần phải ngồi sững như vậy mới là Thiền. Chẳng bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu, như vậy là Thiền. Tâm chẳng trụ trong cũng chẳng ở ngoài, như vậy là Thiền v.v... Nếu ngồi được như vậy, Phật sẽ ấn khả”. Xá Lợi Phất nghe xong, lặng thinh, không đáp được.

Phật bảo Mục Kiền Liên đến thăm bệnh Duy Ma, nhưng ông cũng không dám . Nhớ lại lúc ông vào thành Tỳ Da Ly thuyết pháp, Duy Ma bảo ông rằng : “Thuyết pháp cho hàng cư sĩ, chẳng nên thuyết pháp như vậy. Phải y như pháp mà thuyết. Pháp khôngchúng sanh, lìa chúng sanh cấu. Pháp thường vắng lặng, dứt hết các tướng, pháp không vướng mắc danh tự ngữ ngôn, pháp không sanh diệt, pháp ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý v.v... Phải tùy căn cơ hoàn cảnh, mà dùng tri kiến thuyết pháp tương ứng. Phải vì tâm đại bi, vì nhớ nghĩ đền ơn Phật, vì mong muốn ba ngôi Tam Bảo thường hằngthuyết pháp Đại thừa”. Khi Duy Ma nói pháp xong, tám trăm cư sĩ phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác.

 Phật liền bảo Ca Diếp đến thăm bệnh Duy Ma. Ca Diếp bạch Phật ông không dám đến thăm Duy Ma. Vì nhớ lại trước kia, khi ông khất thực xóm nghèo, Duy Ma chợt đến nói với ông : “Này Ca Diếp, lúc khất thực, ông nên thể hiện lòng từ bi bình đẳng. Không phải chỉ quan tâm đến nhà nghèo mà bỏ nhà giàu. Đi khất thực không phải vì ăn, không nên lựa chọn xóm làng để khất thực, không phân biệt ngon dở để ăn. Nên biết các pháp tướng như ảo hóa... Này Ca Diếp, nếu hành giả có thể dùng tướng tà để đi vào chánh pháp, đem một bữa cơm mà bố thí cho tất cả, làm được như vậy rồi mới nên ăn. Người ăn như vậy, chẳng phải có phiền não, chẳng phải lìa phiền não, chẳng phải trụ thế gian, chẳng phải trụ Niết bàn, v.v... Đó là vào Phật đạo một cách chánh trực, chẳng nương theo Thanh văn. Ca Diếp, nếu ăn như vậy không uổng của người ta thí”. Lúc Duy Ma Cật nói, ông tỏ ngộ được điều chưa từng có. Từ ấy đến nay, ông không đem hạnh Thanh vănBích chi Phật để dạy người.

 Phật bảo Tu Bồ Đề đến thăm bệnh Duy Ma. Tu Bồ Đề cũng không dám đi, vì ông nhớ lại thuở trước vào nhà Duy Ma khất thực. Duy Ma lấy bát của ông đựng đầy cơm rồi nói với Tu Bồ Đề rằng : “Thưa Tu Bồ Đề, đối với cơm bình đẳng, thì các pháp cũng bình đẳng. Đi khất thực như thế, mới nên nhận món ăn. Như Tu Bồ Đề không trừ dâm, nộ, si, cũng không chung cùng với nó. Không dứt si ái sanh ra giải thoát, không phải phàm phu, cũng không phải rời phàm phu v.v... Tuy làm được tất cả pháp, mà rời tướng các pháp, như thế mới nên lấy món ăn. Tu Bồ Đề, nếu Ngài vào nơi tà kiến không đến bờ giác, ở nơi tám nạn không được khỏi nạn... Những kẻ thí cho Ngài chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho Ngài đọa vào ba đường ác, Ngài cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ v.v... Đối với chúng sanh mà có lòng oán hận, khinh báng Phật, chê bai pháp, không vào chúng Tăng, hoàn toàn không được diệt độ. Nếu Ngài được như thế mới nên lấy món ăn”.

Ông nghe lời ấy, mờ mịt không biết là nói gì, cũng không biết lấy lời chi đáp lại. Ông để bát lại, muốn ra khỏi nhà Duy Ma. Duy Ma Cật liền nói : “Thưa Tu Bồ Đề, Ngài cứ mang bát đi, đừng sợ. Ý Ngài nghĩ sao? Như Phật biến ra một người huyễn hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc này hỏi Ngài, lúc ấy Ngài có sợ chăng?”. Tu Bồ Đề đáp : “Không sợ”. Duy Ma Cật lại nói : “Tất cả pháp như tướng huyễn hóa, Ngài không nên có tâm sợ sệt. Tất cả lời nói năng không lìa tướng huyễn hóa, cho đến người trí chấp văn tự, nên không sợ. Tánh của văn tựxa lìa, thực khôngvăn tự, đó là giải thoát”. Khi Duy Ma nói pháp ấy 200 Thiên tử được pháp nhãn thanh tịnh.

 Phật bảo Phú Lâu Na đến thăm bệnh Duy Ma. Phú Lâu Na bạch Phật không dám thăm bệnh Duy Ma. Vì nhớ lại trước kia, ở trong rừng nói pháp cho Tỳ kheo mới học. Duy Ma Cật đến bảo ông : “Thưa Phú Lâu Na, Ngài nên nhập định để quan sát tâm địa của những người này rồi sau mới nên nói pháp. Ngài chớ nên đem món ăn dơ để trong bát báu, phải biết rõ tâm niệm của các Tỳ kheo này, chớ cho ngọc lưu ly đồng với thủy tinh. Ngài không biết được căn tánh của chúng sanh, chớ nên dùng pháp Tiểu thừa mà dạy họ. Những người kia tự không có tỳ vết, họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Ngài chớ nên đem biển lớn để vào dấu chân trâu, chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm v.v... Ngài Phú Lâu Na, những Tỳ kheo này đã phát tâm Đại thừa từ lâu, giữa chừng bị quên. Nay tại sao lại lấy pháp Tiểu thừa dạy họ”.

Lúc ấy, Duy Ma Cật nhập tam muội, làm cho những Tỳ kheo đó biết được kiếp trước của họ đã từng ở nơi 500 Đức Phật vun trồng cội lành, hồi hướng đạo Vô thượng chánh đẳng giác. Liền đó, các vị ấy bừng sáng, phát tâm Đại thừa trở lạiđảnh lễ Duy Ma.

Phật bảo Ma Ha Ca Chiên Diên đến thăm bệnh Duy Ma. Ca Chiên Diên cũng từ chối. Vì nhớ lại lúc trước, Phật nói lược qua yếu chỉ các pháp cho Tỳ kheo nghe. Sau đó, Ca Chiên Diên nói lại nghĩa ấy là những nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngãtịch diệt

Lúc đó, Duy Ma Cật đến nói với ông : “Thưa Ngài Ca Chiên Diên, Ngài chớ đem tâm hạnh sanh diệt mà nói pháp tịch diệt. Các pháp rốt ráo không sanh, không diệt là nghĩa vô thường. Năm ấm rỗng không, không chỗ khởi nghĩa là khổ. Các pháp rốt ráo, không có nghĩa, là KHÔNG. Ngã và vô ngã không hai, là nghĩa vô ngã. Pháp trước không sanh, nay cũng không diệt, là nghĩa tịch diệt”. Khi Duy Ma nói xong, các Tỳ kheo được giải thoát.

Phật bảo A Na Luật đến thăm Duy Ma. Ông cũng từ chối. Vì nhớ lại lúc trước ông đi kinh hành, có vị Phạm vương tên Nghiêm Tịnh cùng với một muôn Phạm vương khác phóng ánh sáng trong sạch đến chỗ ông và cúi đầu làm lễ hỏi rằng : “Thưa Ngài, thiên nhãn của Ngài thấy xa được bao nhiêu ?”. Ông đáp : “Tôi thấy cõi tam thiên đại thiên thế giới của Phật Thích Ca Mâu Ni như thấy trái cam trong bàn tay”. 

 Lúc đó, Duy Ma đến nói với ông : “Thưa A Na Luật, thiên nhãn của Ngài thấy là do tạo tác hay không tạo tác. Nếu nó là tướng tạo tác, thì không khác gì ngũ thông của ngoại đạo. Nếu nó là tướng không tạo tác, tức là vô vi, thì lẽ ra không thấy”. Lúc ấy, ông im lặng, các Phạm Thiên nghe Duy Ma nói được điều chưa từng có liền làm lễ, hỏi Ngài rằng trong đời ai là người có chơn thiên nhãn. Duy Ma đáp có Phật Thế Tôn được chơn thiên nhãn thấy suốt cõi Phật không có hai tướng. Khi ấy Nghiêm Tịnh Phạm vương và 500 Phạm vương phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác, đảnh lễ Duy Ma rồi biến mất.

Kế đến, Phật bảo Ưu Ba Ly đi thăm bệnh Duy Ma. Ông cũng từ chối, vì nhớ lại ngày trước có hai Tỳ kheo phạm luật, không dám hỏi Phật, đến hỏi Ưu Ba Ly. Ông liền y theo pháp giải nói cho hai vị ấy. Bấy giờ, Duy Ma đến nói với ông rằng : “Thưa Ngài, Ngài chớ nên kết thêm tội cho hai vị Tỳ kheo này, chớ nên làm rối loạn lòng họ, vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa. Như lời Phật nói : “Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch nên chúng sanh sạch”. Tâm cũng không ở trong, ở ngoài, ở giữa. Tâm như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các pháp cũng thế, không ra ngoài chơn như. Như Ngài Ưu Ba Ly khi tâm tướng được giải thoát thì có tội cấu chăng ? Ưu Ba Ly đáp “Không”. Duy Ma Cật nói “Tất cả chúng sanh tâm tướng không nhơ cũng như thế, thưa Ngài Ưu Ba Ly. Vọng tưởng là nhơ, không chấp ngã là sạch v.v... Tất cả pháp không diệt không dừng, như huyễn, như chớp, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới nước v.v... Người nào biết nghĩa này là giữ luật. Khi ấy hai vị Tỳ kheo dứt hết nghi hối, phát tâm Vô thượng chánh dẳng giác và phát nguyện rằng : “Nguyện làm cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như Ngài Duy Ma”.

Kế tiếp Phật bảo La Hầu La đi thăm Duy Ma. La Hầu La bạch Phật không dám đến thăm bệnh Duy Ma. Vì nhớ lúc trước con của các trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly đến chỗ ông cúi đầu làm lễ hỏi rằng : “Thưa Ngài La Hầu La, Ngài là con của Phật, vì đạo bỏ ngôi Chuyển luân Thánh vươngxuất gia. Việc xuất gia đó có lợi ích gì ?”. Ông liền theo pháp mà nói sự ích lợi của công đức xuất gia. Lúc đó, Duy Ma đến nói với ông rằng : “Ngài không nên nói cái lợi của công đức xuất gia vì không lợi, không công đức mới thực là xuất gia. Về pháp hữu vi, có thể nói là có lợi có công đức. Còn xuất giapháp vô vi, trong pháp vô vi không lợi, không công đức. Vả chăng xuất gia là ly 62 kiến chấp, ở Niết bàn là chỗ nhận của người trí, chỗ làm của bậc Thánh, hàng phục các ma, khỏi ngũ đạo, sạch ngũ nhãn v.v... ,vượt khỏi giả danh, không bị ràng buộc, không ngã sở, tùy Thiền định rời các lỗi. Nếu được như thế mới thật là xuất gia”.

Khi ấy, Duy Ma bảo các con của trưởng giả : “Các ông ở trong chánh pháp nên cùng nhau xuất gia, vì Phật ra đời khó gặp”. Các con của trưởng giả nói : “Chúng tôi nghe Phật dạy nếu cha mẹ không cho, không được xuất gia”. Duy Ma đáp : “Phải, nếu các ông phát tâm Vô thượng Bồ đề, đó chính là xuất gia đầy đủ giới pháp”. Lúc ấy, 32 vị con trưởng giả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Kế tiếp Phật dạy Ngài A Nan đi thăm bệnh Duy Ma. A Nan từ chối vì nhớ lại lúc trước Thế Tôn có bệnh phải dùng sữa bò. Ông cầm bát đứng trước cửa nhà Bà La Môn. Duy Ma đến hỏi ông : “Này A Nan, làm gì cầm bát đứng sớm thế ?”. A Nan đáp rằng : “Thế Tôn bệnh nên tôi đi xin sữa”. Duy Ma nói với A Nan rằng : “Ngài A Nan chớ nói lời ấy, thân Như Lai là thể Kim cang, các ác đã dứt, các lành đầy đủ, còn có bệnh gì, còn có não gì ? Chuyển luân Thánh vương có ít phước báo còn không tật bệnh, huống chi Như Lai phước báo nhiều hơn tất cả, làm sao có bệnh được. Chớ làm cho hàng ngoại đạo nghe lời ấy sẽ nghĩ rằng Phật là Thầy, bệnh mình không cứu nổi mà cứu được bệnh người khác ư ? Phải biết thân Như Lai chính là Pháp thân, không phải thân tư dục. Thân Phật là thân vô lậu, vô vi... Thân như thế, còn có bệnh gì ?”.

Lúc đó, A Nan quá hổ thẹn, tự nghĩ ông gần Phật không lẽ nghe lầm. Ông liền nghe trên hư không có tiếng nói rằng : “A Nan, đúng như lời cư sĩ nói, chỉ vì Phật hiện thân ở đời ác ngũ trược, nên hiện ra việc ấy để độ thoát chúng sanh. A Nan, hãy đi lấy sữa, chớ có thẹn”. 

Như vậy, 500 vị đại đệ tử lần lượt mỗi người đều trình bày với Phật duyên cớ của mình. Vị nào cũng khen ngợi Duy Ma và đều nói không dám đến thăm bệnh Ngài.

II. GIẢI THÍCH

Pháp môn tu học của Phật nhiều vô lượng, thường được biểu thị bằng con số tám muôn bốn ngàn pháp tu để đối trị tám muôn bốn ngàn phiền não trần lao của chúng sanh. Tuy nhiên, tựu trung lại, các pháp này đều thuộc hai hệ tư tưởng : hệ Thanh văn (Tiểu thừa) và hệ Bồ tát (Đại thừa).

Phật nói pháp tu tiêu cực cho hàng Thanh văn, nhằm đối trị tâm trạng bất mãn chán đời của Sa mônxã hội Ấn Độ bấy giờ đang đặt dưới sự cai trị khắc nghiệt của Bà La Môn. Phật nương theo tâm niệm chán nản, buông trôi này, dần dần giáo hóa họ. Ngài truyền cho họ tri thức xây dựng trên pháp tứ đế và được hàng Sa môn chấp nhập triển khai thành hệ thống giáo lý Tiểu thừa yếm thế tiêu cực.

Hàng Thanh văn tu tiêu cực, lấy lợi mình làm chính, chỉ lo phát triển bản thân ra khỏi luân hồi, còn sự đau khổ của người, họ không màng tới. Đối với người căn tánh thấp kém, đạo đức trí tuệ không đủ để thực hiện những việc lợi ích cho người, Phật dạy họ pháp nhỏ của Thanh văn, là điều hợp lý tất yếu. 

Mọi sự bài bác Tiểu thừa đều lạc vào sai lầm. Vì người còn đầy nghiệp chướng phiền não, cho tiếp cận cuộc đời sớm, phiền não sanh, thì họ không thể thấy đạo. Với khả năng nhỏ bé, ta lại tròng thêm trách nhiệm cho họ, chẳng những không tự cứu được còn làm họ đọa thêm.

 Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy đối với chúng này, Ngài chỉ có mục đích duy nhất làm cho họ xa rời sự chấp trước. Họ phải tu pháp phương tiện để lần hồi dẫn đến chân thật.

 Phương tiện của hàng Thanh văn là bỏ ồn ào tìm yên tĩnh, bỏ Ta bà tìm Cực Lạc. Phải định rõ hai thế giới là đời khổ và tu hành giải thoát, nhằm mục tiêu kéo họ ra khỏi phiền muộn thế gian, không làm thân với người đời. 

Trong quá trình tu học của tôi cũng vậy. Ở giai đoạn đầu, ngày tháng miệt mài tụng kinh nghe pháp, suy nghĩ lời Phật dạy, trầm mình trong giáo lý Như Lai. Chuyện hơn thua phiền não thế gian không còn xâm phạm lòng tôi. Từ bản tâm thanh tịnh đó, trí tuệ mới bừng sáng để tiến bước thứ hai của lộ trình Bồ tát

Ở giai đoạn một, hàng Thanh văn tiến tu nghe pháp. Sau một thời gian, màu đạo đã nhuộm thắm tâm hồn, họ trở thành người giải thoát thực. Tuy vẫn sống trên cuộc đời, nhưng đã thoát khỏi buồn phiền của cuộc đời, tâm chấp trước rũ sạch, tri thứcđạo đức vượt hơn người. 

Lúc ấy, họ nhìn đời với đôi mắt không giống như xưa. Nhìn ra xã hội thấy khổ đau vì chấp trước, phiền lụy của người, là dĩ vãng mà Thanh văn từng trải qua. Các Ngài mới khởi lòng từ bi thân cận với người, để giáo hóa dìu dắt họ,ï giống như Phật đã sống gần gũi các Ngài, dần dần đưa các Ngài ra khỏi nhà lửa tam giới

Đến giai đoạn này, Phật chuyển tư tưởng của Thanh văn tiêu cực yếm thế sang tích cực nhập thế, làm sáng đẹp cuộc đời theo Bồ tát đạo

Phật giáo Việt Nam tiếp thu hệ tư tưởng Đại thừa, sản sanh ra các vị danh Tăng hay Thiền sư lỗi lạc, hiến dâng cuộc đời phụng sự cho xã hội. Điển hình như Vạn Hạnh hay Tuệ Tĩnh Thiền sư. Tuy các Ngài đã tắt lửa lòng mà còn chen vào chốn bụi hồng để độ sanh. Các Ngài đầy đủ khả năng tự độ, dấn thân vào đời bằng tâm thương người cứu người. Hội nhập với đời, nhưng không bị cuộc đời thiêu đốt, là đóa sen vươn lên thơm ngát giữa chốn bùn nhơ. Còn bước vào đời với đầy đủ tham sân phiền não, làm trò cuời cho thế gian, chắc chắn không phải là đệ tử Phật.

Phẩm này được Ngài La Thập dịch là đệ tử, Ngài Huyền Trang dịch là Thanh văn. Theo tôi, dùng danh từ Thanh văn chính xác hơn. Vì đệ tử Phật để chỉ hai hạng người : Thanh vănBồ tát. Các bộ kinh trước kinh Duy Ma phân ra tam thừa giáo : Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thừa là ba con đường đi đến ba mục đích khác nhau. Vì tu ba nhân khác nên đưa đến ba quả khác. Tu Thanh văn thừa thành La hán, tu Duyên giác thừa thành Bích Chi Phật và tu Bồ tát thành Phật.

 Nhưng từ kinh Duy Ma trở lên, triển khai nhất thừa. Nhận thức của ba bộ kinh : Duy Ma, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa cho rằng tuy tam thừa nhân nhưng là nhất thừa quả. Vì trình độ tu chứng khác, nên phân có ba, nhưng cứu cánh là một. Ba này là ba chặng đường tiến tu của chúng ta từ Thanh văn đến Bích chi Phật, Bồ tátcuối cùng đồng quy nhất thừa, ai cũng thành Phật.

Mở đầu phẩm, Duy Ma thầm nghĩ ông bệnh, lẽ nào Đức Thế Tôntâm từ lớn, lại không đến thăm. Phần mở đầu gợi cho chúng ta ý thức phải chăng những người xuất gia cắt đứt quan hệ gia đình, thân thuộc và không dính líu thế gian để hướng tâm đến giải thoát

Không ! Chủ trương không dính líu cuộc đời hoàn toàn xa lạ đối với giáo lý đạo Phật. Phật dạy người xuất gia “Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ” để đả phá tư tưởng không liên hệ với cuộc đời.

 Dưới kiến giải của Duy Ma, người xuất gia phải liên hệ với cuộc đời ở mặt nào và không liên hệ ở mặt nào ? Liên hệ y hệt như đời không phải là Sa môn Thích tử. Không quan tâm đến nhân sinh cũng không phải đệ tử Phật. 

Theo tôi, chúng ta chỉ để tâm đến sinh hoạt nào mà xã hội chấp nhận được, nhưng vẫn không trái đạo Vô thượng. Quá trình lưu tâm gắn bó của đạo Phật trên mảnh đất quê hương này hơn 2.000 năm là bằng chứng lịch sử hiển nhiên cho thấy đóng góp của giới tu hành cho sự sinh tồn của đất nước. Và tất nhiên quan niệm người tu tự cắt đứt liên hệ với đời như bong bóng bay trong hư không hoàn toàn sai lầm.

Khi Duy Ma khởi lên ý tưởng đó, Phật đã biết. Điều này gợi ý rằng dù hành giả tu thanh tịnh ở chỗ vắng, cách ly thế gian, nhưng mọi việc xảy ra không qua mắt ta được. Đóù mới thật là đệ tử Phật.

 Về phương diện học thuật, kinh này kiết tập sau Phật Niết bàn 100 năm đến 400 năm. Trong thời gian này, chắc chắn có một số tu sĩ hiểu lầm tư tưởng xuất thế của đạo Phật, nên mang tâm niệm không biết gì thế gian.

 Kinh Duy Ma đặt lại vấn đề nhận thức xuất thế một cách khéo hơn, diễn tả qua hình ảnh Phật không ở gần Duy Ma, nhưng chỉ một khởi niệm của Duy Ma, Ngài đã bắt gặp. Nói cách khác, tuy Phật là bậc xuất thế đã ra khỏi ba cõi, nhưng có việc gì trên cuộc đời mà Ngài không giải quyết tốt đẹp. Vì vậy, Ngài mới được tôn làm bậc Thầy của Trời người.

 Phật tiếp nhận ý của Duy Ma nhưng không trực tiếp thăm bệnh Duy Ma, mà gọi mười đại đệ tử đến thăm. Theo tôi, việc Đức Phật bảo mười đệ tử đến thăm Duy Ma có thật hay không, chúng ta gác qua một bên.

 Tôi nghĩ rằng kinh Duy Ma kiết tập sau Phật Niết bàn, hình thành ý thức trách nhiệm của Đại chúng bộ khác hẳn ý tưởng xuất ly của Thượng tọa bộ. Với kiến giải của Đại chúng bộ, Phật là người cứu khổ, Ngài không còn trên cuộc đời. Ngài không trực tiếp cứu, nhưng ủy thác việc này cho chư Tăng thay Phật đến với mọi người, được diễn tả bằng sự kiện Phật gọi mười đại đệ tử thăm bệnh Duy Ma

Đệ tử Phật thay Phật thăm bệnh Duy Ma mang ý nghĩa chúng ta gánh vác trọng trách giải quyết vấn đề đau khổ của trần thế. Muốn giải quyết, hành giả phải nương theo pháp bảo Như Laisử dụng thích hợp để cứu lành bệnh nhân gian

Vấn đề quan trọng ở điểm hành giả đừng sử dụng sai thuốc. Kinh Pháp Hoa thí dụ lương y đi xa, các con ở nhà uống lầm thuốc, sanh bệnh. Có người mất bản tâm, có người còn bản tâm, ngầm chỉ cho Phật là đại lương y chữa lành tất cả bệnh. Nhưng đệ tử không sử dụng được kho tàng Như Lai để lại, uống lầm thuốc, thành bệnh. 

Bệnh này là mối tranh chấp giữa Thượng tọa bộĐại chúng bộ. Theo tinh thần Duy Ma, đệ tử Phật hoặc là người đã trong sạch hoàn toàn hoặc là người còn lỗi lầm, nhưng biết sửa chữa

Đại chúng bộ mang tinh thần cầu tiến, chịu sửa đổi, tượng trưng cho những đứa con bệnh nhưng còn bản tâm, biết tìm nghĩa lý ẩn chứa bên trong giáo pháp để tu. Điều này đối lại với hình ảnh Thượng tọa bộ cứ mãi đóng khuôn, thần thánh hóa mình, có sai lầm mà không dám nhận, tiêu biểu cho những đứa con mất bản tâm, chỉ kế thừa giáo lý Phật theo hình thức, không chịu hiểu nghĩa sâu xa bên trong. 

Kinh Duy Ma đưa ra mười đệ tử sử dụng giáo lý Phật không đúng chỗ, nên không chữa lành bệnh Duy Ma, bị Duy Ma xem thường, quở trách. Điều này gợi cho hành giả ý thức trách nhiệm mà Phật ủy thác. Chúng ta phải đem giáo lý trang trải cho đời tươi đẹp, nhưng nếu không làm tươi mát được, mà để cuộc đời khinh dễ, chúng ta đã phạm tội phỉ báng Phật. 

Kinh Duy Ma mượn hình ảnh mười đệ tử phạm lỗi lầm để kiểm điểm lại giáo lý Tiểu thừa và việc tu hành của chúng Tăng, làm thềm thang phát triển. 

Theo chân tinh thần Duy Ma, hành giả học, suy nghĩ, ứng dụng giáo lý Phật suốt đời; đến khi thấu triệt nguồn tâm mới xong việc. Chưa thành Phật, hành giả còn sai sót đối với giáo lý Phật, còn nhiều vấn đề đặt ra cho chúng ta liên tục từ đời này sang kiếp khác vậy.

Phật ủy thác mười Thanh văn đến thăm bệnh Duy Ma hay đó là sáu vấn đề quan trọng đặt ra cho chúng ta, khi tu hành phải ứng dụng triển khai cách nào cho lợi lạc bản thân và sáng đẹp cuộc đời :

 Vấn đề 1 : Tu Thiền

 Vấn đề 2 : Thuyết pháp

 Vấn đề 3 : Khất thực

 Vấn đề 4 : Giữ giới

 Vấn đề 5 : Xuất gia

 Vấn đề 6 : Hiểu thế nào về Đức Phật.

Phẩm Thanh văn của kinh Duy Ma không tấn công Tỳ kheo, chỉ muốn chỉnh lý nhận thức sai lầm của họ. Phẩm này đơn cử mười đại đệ tử tiêu biểu cho toàn thể chúng Thanh văn gồm 500 A la hán hay 1.250 vị thường tùy với Phật.

 Kinh Duy Ma đưa ra lỗi lầm của mười đệ tử kiểu mẫu trên bước đường tu làm tấm gương cho ta soi bóng. Các Ngài là những người lãnh đạo xuất chúng, nhưng vẫn còn sai lầm, huống chi chúng ta. Tuy nhiên, hàng A la hán nhờ gặp khó khăn, vấp phải lỗi lầm, vượt qua được những thử thách mới trưởng thành trên bước đường tu hành

Trong phần chuyển mạch từ Tiểu thừa sang Đại thừa, Phật dùng phương tiện giáo hóa bằng cách tạo điều kiện thử thách. Ngài sắp xếp cho các đệ tử chạm trán với đời, để họ tự rèn luyện, điều chỉnh bản tâm. Và sau này, gặp cạm bẫy thật, họ sẽ biết cách đối phó, không bị sa lầy. 

Tất cả đệ tử Phật từ khi bắt đầu tiếp xúc cuộc đời, vào đời độ sanh, gặp ngay một đối kháng tiêu biểuDuy Ma. Duy Ma hiện hữu như một đối tượng đầu tiên đập vào mắt, ghim vào tim của A la hán. Nhờ đó, các Ngài thăng hoa trên bước đường hành đạo.

Trước tiên, vị đệ tử đứng đầu cho đăng tràng mổ xẻ là Xá Lợi Phất, nghĩa là lựa người giỏi nhất đem phê phán. Xá Lợi Phất là người đã tỏ ngộ Thiền đăng, tâm sáng, trở thành trí tuệ bậc nhất trong hàng La hán

Trong kinh Pháp Hoa, Phật cho biết trước kia Xá Lợi Phất đã tu đạo Bồ tát, mà nay hiện thân trong chúng Thanh văn. Xá Lợi Phất nhờ có quá trình tu 60 tiểu kiếp, hiện đời Ngài có bẩm tính thông minh gọi là yếu tố bồ đề

Xá Lợi Phất đắc đạo chứng quả La hán là ngộ quá trình 60 tiểu kiếp tu hành của Ngài. Cốt lõi Ngài là La hán, không phải cốt lõi là Phật, nên ngộ lại bản lai diện mục của Ngài là La hán. Trong khi đó, Thích Ca thành Phật từ ngũ bách ức trần, cốt lõi là Phật, nên sanh lại nhân gian bị ngũ ấm bao che, nhưng tọa Thiền biết được Ngài là Phật. 

Trên bước đường tu, cốt lõi của hành giả như thế nào, thì ngộ đến đó. Và bắt đầu từ vị trí này, hành giả tiến tu, đắc đạo, không thể vay mượn của người khác tu được. 

Việc tu chủ yếu là ngộ đạo, nghĩa là chuyện tu không quan trọng nhưng quan trọng là ngộ. Ngộ được Thiền cơ thì thân là Phật, khẩu là Pháp, tâm là Thiền. Hành giả tu suốt đời không ngộ, coi như bỏ. Ví như cọ cây cốt yếu để lấy lửa, cọ cây không phải là chính.

Pháp môn tu Thiền khó nhất, nên mượn Xá Lợi Phất làm điển hình cho bậc thượng căn thượng trí còn vấp phải sai lầm. Kinh Duy Ma quở trách sai lầm của Xá Lợi Phất. Nhưng đối với chúng ta, còn vướng trăm ngàn sai trái khác, chưa đến gần sai lầm của Xá Lợi Phất đâu !

Duy Ma chỉ trích Xá Lợi Phất ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây như vậy có phải là Thiền không, Thiền như Xá Lợi Phất còn cách trí tuệ Phật xa lắm v.v... 

Qua câu chuyện chất vấn của Duy Ma với Xá Lợi Phất gợi cho hành giả nhận thức thế nào là tu Thiền.

Thiền không phát xuất từ đạo Phật. Nó có từ khi loài người biết suy tư. Nhưng chính Phật là người chỉnh lý vấn đề suy tư, để hình thành những nét độc đáo của Ngài.

 Thiền là tĩnh lự, nghĩa là sự hiểu biết nằm trong trạng thái yên tĩnh gọi là siêu thức, khác với hiểu biết qua ý thức của thế gian

Thiền định của Phật giáo kế thừa Thiền định của Kỳ Na giáo gọi là phái Yoga (Du Già). Nhưng phái này chỉ cốt rèn luyện cơ thể khỏe mạnh và tâm không buồn phiền đau khổ

Thiền của ngoại đạo mang lại cho người hành thuyền cơ thể khỏe mạnh và tâm hồn bình ổn, mà Đức Phật còn cho là thấp. Ngài dạy chúng ta nâng cấp, tiến đến Bồ tát Thiền hay Như Lai Thiền giải quyết lợi lạc cho đời, mới thực sự là pháp Thiền của Phật.

 Trái lại, ngày nay chúng ta tu Thiền, đem so với Thiền ngoại đạo còn thua xa. Vì chúng ta hành Thiền để trở thành bệnh, thành khổ, thành loạn trí. Chính do tu Thiền sai pháp của những đệ tử Phật đã làm đạo Phật bị mất dạng trên đất Ấn Độ để cho phái Yoga phát triển mạnh đến ngày nay. Sự thật lịch sử đã chứng minh điều này. 

Thiền của Phật giúp chúng tatâm hồn yên tĩnh, sáng suốt để giải quyết mọi việc đúng đắn tốt đẹp nhất. Vì thế, Duy Ma đề cao tâm chứng Thiền phát xuất từ sinh hoạt nội tâmbác bỏ Thiền hình thức.

 Trên tinh thần thừa kế sự nghiệp của Phật, Trí Giả đại sư triển khai thành hai mươi lăm phương tiện hay hai mươi lăm điều kiện cần phải có của người muốn bước vào thế giới Thiền. Chưa hội đủ điều kiện thiết yếu này, hành Thiền nhất định không đắc đạo. Ví như người muốn làm bánh phải chuẩn bị bột đường. Với hai mươi lăm phương tiện, Ngài Thiên Thai dạy phương pháp chuẩn bị trước khi vào Thiền, giúp hành giả tránh được tất cả bệnh và không bị nhiễm độc tinh thần, trở thành người sáng suốt trên cuộc đời

Từ đó, lần triển khai thành Thiền của Huệ Năng, gánh nước bửa củi cũng là Thiền. Nói cách khác, đó là những phương tiện đạt đến bản tâm thanh tịnh.

 Hình ảnh Huệ Năng gánh nước trước khi làm Tổ gợi chúng ta nhớ đến thí dụ cao nguyên đào giếng trong kinh Pháp Hoa. Tri kiến Như Lai của chúng ta bị thân ngũ uẩn bao bọc. Chỉ còn dùng cách “đào giếng”, chịu cực đào sâu xuống lòng đất để lấy nước hay đào sâu tận cùng tâm mình mà ngộ được Thiền cơ, bắt gặp bản tâm thanh tịnh. Dùng tâm thanh tịnh này trang trải cho đại chúng. Càng giúp người, tâm hành giả càng sáng, giống như càng lấy nước, nước càng trong, không bao giờ cạn. Tâm Huệ Năng cứ trong lần, đạo cứ hiện raphương tiện thứ nhất Ngài tu hành.

Ngoài công việc gánh nước, Huệ Năng còn bửa củi. Điều này khiến chúng ta hình dung vấn đề chẻ ngũ uẩn thân thành từng mảnh vụn để tìm tinh ba bên trong. Chẻ hết cây này đến cây kia, có khác gì trong kiếp luân hồi, hành giả chẻ hoài tìm mãi. Tìm cái đẹp trong thân mình, trong chúng sanh, tìm hoa trong lòng, tìm Phật trong tâm. Đến khi bừng ngộ, hoa lòng vụt nở. Công tác chẻ củi phục vụ đại chúng của Huệ Năng trở thành pháp tu Thiền.

 Chẳng những bửa củi gánh nước, Ngài còn giã gạo. Vỏ tróc, gạo hiện, tiêu biểu cho pháp tu mài dũa tánh lâu ngày trở thành trong sáng, được ngưỡng mộ là bậc đức hạnh trên cuộc đời.

 Sau một thời gian Huệ Năng gánh nước bửa củi giã gạo, nghĩa là Ngài trải qua quá trình tu 37 phẩm trợ đạo, nghiệp trần đã hết, tâm trắng sạch như hạt gạo trong cối. Lúc ấy, Tổ Huỳnh Mai mới đến với Ngài. Ý này nhắc nhở rằng trên bước đường tu, Phật chỉ đến khi tâm chúng ta hoàn toàn lắng trong. 

Tổ hỏi Huệ Năng gạo trắng chưa. Ngài trả lời trắng rồi, nhưng chưa sàng. Điều này mang ý nghĩa khi tu, hành giả cần gặp những nghịch duyên để sàng lọc lần cuối. Chúng ta thường nói là “bị Tổ trác” . Nhiều lúc tưởng mình tu lâu, lòng đã thanh tịnh. Nhưng có những quả đấm bất ngờ làm cho lòng sân hận tham muốn ùn ùn nổi lên. Phải có thử thách mới biết, hay “Vô ma khảo bất thành đại đạo”. Và thử thách thanh lọc cuối cùngHuệ Năng vượt qua, thể hiện bằng bài kệ ngộ đạo được Tổ ấn chứng.

Trải qua quá trình hoàn tất tu học của tam thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, đã thành tựu pháp tu 37 phẩm trợ đạo, 12 nhân duyên, 6 pháp ba la mật, hành giả mới đạt đến vô tác diệu lực của Như Lai, đó chính là đỉnh cao nhất của Thiền. Thiền Như Lai thể hiện dưới mọi dạng sinh hoạt làm lợi ích cho đời, tâm vẫn an nhiên tự tại, không hề giao động.

Ngày nay, Thiền phát triển cao độ trong nhân gian gọi là thế gian Thiền định. Ở Nhật Bản, các chánh khách, võ sĩ hay nói chung giới trí thức mỗi khi gặp việc khó khăn thường áp dụng Thiền để suy tư, cân nhắc, quán chiếu vào vấn đề. Nhờ tập trung tư tưởng, trí bừng sáng thấy rõ giải pháp tốt đẹp. Nếu mục tiêu của Thiền nhằm lợi ích cho nhân quần xã hội, thì đó là chánh định. Ngược lại, tập trung tư tưởng để tìm cách chinh phục hại người là thuộc tà định.

Từ việc tập trung tư tưởng đi vào thế giới diệt tận định. Vì thế gian buồn phiền khổ lụy, phải xa lánh thực tế và rời bỏ cả trong tâm tưởng. Tất cả việc trên cuộc đời không còn dính líu gì đến thân tâm là Thiền của ngoại đạo.

 Tìm gốc cây ngồi Thiền như những tu sĩ ngoại đạo yếm thế ngồi để quên đời. Duy Ma bảo như vậy đã rớt vào sai lầm lớn. Có khác nào người chết giả quên hết, để rồi trở thành người không biết gì. Giáo chủ Kỳ Na giáo ngồi Thiền vào định, 500 cỗ xe chạy ngang, không hay biết. Thiền Đông Độ gọi đây là ám chứng Thiền sư, đạt đến trạng thái thanh tịnh hoàn toàn không lợi ích gì.

 Duy Ma nhắc nhở Xá Lợi Phất không nên dẫm chân vào con đường Thiền của ngoại đạo, tiêu hủy hiểu biết để thành khôi thân đoạn trí, mà lầm tưởng là đắc đạo giải thoát

 Phật dạy Thanh văn từ bỏ Thiền ngoại đạo để sống với tam pháp ấn, trạng thái tâm yên lặng, hoàn toàn hướng về Phật đạo. An trú ba pháp : Không, vô tác, vô nguyện, những lời Phật dạy còn man mác trong lòng suởi ấm tâm hồn họ. Vì thế, tuy Sa môn không dính líu thế gian, nhưng khác ngoại đạo. Họ bỏ vui thế gian được vui của Niết bàn. Đó là nguồn sống của hàng nhị thừa, tạo thành thế giới quan an lành tách biệt thế giới đau khổ trên cuộc đời.

Hàng Thanh văn nghe pháp Phật xong, tập trung tư tưởng vào giáo lý Phật, để giáo lý bừng sáng trong lòng và phát triển khả năng hiểu biết của mình. Không phải ngồi yên rồi trở thành cây khô hay than nguội củi mục. Thanh văn Thiền hay Thiền thoại đầu đưa ra đề mục theo mẫu suy cứu có sẵn, lần hồi bước theo toàn bộ mẫu của Phật trở thành A la hán.

Thiền của Thanh văn bỏ động đi tìm tịnh. Xá Lợi Phất phải vào rừng nương cảnh trí yên tịnh khả dĩ tĩnh tâm, vì thành phố Tỳ Da Ly quá ồn ào.

 Duy Ma chỉ trích Xá Lợi Phất hành Thiền như thế còn cách Phật xa lắm. Xá Lợi Phất cũng chợt bừng tỉnh, cảm thấy hiểu biết của Ngài và trí tuệ của Phật cách nhau vạn dặm. 

Duy Ma gợi cho Xá Lợi Phất nhận thức về tịnh và động. Ngài nhắc Xá Lợi Phất Thiền không phải tránh chỗ ồn ào tìm nơi thanh tịnh. Thanh tịnh hay không chính cốt lõi ở tâm. Cảnh dù có yên tĩnh đến đâu, nhưng khi tâm động, khó mà định được. Giống như Xá Lợi Phất vừa trải tọa cụ ngồi Thiền ở nơi thanh vắng liền bị Duy Ma xuất hiện quấy phá. Xá Lợi Phất không thể vào định nổi. 

Vì vậy, trước khi vào Thiền, chúng ta phải xóa những tiếp xúc bên ngoài trước, không cho bất cứ đối tượng nào chạm với năm giác quan của ta, để ý thức hoàn toàn yên tĩnh. Và khi điều chỉnh thân xong, ta vượt qua tầng ý thứcvô thức.

 Duy Ma nhắc Xá Lợi Phất, vì tâm Xá Lợi Phất khởi ý niệm cư sĩ, Tỳ kheo, Như Lai, phân biệt cảnh ồn ào vắng lặng, nên những thứ này hiện lên. Nếu tâm Xá Lợi Phất không phân biệt nhân ngã, không khởi nhị nguyên, tâm Ngài tức thời yên tĩnh, pháp trần không tác động được.

 Duy Ma cảnh giác Xá Lợi Phất không nên đi theo lối mòn bỏ động tìm tịnh của hàng sơ tâm học đạo, sẽ uổng phí cho người trí tuệ như Xá Lợi Phất. Sai lầm của Xá Lợi Phấtsai lầm trong Thiền định, giữ Ngài ở vị trí A la hán, không thành Phật. Ngài chỉ phát huệ một chiều nghĩa là huệ giới hạn, khác với Phật huệ vô cùng, có khả năng điều động toàn bộ pháp giới.

 Trước khi theo Phật, Xá Lợi Phất lý luận hay nhất, nhưng tranh luận cho người nghe sướng tai còn lòng mình tan nát. Về điểm này, học kinh nghiệm sống và hành đạo của Xá Lợi Phất, tôi giảng pháp liên tục, vẫn giữ tâm bình ổn, không để cho sanh khởi buồn phiền chán nản. 

Xá Lợi Phất chọn con đường giải thoát, chấm dứt tranh chấp với đời, nhưng bị rớt qua cục bộ. Ngày tháng ung dung trong tịnh xá, không dính líu cuộc đời, khất thực xong tìm chỗ ngồi Thiền. Lâu ngày như vậy, không còn biết gì đến sinh hoạt thế gian, Xá Lợi Phất đã từ thái cực tranh chấp với đời, rớt qua thái cực cách ly cuộc đời

Bất chợt một hôm, Ngài gặp Duy Ma. Điều này tiêu biểu cho sự giáp mặt với đời, vì thực tế cuộc sống chúng ta phải luôn đối diện, không trốn tránh được. 

Tâm yên tĩnh nương theo khung cảnh thanh tịnh, nếu có được cũng giới hạn và tạm thời, tồn tại của hành giả trong lòng xã hội không thể cắt bỏ, Kinh Pháp Hoa ví như đuôi con trâu dính liền với nó. 

Chạm trán với thực tế, giải quyết ổn thỏa mới có Niết bàn thực sự. Ngược lại, nhờ nương đạo lực của Phật, sống yên ổn chỉ là Niết bàn tạm, là hóa thành

Yên tĩnh tạm bợ của Xá Lợi Phất cũng đáng ngại, không khéo lạc vào ngoại đạo Thiền, đưa đến diệt tận định, không nghe, không biết, không thấy cuộc đời, ai làm gì mặc ai. Ta yên tâm vì không quan tâm, không phải nó không hiện hữu, trái nó tồn tại tràn đầy tệ xấu. Ta như người đui điếc trong lúc xã hội không yên thì ta đồng với gỗ đá, khác nào người bị tiêm mũi thuốc mê cũng thành bất giác. Tôi rất cảm thông với tâm trạng Xá Lợi Phất khi rời bỏ trạng thái tu đóng khung con người mình và đóng khung cả tư tưởng.

Phật dạy tĩnh tâm để chúng ta không bị trần cảnh chi phối, không khởi tâm động niệm, buồn phiền giống như ngoại đạo nhập diệt tận định. Tuy nhiên, khác ngoại đạo ở điểm dù lòng không vướng bận chuyện thế gian, đệ tử Phật vẫn thể hiện được oai nghi đầy đủ. Người đời nhìn thấy oai nghi nào của hành giả cũng phát tâm, làm biểu tượng tốt cho đời, làm mô phạm cho người noi theo. Bước đúng lộ trình này mới thực là người tu chánh định.

 Trong hàng đệ tử Phật, chúng ta còn nhớ Mã Thắng đã thể hiện mẫu người an trụ chánh định. Theo lời Phật dạy, Ngài đến độ Xá Lợi Phất, chỉ bằng sự im lặng Ngài tác động cho Xá Lợi Phất chứng sơ quả Tu đà hoàn. Thiền Tứ Niệm Xứ của Mã Thắng dạy Xá Lợi Phất là như vậy đó, một người trầm mặc không lý luận làm cho một người chứng đạo. Từng phiền não của nhà hùng biện Xá Lợi Phất rơi rụng lần theo từng bước đi lặng lẽ của Mã Thắng. Chỉ trên một đoạn đường, Xá Lợi Phất chứng sơ Thiền. Trong khi chúng ta ngày nay phần nhiều áp dụng Thiền hình thức. Ngồi Thiền suốt đời không được gì. 

Đến khi Xá Lợi Phất vừa gặp Phật, Ngài liền chứng lậu tận La hán. Những khổ tâmhiểu biết phải trái hơn thua đeo nặng tâm hồn Ngài bỗng dưng được quét sạch. Lực tác động vô hình của Phật được kinh Pháp Hoa diễn tả rằng số người trí tuệ bằng Xá Lợi Phất có nhiều như lúa mè cũng không thể hiểu được. 

Ơn lớn như trời biển của Thế TônXá Lợi Phất cúi đầu xưng tán rằng dù trải vô số kiếp cũng không đền đáp được. Phải chăng đó là ơn của Phật tác động cho Ngài trong một khoảnh khắc chớp mắt, từ nhà hùng biện đau khổ cùng cực trở thành người hoàn toàn giải thoát

Sau đó với tâm hồn an lạc thanh thản, Xá Lợi Phất đến rủ Mục Kiền Liên, đưa Ngài về với Phật. Cả nhóm học trò Mục Kiền Liên gồm hai trăm người cùng đến Lộc Uyển theo Phật lần lượt đắc sơ quả

Từ sự thật lịch sử này, chúng ta suy ra tìm thấy liên hệ bên trong giữa Phật và Thánh chúng mới thể hiện được ý nghĩa tôn giáo và đó mới là cứu cánh chúng ta cần đạt đến. Phật độ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp... Nói chung, Ngài độ những ai có nhân duyên. Nhưng Phật dùng gì để độ và các đệ tử dùng pháp gì để tu, chứng được pháp gì ? Những câu hỏi này chỉ có Phật giải đáp được.

Sau Niết bàn Tiểu thừa hay pháp tu Thiền của Thanh văn, Duy Ma dạy pháp tu Thiền của Bồ tát, bắt đầu chỉnh đốn trở lại nhận thức. Tri thức qua màng lọc Phật pháp nhìn lại cuộc đời mang kiến giải hoàn toàn khác biệt.

Khi chưa tu thấy núi là núi, sông là sông. Đó là cái thấy của tham dục, của khổ. Từ lòng thế gian đau khổ, hành giả rời bỏ cuộc đời, bước chân vào Phật đạo an trụ ba pháp : Không, vô tác, vô nguyện, hành giả cảm thấy an lành. Tuy đời đen tối, hành giả vẫn vui và an tĩnh, nên núi không còn là núi, sông không còn là sông. Xã hội không còn là đối tượng quan sát và khổ đau của cuộc đời không chi phối hành giả như trước khi vào đạo. 

Nắm được bản đồ rồi, hành giả như pháp tu hành, tầm nhìn lại đổi khác, thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Hành giả không sống trong ba pháp Không, vô tác, vô nguyện của Thanh văn nữa. Trái lại, dõi mắt vào lòng chúng sanh đau khổ, hành giả phát khởi tâm bồ đề, cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Bồ tát hành Thiền, tập trung tư tưởng để rọi qua cuộc đời bằng lăng kính Phật pháp, thấy sự thật của cuộc đờigiải quyết tất cả khó khăn cho chúng sanh. Tâm hành giả không rời Phật pháp, mà hành động trải khắp thế gian, lợi ích chúng hữu tình.

Tiêu biểu cho mẫu Bồ tát thực hành Thiền định đúng pháp là Ngài Duy Ma. Duy Ma dấn thân khắp nẻo đường đời, nhưng không ai phủ nhận được hiểu biết vượt bực của Ngài và việc làm của Duy Ma tương đồng với Phật. Duy Ma tuy thực hiện đầy đủ trách nhiệmthế gian, tâm vẫn trụ chánh định.

 Bước theo lộ trình Thiền của Bồ tát, tâm Duy Ma hoàn toàn giải thoát, nhưng thể hiện được tất cả sinh hoạt thế gian. Tâm Duy Ma gắn liền với tâm Phật, hành động của Duy Ma là hành động của Phật. Vì vậytiếp xúc, dạy dỗ mọi hạng người trong xã hội, làm tất cả việc thế gian, những việc đó đều là Phật sự

Không lúc nào tâm Duy Ma không thanh tịnh và rời giải thoát. Ngài không tu Thiền để chết lần về thế giới u tịch. Ngài vẫn tràn đầy sức sống trên thế gian, biến sanh tử thành Niết bàn. An trú trong Thiền định, vẫn hiện hữu trên cuộc đời, Duy Ma bước trên bát chánh đạo dưới dạng đại bi tâm, sửa đổi những sai lầm của Thanh văn, dìu dắt họ từ tâm niệm Tiểu thừa sang phát tâm Đại thừa.

Bồ tát làm mọi việc trên cuộc đời, nhưng tâm không rời Phật pháp. Ngài Duy Nhiên Thiền sư diễn tả ý này trong bài Sám Quy Mạng “Bất xả pháp giới biến nhập trần lao”. Hoặc trong kinh Pháp Hoa có nói “Nhất thiết thế gian tư sanh sự nghiệp", cũng không ngoài ý thành tựu mọi việc làm trên nhân gian, tâm không rời Phật pháp, là thể hiện từ bitrí tuệ của Phật.

Bồ tát Thiền được Trí Giả đại sư triển khai thành sáu hạnh : đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, thuyết pháp, đều không rời chánh định.

Một vị Thiền sư có nói “ “Hành, trụ, tọa, ngọa diệc tham Thiền” mới thực là Thiền của đệ tử Phật, không cần phải ngồi yên

Thật vậy, Duy Ma chỉnh Xá Lợi Phất không cần ngồi yên. Khởi đầu tu, bỏ tâm phân biệt để đạt hiểu biết siêu ý thức. Đó là sự hiểu biết bao la, diệu vợi thuộc phần tu chứng nằm ngoài sự lạm bàn của ngôn ngữ phàm phu.

 Thiền ngoại đạodiệt tận định không phát sanh trí tuệ. Bồ tát cũng trở lại trạng thái diệt tận định, nhưng rọi qua lăng kính Phật pháp tạo thành tác dụng khác. Từ đó, thể hiện đầy đủ bà ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, nghĩa là nhìn ở khía cạnh nào, Phật cũng toàn vẹn. Không thể nói Phật không ở trong Thiền định. Trước kia, Ngài trụ Thiền định, ôm ấp quả vị tu chứng. Nhưng Ngài nhìn thấy chúng sanh khổ đau trầm luân sanh tử, mới phát tâm đại bi cứu tất cả, mà vẫn không rời Thiền định. Ngài hiện hữu trên cuộc đời như mẫu người siêu việt.

 Vì vậy, Thiền của Phật không phải là trạng thái mất sinh lực. Trái lại, Thiền tạo nên một sinh lực toàn diện tiến đến đỉnh cao chi phối, điều động cả vũ trụ. Như Lai Thiền hay tối thượng thừa Thiền không ngồi, không đi, nhưng ở đâu Phật cũng hiện hữu. Ở trong hàng Thanh văn, Bồ tát, chư Thiên, hoặc ngay trong địa ngục, vẫn có Phật. Thiền Bồ tát dấn thân vào đời không bị ô nhiễm, khác Thiền nhị thừa. Không trụ Niết bàn, Bồ tát an nhiên hiện hữu khắp mọi nơi giáo hóa chúng sanh, tâm chơn như vẫn thường hằng bất biến.

Duy Ma gợi sáng cho Xá Lợi Phất về cách Thiền định đúng pháp. Tu Thiền để bỏ trí tuệ thế gian, có trí tuệ xuất thế gian và bỏ nếp sống nhỏ hẹp thay bằng tình thương bao phủ muôn loài, để có được tầm nhìn bao la, phóng khoáng. Gần thì thấy được nguyên tắc chi phối sự sống loài ngườixa hơn, biết tất cả sinh hoạt của loài vô tình. 

Tùy trình độ tu chứng, tầm quan sát sự vật của chúng ta thay đổi qua năm trí : trí phàm phu, trí Thanh văn, trí Bích Chi Phật, trí Bồ tátnhất thiết chủng trí, đạt đến cái thấy toàn vẹn, không sai lầm.

Khi chạm trán với Xá Lợi Phất, chiến thắng của Duy Ma là chiến thắng không có người bại. Vì Xá Lợi Phất xem Duy Ma như một ân nhân trên bước đường tu. Nhờ Duy Ma chỉnh lý, tâm trí Xá Lợi Phất bừng sáng, thấy được lầm lỗi của mình. Xá Lợi Phất quá phục Duy Ma, không dám đến thăm Ngài.

Xá Lợi Phất tiêu biểu cho suy tư hay trí. Mục Kiền Liên tiêu biểu cho hạnh hay hành động. Suy tư và hành động cần hợp nhất, hành động có suy nghĩsuy nghĩ để hành động.

Suy nghĩ của Xá Lợi Phất cục bộ thì hành động của Mục Kiền Liên cũng thành sai lầm. Từ trạng thái tiêu cực bước sang nhập thế, Mục Kiền Liên nhiệt tình giáo hóa chúng sanh, nhưng thất bại nặng nề khi độ bà bán bánh bèo. Ngài dũng cảm dấn thân vào đời và gặp thật nhiều khó khăn. Về sau, Ngài bị nhóm lõa thể đánh chết. 

Theo tinh thần Đại thừa, hành động thọ quả báo của Mục Kiền Liên là sự thị hiện để cảnh giác người nhiều nhiệt tình, nhưng thiếu trí tuệ. Và Duy Ma hiện làm người chỉ lối đưa đường, nhắc nhở chúng ta giáo hóa bằng lòng nhiệt tình, cần phải thận trọng. Nhìn qua bề ngoài thấy tốt, tinh tấn như vậy đúng, nhưng việc làm của chúng ta có tốt thật hay không, thì phải xét lại. Chẳng hạn như chúng ta tấn công ngoại đạo, kêu gọi người về với Phật đạo một cách hăng say, đôi khi lại phản tác dụng hơn là có lợi.

Mục Kiền Liên cảm thấy không có khả năng đến thăm Duy Ma, vì trước vào thành Tỳ Da Ly gặp các con của trưởng giả đến rất đông. Mục Kiền Liên trình bày kiến giải Ngài chứng ngộ trong Thiền định cho họ nghe. Họ đều bỏ đi và Duy Ma xuất hiện đúng lúc như người bạn tâm đắc của Mục Kiền Liên.

Sự thật không phải Mục Kiền Liên từ chối thăm Duy Ma. Ý này của Đại chúng bộ ngầm ám chỉ sau Phật Niết bàn, chư Tăng hay Thượng tọa bộ mang ý tưởng tiêu cực. Họ có tinh thần thoát ly mạnh, muốn tách rời thế gian, không chịu dấn thân vào đời, vì nhận thức kém hơn thế gian

Chỉ trích này của Đại chúng bộ cũng dễ hiểu. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử triết học Ấn Độ, nhận thấy rõ sau Phật Niết bàn, đạo Bà La Môn phục hưng và thành Ấn Độ giáo ngày nay. Lúc ấy, hàng Sa môn Phật giáo không kham lãnh việc giáo hóa. Vì khi xã hội chưa văn minh tiến bộ, tu sĩ Phật giáo khá hơn người, dạy họ dễ dàng. Ngược lại, xã hội phát triển mà tu sĩ Phật giáo lạc hậu hơn, dở hơn. Thử nghĩ bấy giờ, đến với người đời để làm thầy họ, là cả vấn đề không đơn giản.

Duy Ma khen Mục Kiền Liên nhận thức bằng tâm chứng rất hay, nhưng nhắc nhở rằng pháp của ông chứng được của A la hán. Phải đứng trên lập trường bát chánh đạo mới thấy đúng, thì làm thế nào phàm phu tục tử nhận được. 

Điều này gợi cho chúng ta nhận thức rằng sử dụng pháp không đúng đối tượng, sẽ thành phi pháp hay hủy báng pháp.

 Ngài khuyên Mục Kiền Liên không nên áp dụng khuôn cố định. Phải nhìn thẳng vào tâm đại chúng, dùng pháp phương tiện tương ưng với trình độ của người, họ mới chấp nhận được. 

Duy Ma dặn Mục Kiền Liên đừng lấy sở đắc của mình mà áp đặt cho người. Pháp dù hay đến đâu nhưng người không thích, không biết, cũng thành không hay. 

Duy Ma xác định cho chúng ta vấn đề thuyết pháp phải chú trọng đến đối tượng, khả năng, trình độ của người nghe. Chẳng những thích ứng với trình độ, còn phải nhắm vào yêu cầu của đại chúng, đáp ứng sự mong muốn của họ, giúp họ phát triển tâm bồ đề.

 Nhận thấy họ thuộc giới kinh doanh, Duy Ma dạy pháp tạo ra nhiều của cải và dùng tài sản này làm lợi ích chúng sanh. Khi nghe Duy Ma giảng như vậy, họ liền phát tâm Đại thừa, cố gắng làm việc để nâng cao đời sống hạnh phúc của người.

 Duy Ma gợi cho họ hình ảnh của Phật hiện hữu trên cuộc đời, chỉ nhằm làm vơi bớt khổ đau của chúng sanh và tăng thêm an lạc hạnh phúc cho mọi người.

Duy Ma nhắc nhở Mục Kiền Liên khi thuyết pháp đừng đem suy nghĩ của mình áp đặt cho người. Dùng suy nghĩ về pháp tối thượng rọi vào chúng sanh, để biết căn tánh của họ và tùy theo đó dạy pháp tương ưng, mới thực là thuyết pháp giáo hóa người. 

Ngoài ra, có lúc thuyết pháp được, có lúc yên lặng cũng là chánh pháp. Vì nói pháp để bị chống báng cho đến bị giết hại, chẳng ích lợi gì.

 Phật giáo hóa Kiều Trần Như, Mục Kiền Liên, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp v.v... trong tư thế hoàn toàn đối nghịch với Ngài. Họ vẫn phải quy phục, vì giữa họ và Phật có những điểm tương đồng, khiến họ tự theo Phật. Ngài không áp đảo, không dồn họ vào bước đường cùng, để họ sanh liều mạng, chống lại hay giết Ngài. 

Phật cũng thường nhắc rằng Ngài chỉ độ được người có nhân duyên, nghĩa là có đủ ba điều kiện : đúng thời, đúng chỗ, đúng đối tượng.

Theo Duy Ma, muốn thuyết phápthế giới sanh diệt, không có cách nào khác hơn là dùng phương tiện. Pháp phương tiện phải nương pháp chân thật, vì phương tiện rời chân thật lạc vào đường tà, trở thành người xảo trá. Không rời pháp chân thật, không rời Thiền định, giáo hóa tùy theo yêu cầu của người. Vì lòng đại bi, Duy Ma nương pháp phương tiện triển khai tri thức cho người, giúp họ nâng cao đời sốnghạnh phúc.

Ca Chiên DiênPhú Lâu Na đều thuyết pháp, nên tương ưng với Mục Kiền Liên trong vấn đề giáo hóa.

Ca Chiên Diên là nghị luận đệ nhất A la hán. Trước kia Ngài theo Phật giảng pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Trải qua nhiều ngày suy nghĩ chín chắn, lập thành hệ thống lý luận vững vàng và đến khu rừng thành Tỳ Da Ly gặp các thanh niên, con của trưởng giả. Ngài đem nguyên văn này trình bày, liền bị họ bác bỏ.

 Duy Ma xuất hiện để gỡ rối cho Ca Chiên Diên, không phải đến để hạ ông. Ca Chiên Diên là nghị luận đệ nhất A la hán cũng phạm lỗi lầm, giảng giải theo hình thức, có bài bản đàng hoàng. 

Theo tôi, Ca Chiên Diên không phạm lỗi như vậy. Điều này muốn diễn tả sau Phật diệt độ, các Tỳ kheo lớn tuổi theo chủ nghĩa hình thức, giáo điều, thường buộc mọi người rập y khuôn mẫu có sẵn. Lối thuyết pháp này, hay nói rộng hơn, lối tu theo mẫu cố định chẳng những không có tác dụng, đôi khi còn phản tác dụng. Vì lịch sử không bao giờ tái diễn như cũ.

 Thật vậy, chúng ta học đạo, nghe nhiều. Tuy nhiên, phải biết kết hợp với nhận thức của riêng mình để phát huy trí tuệ rồi tùy nghi ứng xử cho kết quả trong cuộc sống. Không thể theo mô hình cố định. 

Vấn đề thuyết pháp cũng vậy, phải linh hoạt, đừng theo khuôn mẫu soạn sẵn. Riêng tôi, đọc kinh thật nhiều, không biết mệt mỏi. Và những gì tôi đọc tồn đọng trong trí óc, khi gặp Tăng Ni Phật tử, những pháp này tự lưu xuất để đáp ứng đúng với yêu cầu thực tế của họ.

Duy Ma chỉnh Ca Chiên Diên tán dương Phật pháp không đúng chỗ, tán dương Niết bàn tịch tĩnh cho những người đầy nhiệt tình xây dựng xã hội thật là sai lầm. Tại sao Phật nói pháp vô thường, khổ, không, vô ngã? Vì đối trước những người bất lực chán đời, Ngài tuyên dương pháp này. Đối với những người đang hướng về tương lai, cả một bầu trời trong sáng trước mắt, mà ta nói pháp vô thường, tất nhiên họ sẽ chống ta.

Duy Ma gợi nhắc Ca Chiên Diên nên phân biệt căn tánh của đối tượng nghe pháp. Những người căn tánh Đại thừa, mang chí lớn muốn xây dựng phát triển xã hội, ta nên chấp cánh cho họ bay lên. Hay nói cách khác, đây là tư tưởng tiến bộ của Đại chúng bộ chống lại tư duy hình phạm cố định của Thượng tọa bộ.

Duy Ma chất vấn Ca Chiên Diên thế nào là vô thường, khổ, không, vô ngã. Theo Duy Ma, hiểu biết của Ca Chiên Diên là hiểu của con người đi tìm chân lý, không phải của con người chứng ngộ chân lý. Người tìm chân lý, tâm hướng về nơi khác. Trong khi hiểu chân lý, họ sống an nhiên với thực tại

 Duy Ma triển khai pháp vô thường, vô ngã để lớp người trẻ nghe, họ không thấy chán đời, không trốn đời. Ngài không nói vô thường để dẫn đến không có gì hết.

 Duy Ma cho biết tất cả pháp sanh diệt, mang tính chất vô thường, luôn thay đổi. Nhưng trong sanh diệt, Phật tìm được cái không sanh diệt. Không phải vô thường rồi mất luôn. Nói vô thường để tìm thấy cái thường còn. Tìm cái chân thường trong vô thường, tìm cái không biến đổi trong cái biến đổi, tìm Niết bàn trong sanh tử. Đó chính là pháp Phật. 

Tất cả nguyên tố tạo nên sự vật. Vật là pháp, nguyên tố là thể. Vật thay đổi, nhưng nguyên tố không thay đổi, tướng chân thật không thay đổi. Phải dùng tâm không thay đổi quan sát, nghĩa là Trí thân quán Pháp thân mới tìm được thường hằng bất biến. Vì Trí thânPháp thân đồng thể Tỳ Lô Giá Na.

Cái hiểu vô thường của Ca Chiên Diên chỉ đúng về mặt tiêu cực. Nếu vô thường hoàn toàn, ta không tu làm gì.

Duy Ma giảng vô ngã cho những người trẻ chấp nhận được. Thực tế chúng tacon người, mà nói không có con người, tức HỮU mà nói VÔ, không thể được.

 Tuy nhiên, dưới kiến giải của Duy Ma, cái CÓ bị cái KHÔNG đánh đổ. Vì cái CÓ này chỉ do nhân duyên giả hợp mà thành, không phải cố định.

 Duy Ma đánh đổ HỮU không phải để hiển thị VÔ, mà để triển khai thành Trung đạo, như Trung Quán luận có nói : “Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị KHÔNG”. Vấn đề quan trọng là Đức Thế Tôn thấy nhân duyên sanhnhân duyên diệt. Nhất là vận dụng được sanh diệt này để tạo thành vô sanh.

 Duy Ma chỉ cho họ thấy Phật từ quả vô sanh hướng về sanh diệt của thế gian quá tuyệt diệu. Vì thế, lớp người trẻ mới nhiệt tình hướng tương lai đó mà đi tới. Ngược lại, nói vô thường, khổ, không, vô ngã để ôm bình đi xin ăn, thật chán quá !

Sau khi Ca Chiên Diên từ chối thăm bệnh Duy Ma, Phú Lâu Na cũng không dám đến thăm. Phú Lâu Na kể lại trước kia Ngài thuyết pháp cho hàng tân học Tỳ kheo về các pháp căn bản, Duy Ma xuất hiện bảo ông đừng đem đồ ô uế đựng vào bát lưu ly, đừng lấy nước bốn biển đổ vào lỗ chân trâu. Nghĩa là đừng lấy pháp nhỏ dạy cho người có tâm hồn rộng lớn. 

Duy Ma có chỉnh Phú Lâu Na thật hay không, là việc ngoài tầm tay của chúng ta. Theo tôi, đây là ý niệm của những người trí thức trẻ tuổi đầy nhiệt tình của Đại chúng bộ phải chịu đựng sức đè nặng của lớp cha anh bảo thủ.

 Họ muốn bung lên để phát triển, không bằng lòng học và làm những cái không còn thích hợp, không chấp nhận được. Những tảng đá lớn cản bước tiến của người mang chí lớn hành đạo ngày nay cũng là vấn đề tồn đọng mà chúng ta thường gặp.

Duy Ma nhắc Phú Lâu Na đừng kẹt vào pháp, nghĩa là bám theo mô hình hay nguyên tắc cố định nào đó, rồi đem áp dụng y khuôn cho tất cả người mới vào đạo. Mỗi người có khả năng tri thức, đạo đức không giống nhau, nhưng làm việc y hệt nhau, tất nhiên không kết quả. 

Duy Ma chỉnh Phú Lâu Na là bậc pháp sư đệ nhất, thuyết pháp mà không quan sát được căn tánh hành nghiệp Tỳ kheo, vô tình phá hư hạnh của họ. Thật vậy, vào chùa chúng ta gặp việc dạy dỗ không thích hợp, làm thủ tiêu khả năng và ý thích hướng thiện, biến người giỏi nhiệt tình trở thành người ngông cuồng.

 Duy Ma nhắc muốn dạy người, phải quán thấy rõ căn cơ của họ. Đừng căn cứ vào hình thức mới tu, còn nhỏ. Vì trên dòng sinh mệnh tương tục của Bồ tát, trong kiếp luân hồi nhân quả, nay tái sanh lại, tuy mới tu còn nhỏ tuổi. Nhưng công đứcyếu tố bồ đề của họ đã được un đúc từ nhiều đời quá khứ. Không thể đặt họ ngang bằng với người lớn tuổi tu trước, nhưng thật chỉ mới tu trong đời này. Điển hình như Ngộ Đạt mới 13 tuổi đã làm Quốc sư.

 Duy Ma nhắc chúng ta phải nhìn thấy tài năngđức hạnh để khai thác, dạy dỗ, trong lúc tiếp Tăng, độ chúng.

Người đồng tu hay người đi trước hư hạnh, bị Duy Ma ví như đồ ô uế. Và tâm của người mới xuất gia vào đạo trong sạch ví như bát lưu ly. Thói hư tật xấu của người trước đập vào mắt, ăn sâu vào tim người mới vào đạo. Duy Ma xem đó như đồ ô uế để vào bát lưu ly. Điều này Duy Ma nhắc người xuất gia phải luôn luôn thể hiện đời sống kiểu mẫu phạm hạnh. Đó chính là thuyết pháp .

 Thuyết pháp không phải chỉ dùng lời nói, không cần nói nhiều, nhưng thể hiện bằng việc làm và thăng hoa trong cuộc sống. Người nhìn thấy, sẽ tự bước theo dấu chân ta.

 Quan sát căn cơ của người tu còn có nghĩa là đừng làm hư tâm những người mới phát tâm, đừng bóp chết những tâm hồn lớn. 

Từ chối giáo hóa người mới vào đạo khi ta cảm nhận được tâm hồn họ cao thượng, còn tâm ta nhơ bẩn rồi và an nhiên đưa họ đến cho người khác xây dựng. Như trường hợp Lý Khánh Vân nuôi Lý Công Uẩn, nhận thấy Lý Công Uẩn là người có chí lớn. Tri thứctâm hồn của ông không bằng Lý Công Uẩn. Ông đã giao Lý Công Uẩn cho Thiền sư Vạn Hạnh dạy dỗ. Hai tâm hồn cao thượng của Lý Công Uẩn và Thiền sư Vạn Hạnh gặp nhau, tạo thành sức sống Phật giáo giải thoát, cao quý, chỉ đạo cho cuộc sống ấm no hạnh phúc dưới thời Lý. 

Thật pháp hay bài pháp sống thể hiện trong hai tâm hồn Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn vẫn còn sáng ngời qua bao đổi thay của lịch sử. Pháp âm của các Ngài cất lên từ thời Lý vẫn tồn tại cao cả trong suy tư, trong hành động, trong lời nóitrở thành bất tử trong lòng người chúng ta.

Qua bài pháp sống lưu đậm nét cảm tình của nhân dân đối với việc làm của đệ tử Phật đem lại thịnh vượng cho đất nước dưới triều Lý, chúng ta rút ra được mô hình thuyết phápthời đại chúng ta. Đó là sự đóng góp đôi tay và khối óc của Phật giáo cho phúc lợi của dân tộc, cho phát triển đời sống nhân dân trên mọi lãnh vực .

Duy Ma nhắc chúng ta mục tiêu thuyết pháp giáo hóa nhằm khai tri kiến, giúp người trở thành hữu ích. Ngài cũng khuyên chúng ta nên nhận xét đúng về chúng mới xuất gia

Nhận thấy họ có tư chất Bồ tát, ta phải triển khai Bồ tát hạnh cho họ. Không được ép họ vào khuôn chán đời, để tuổi đời trôi qua vô ích. Họ nuôi chí cầu thành Phật quả, phải đem giáo pháp Đại thừa truyền dạy. Giống như Ca Nặc Ca khai tâm cho Ngộ Đạt, vì biết Ngộ Đạt đã tu 9 kiếp. Vì thế hiện đời mới 13 tuổi, đã quá thông minhtrở thành pháp sư.

Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, Ca Chiên Diên biện luận đệ nhất, Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất. Cả ba pháp sư này danh tiếng trong thời Phật tại thế cũng vấp phải sai lầm, bị Duy Ma phê phán.

Thật sự không phải ba vị đại đệ tử này phạm lỗi. Nếu quan sát chiều sâu bộ kinh, chúng ta sẽ thấy rõ khi kiết tập kinh Duy Ma, những nhà tâm huyết Đại thừa nhìn vào tranh chấp giữa Thượng tọa bộĐại chúng bộ, nhận ra được chân ý của Phật. Và họ nêu lên những vấn đề quan trọng cho chúng ta làm kinh nghiệm khi thuyết pháp

1) Phải nói điều mà người muốn nghe. 

2) Phải quan sát đối tượng có hiểu hay không hiểu và hiểu đúng, mới nói.

3) Phải ứng vào thời kỳ.

4) Phải ứng vào quốc độ.

Theo Đại thừa, ta chỉ sử dụng ý của Phật dạy để vận dụng vào cuộc sống thực tại. Ví dụ, Phật thuyết pháp nói đến quốc vương, vương tử, Bà La Môn, thứ dân, vì Ngài nhắm vô cấu tạo xã hội thời đó mà giảng.

 Ngày nay, không phân chia giai cấp như vậy. Xã hội xưa và nay vẫn là xã hội, nhưng danh xưng dùng khác nhau. Quốc vương nay là Chủ tịch hay Tổng thống. Đại thần là Bộ trưởng, thứ dân chỉ cho quần chúng

Tùy từng thời đại, nhà truyền giáo chuyển đổi ngôn ngữ cho phù hợp với xã hội đang sống, mà không trái với giáo lý cơ bản. Tùy theo quốc gia, tùy địa phương, thuyết pháp thích hợp, để xây dựng đất nước, nâng cao đời sống vật chất cho người. Và nhất là phát triển đời sống tâm linh, giúp người từ địa vị phàm phu tiến đến Phật quả. Đó là mục tiêu của Phật. Hành giả thừa kế Phật thuyết pháp lợi sanh, tất yếu phải bước theo lộ trình đó.

 Duy Ma cũng nhắc chúng ta phải nhắm vô thực tế. Nếu nói pháp quá xa vời, người nghe không tiếp nhận được, thì pháp cũng thành phi pháp : “Y kinh giải nghĩa Phật oan tam thế, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”.

Ta chỉ lấy ý kinh và sử dụng danh từ của thời đại, là không chấp kinh mà không bỏ kinh. Không bỏ kinh nghĩa là không bỏ ý kinh. Không chấp kinh là không chấp ngôn ngữ, văn tự .

Kế đến, Phật dạy Ca DiếpTu Bồ Đề đến thăm bệnh Duy Ma. Cả hai vị này đều không dám lãnh.

Ca Diếp là bậc đầu đà đệ nhấtTu Bồ Đề là vị giải pháp Không đệ nhất. Cả hai vị cùng có chung một hạnh khất thực. Ca Diếp chuyên khất thực xóm nghèo, không khất thực nhà giàu. Tu Bồ Đề ngược lại, chỉ đến nhà giàu khất thực, không đến xóm nghèo. 

Vấn đề khất thực được đặt ra để chúng ta thấy việc giàu nghèo và mục tiêu của khất thực. Ngày nay, chúng ta khó chịu với những người đội lốt nhà tu đi khất thực tràn lan. Thiết nghĩ đó cũng là tâm trạng của những tu sĩ nhiệt tình với đạo cách đây mấy ngàn năm ở thành Tỳ Da Ly. Họ cũng phải bực bội với thành phần Sa môn này.

 Kinh Duy Ma mượn hai nhân vật Ca DiếpTu Bồ Đề để chỉnh lại ý niệm sai lầm về khất thực thì thành đạo, không khất thực không phải tu. Đây lần vấn đề đặt ra cho người xưa và cho chúng ta

Chúng ta xét lại việc hành đạo của Phật để xem Ngài có cho khất thựccứu cánh hay không. Trước hết, thấy rõ Phật sử dụng nó như phương tiện để gần gũi Sa môn.

Đoàn thể Sa môn có trước khi Phật ra đời, là một truyền thống cao đẹp nhất, xuất xứ từ Bà La Môn giáo. Họ chủ trương nhỏ đi học, lớn lên làm việc, về già đi tu, trở thành Sa môn

Và có một tầng lớp Sa môn ở phía Đông sông Hằng lại khác. Thành phần Sa môn này phát sanh do chính thể cai trị thời ấy quá khắc nghiệt. Họ sanh trong giai cấp không thuộc dòng dõi Bà La Môn hay Sát đế lợi, nên không được quyền làm việc gì và cũng không được quyền lợi gì. Họ chống lại chế độ đẳng cấp bằng cách từ bỏ gia đình, trở thành những tu sĩ lang thang.

Như vậy, có hai thứ Sa môn, một là từ Bà La Môn biến thành Sa môn. Và hai là chán đời mà thành Sa môn. Nói chung, tạo thành giới ăn mày, đi khất thực

Đi khất thực như Phật không phải đi xin ăn. Ngài ở trong rừng, sống trong Thiền định, không cần ăn. Nhưng tại sao Phật đi vào đời ?

Phật vào đời sử dụng khất thực như một pháp tu, một phương tiện để tạo mối quan hệ với người đời. Lần lần, Ngài giáo hóa, dìu dắt họ tiến trên con đường thánh thiện. Vì vậy trước khi đi khất thực, Ngài quán sát nhân duyên xem nên đến độ ai và dùng pháp gì để độ.

Đối với người tu, món ăn tinh thần quan trọng hơn. Người tu cảm thấy mình là kẻ ăn xin, xin món ăn tinh thần của Đức Phật gồm có pháp thựcthiền thực. Xin pháp an tâm là thiền thực.

 Chúng xuất giatại gia đều lấy pháp an tâm làm chính. Người giàu sang nhưng lòng tràn ngập khổ đau giống như ôm vàng ngồi trên đống lửa. Ngược lại, nương pháp thiền thực, Sa môn sống cuộc đời bình dị, mộc mạc. Họ không giữ tài sản nào trong tay, mà tâm hồn hoàn toàn an bình, thanh thoát.

Ngoài thiền duyệt thực, hành giả nương pháp hỷ thực, tìm được nguồn vui trong đạo, hoàn toàn khác vui ngũ dục của thế gian :

Ngày tháng ta thung dung vui với đạo,

Còn lợi danh tình ái mặc người ham.

An trú trong pháp lạc của đạo hạnh, chúng ta mới sống và tu được. Nếu không, thân ở trong chùa mà tâm vướng mắc buồn phiền, ta chẳng khác nào kẻ không có tay lạc vào nhà đầy của báu, không sử dụng được. Nhờ hai món ăn thiền thựcpháp thực, hành giả ung dung tự tạithế gian.

Ca Diếp tiêu biểu cho đầu đà đệ nhất A la hán. Đầu đà nghĩa là khổ hạnh. Ca Diếp lập hạnh xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Ngài mang tất cả tài sản cúng dường, chỉ mặc y phấn tảo là vải tang kết lại và sống cuộc đời đơn giản đi khất thực xóm nghèo. 

Với tâm niệm như vậy, Ngài đến chỗ nghèo là điều tất yếu. Vì muốn giáo hóa người nghèo, ta cũng phải nghèo, muốn giáo hóa người thấp, phải tự hạ thấp trình độ mình.

Ngược lại, Tu Bồ Đề giải KHÔNG đệ nhất A la hán, tới chỗ giàu, không tới chỗ nghèo. Tu Bồ Đề sang trọng, thông minh, kiến giải pháp KHÔNG trong kinh Kim Cang một cách sắc bén. Hiển nhiên đối tượng nghe pháp với Ngài phải là người giàu kiến thức thuộc thượng tầng tri thức.

Duy Ma chỉnh Ca DiếpTu Bồ Đề chấp chặt hình thức, nên mỗi người chỉ được một khía cạnh. Hai người giáo hóa ở hai môi trường tương phản, tạo thành thế giàu nghèo đấu tranh với nhau, không thích hợp với pháp Phật thì bao la dung chứa được mọi người và mang lợi ích cho tất cả.

Ca Diếp nói với Phật lòng Ngài điềm đạm vô dục, không có mong muốn và đi vào xóm nghèo khất thực. Ngay khi đó gặp Duy Ma vặn hỏi Ca Diếp thật sự có lòng từ bi rộng lớn, thương người nghèo hay không? Khất thực như vậy có trái với nghĩa vô dục không ? 

Vô dục thì phải bình đẳng khất thực, không khởi ý nghĩ giàu nghèo. Còn ham muốn đến chỗ nghèo, là đã rớt qua dục mà cứ tưởng là vô dục.

 Đạo Phậtđạo bình đẳng, đạo trí tuệ. Phật trải tình thương khắp mọi người, không phân biệt giàu nghèo. Ai có duyên với Ngài đều được tế độ. Từ bà già ăn mày cho đến vua có quyền thế nhất, Ngài đều không từ bỏ.

 Ca Diếp xuất thân giai cấp giàu có, bỏ địa vị giàu sang xuất gia và thích độ người nghèo để thấy mình cao cả. Như vậy tâm Ca Diếp đã kẹt vào pháp.

Duy Ma hỏi Ca Diếp có nên từ bỏ chỗ giàu chăng và từ bỏ có đúng không ? Vì biết khéo sử dụng người giàu tri thức và giàu của cải, họ sẽ đóng góp nhiều lợi lạc cho nhân quần xã hội.

Duy Ma chất vấn Ca Diếp rằng Ngài là người cao cả đức hạnh, ai cũng quý trọng. Ngài từ bỏ tất cả, nhưng nay tại sao lại ôm bình đi cầu xin ăn ? Ngài có nghĩ khất thực sẽ thiệt hại lớn cho việc tu hànhgiáo hóa của Ngài không ?

 Đến đây, Duy Ma gợi cho Ca Diếp mục tiêu khất thực. Theo Duy Ma, không vì kéo dài mạng sống mà ăn, là ý nghĩa của pháp đầu đà.

 Vì ăn mà khất thực chẳng khác gì ăn mày. Vì sống để ăn chẳng khác gì phàm phu, làm sao có thể xem là đệ nhất A la hán

Người khất thực không cầu món ăn, nhưng cầu giải thoát, cầu pháp hỷ thực và thiền duyệt thực, tinh tấn tu hành để đắc đạo, đắc pháp, không còn bị trói buộc trong tam giới.

 Nhờ Duy Ma chất vấn, Ca Diếp tìm được ý nghĩa pháp tu khổ hạnh, ý nghĩa của việc vào làng khất thực.

Khi Phật thuyết pháp ở Lộc Uyển, Kiều Trần Như đắc đạo trước. Phật và Kiều Trần Như đi khất thực, bốn vị kia ở lại, không được cùng đi khất thực với Phật, vì họ chưa đắc quả La hán.

 Điều này thể hiện rõ rệt không phải vì ăn mà Phật đi khất thực. Phật dạy khi đắc La hán, hiện tướng giải thoát. Ngày ngày khất thực, mang hình bóng giải thoát của Phật vào thế gian, để mọi người trồng căn lành. Vì vậy, phải chuẩn bị thân, khẩu, ý thanh tịnh để khi người nhìn thấy, hoặc nghe nói hay nghĩ đến hành giả, đều phát tâm bồ đề

Không khất thực vì ăn, vì sống, nhưng hiện hữulợi lạc cho mọi người. Đó là phương tiện để gần gũi người, khơi dậy tâm hồn hướng thượng cho nhân gian. Nếu không, ta trụ ở rừng núi sẽ rớt qua Tiểu thừa.

Duy Ma tiếp tục chất vấn Tu Bồ Đề. Hãy giải thích nguyên nhân từ đâu mà ông có miếng ăn. Nếu giải không xong, thì đừng ăn. Tu Bồ Đề sợ muốn bỏ bát. 

Duy Ma khuyên Tu Bồ Đề đừng sợ. Ngài hỏi để ông suy nghĩ, cân nhắc trên bước đường tu, không phải để lấy lại bát cơm.

Duy Ma khuyên Tu Bồ Đề rằng người trí phải hiểu được ý và thể hiện ý sâu xa của Phật trong đời sống của mình và của người. 

Pháp Không của chúng Thanh vănngoan không. Tu Bồ Đề không nghĩ gì, nhưng tại sao lại đến nhà giàu của Duy Ma khất thực. Giải thích rằng ngẫu nhiên đến, là Tu Bồ Đề đã lạc qua ngoại đạo. Còn đến mà không nghĩ gì thì không đúng.

Duy Ma chỉnh kiến giải Không của Tu Bồ Đề. Giải Không nghĩa là khi chạm phải thực tế cuộc đời, mọi việc phải giải quyết dứt khoát viên mãn, không tồn tại trong lòng thắc mắc buồn phiền. Phật nhắc chúng ta đừng lầm ma ni bảo châu với thủy tinh

Một Tỳ kheo đúng nghĩa vào làng khất thực, mang hình bóng, lời nói, tâm niệm đều giải thoát, khiến cho người cũng thanh tịnh theo. Ví như ma ni bảo châu vào nước, nước liền trong. Ở bên trong của vị Tỳ kheo chân chính, tất cả đã được hóa giải, không còn phiền não trần lao, là bậc A la hán. Vì vậy bước chân của các Ngài đến nơi nào, nơi đó biến thành thanh tịnh tươi mát. 

Phàm Tăng, nghiệp Tăng, ác Tăng, người nhìn thấy họ thì cảm thấy phiền não, bực tức, thương hại. Phật ví họ như thủy tinh, dù có bỏ ngàn viên vào nước, nước cũng vẫn đục. 

Cổ nhân thường dạy khi ăn người tu phải quán : Nhất kế công đa thiểu lượng bỉ lai xứ.

Trước nhất, ăn cơm, phải quán sát xem cơm này từ đâu tới, có hợp thời thanh tịnh không ? Người thọ thanh tịnh, nhưng người cúng không thanh tịnh, thì pháp cúng dường cũng trở thành không thanh tịnh. Và thọ thực mà không hóa giải được mong cầu của người cúng, ta sẽ mang nợ.

Kế đến quán sát : Nhị thổn kỷ đức hạnh toàn khuyết ưng cúng.

Ta tự xét đức hạnh mình có tương ưng với phẩm vật cúng dường không? Đức ít mà thọ lãnh, cưu mang nhiều, chỉ đọa. Người chân tu thường cân nhắc khi không đủ đức, không dám làm, vì quả báo còn theo ta ở nhiều đời sau. Kinh Vị Tằng Hữu có nói năm thầy Tỳ kheo vì thọ thực không đủ đức hạnh, đời sau bốn thầy đọa làm người khiêng kiệu và một thầy làm người rửa cầu cho hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc.

Thứ ba quán sát : Tam phòng tâm ly quá tham đẳng vi tông.

Người thọ thực phải an trụ pháp Không hoàn toàn. Không có người thọ, không có người cúng, không thấy nhiều, không thấy ít. Quán đúng pháp để tránh tâm tham khởi lên, sẽ phá vỡ công đức tu tạo được.

Thứ tư quán sát : Tứ chánh sự lương dược vị liệu hình khô.

Người tu khi ăn phải sanh tâm hổ thẹnA la hán sống với pháp thực, thiền thực. Còn ta phải ăn để cứu xác thân khô này. Nuôi thân tứ đại để lưu giữ biểu tượng tốt cho người trên cuộc đời, làm lợi cho chúng hữu tình. 

Phật vào Niết bàn, những bậc thượng căn thượng trí vẫn gần gũi Ngài. Nhưng người trình độ thấp không thấy được Phật. Vì vậy các đệ tử của Ngài như Ca Diếp, Tu Bồ Đề, nói chung, các bậc Hiền Thánh Tăng đắc đạo, không vào Niết bàn. Các Ngài phải duy trì mạng sống để khơi dậy tâm bồ đề cho người.

Thứ năm quán sát : Ngũ vi thành đạo nghiệp phương thọ thử thực.

Người tu luôn hướng tâm về quả vị Vô thượng chánh đẳng giác và thọ thực cũng không ngoài mục tiêu duy trì mạng căn làm phương tiện tu hành tiến tới Phật quả.

Ngày nay, năm tâm niệm nói trên của chúng ta mỗi khi thọ thực, được rút ra từ pháp thọ thực của Tu Bồ ĐềCa Diếp.

Sự thật, hai vị đại đệ tử Ca DiếpTu Bồ Đề đều nhằm mục tiêu giáo hóa chúng sanh, hướng dẫn ở hai môi trường hoàn toàn khác biệt. Tuy bên trong là một, nhưng thể hiện ra ngoài thành hai nhân vật Tu Bồ ĐềCa Diếp hội nhập hai nơi làm Phật sự.

Theo tinh thần Đại thừa, Bồ tát không câu nệ hình thức. Các Ngài hiện hữu trên cuộc đời để thể hiện phúc lợi cho dân tộc và nhân loại. Đức Phật chúng ta xuất hiệnTa bà cũng không ngoài mục tiêu này. 

thực tế ngày nay cũng vậy, dân Nhật kính nể Thủ tướng Sato không phải vì áo phấn tảo. Họ khâm phục đức độ và tài trí thông minh của ông đã khéo lèo lái con thuyền đất nước của họ vượt qua những thử thách sóng gió.

Bồ tát đa dạng, khoác chiếc áo nào làm lợi cho đạo thì cứ mặc, áo nào cũng được. Đó là chuyện bình thường không đáng quan tâm. Vì họ nhận chân được rằng áo tốt hay xấu đều tùy thuộc phước đức nhân duyên, không tự tạo, không để tâm mong cầu. Ý nghĩa Không của Tu Bồ Đề chính là vậy.

Tiếng nói của Duy Ma với Tu Bồ Đề hay Ca Diếp không phải phát xuất từ một ông Duy Ma bên ngoài. Riêng tôi, thiết tưởng trên cuộc đời có hai Đức Phật, một Phật Thích Ca ở bên ngoài và một vị Phật thứ hai ở trong lòng ta. Chính Phật trong ta thể hiện ra thành ông Duy Ma vấn đáp ta. 

Duy Ma là phản ánh tâm tư của người tu khi chạm với thực tế cuộc đời. Duy Ma không phải là người bên ngoài. Lòng tôi tự hỏi tôi và tự thảo luận với lòng để tìm ra pháp tu của chính mình. 

Ngài Nhật Liên ví Phật Thích Ca như chim hót ngoài trời và chim trong lồng là hình ảnh Duy Ma nghe chim bên ngoài kêu nó thoát khỏi lồng vàng. 

Duy Ma không ai khác hơn bản tâm thanh tịnh của chính ta. Lòng chúng ta thật yên tĩnh, phiền não trần lao không xâm nhập. Ta mới lắng nghe được tiếng nói chân tình phát xuất từ đáy lòng phê phán và tùy theo đó điều chỉnh cho đúng chánh đạo.

 Những điều Duy Ma phê phán là những gì tâm vương ta phát hiện. Hay nói khác, là lẽ chân thật giúp ta thăng hoa trên đường đạo.

Tiếp theo, bốn vị đại đệ tử còn lại là A Na Luật, Ưu Ba Ly, La Hầu LaA Nan lần lượt đều từ chối thăm bệnh Duy Ma.

A Na Luật hay A Nâu Lâu Đàthiên nhãn đệ nhất A la hán. Tầm nhìn sự vật, phân tích sự vật, không ai vượt qua Ngài. Ngài tham Thiền đến độ mù mắt, nhưng huệ nhãn phát sinh thấy tất cả vật chính xác hơn. 

Từ đây ta rút ra được kinh nghiệm trên bước đường tu khổ luyện, thường vấp phải sai lầm. Nếu có minh sư chỉ dạy có thể tránh khỏi. Còn tự ta tu, đạt được một pháp, thường hư mất một phần thân thể. Trường hợp Huệ Tư Thiền sư chứng được tam trí tam quán thì thân hoại, phải truyền pháp lại cho Trí Giả đại sư.

A Na Luật quán sát sự vật bằng tâm, không bằng mắt. Dùng trí rọi qua chân lý, không rọi qua cảnh. Ta có mắt thường bị sắc trần chi phối, nên hồi quang phản chiếu của ta bị yếu kém. Ngài A Na Luật sinh hoạt với thế giới nội tâm mạnh hơn, phong phú hơn, vì không còn nhục nhãn, không bị nhãn thức chi phối.

Một hôm, Ngài vừa tham Thiền, vừa kinh hành, thấy thế giới Phạm Thiên hiện ra và nghe Phạm Thiên hỏi : “Thiên nhãn của Ngài thấy xa được bao nhiêu ?”. A Na Luật trả lời vật mà Ngài quán sát thấy rõ như thấy một trái cam trong lòng bàn tay. Lúc đó Duy Ma Cật xuất hiện.

 Duy Ma không phải là người bên ngoài, nhưng là người từ thế giới thuần tịnh đến, hay là một hiện thân của Phật để giáo hóa. Duy Ma Cật nghĩa là bản tâm thanh tịnh, tức tu hành đạt đến trạng thái bình ổn cao nhất, tự đáy lòng ta hiện lên tiếng nói của Duy Ma. Vì vậy, Duy Ma không nói với người ngoài, chỉ nói với người tu cao. Duy Ma nói với A Na Luật mù ở thế gian, nhưng sáng ở chân lý.

Duy Ma chỉ trích A Na Luật thấy thế giới bằng cách nào? Nếu thấy bằng hình tướng thì thuộc giả tướng, tức dùng tâm sanh diệt thấy pháp sanh diệt. Cả hai nằm trong tướng vô thườngsanh diệt. Như vậy đâu đáng gọi là Phật pháp.

 Nếu thấy dưới dạng thể, tánh thấy và vật bị thấy là một, thì phải nói không thấy. Còn nói thấy thì rớt qua nhị nguyên.

 Không thấy mà thấy, nghĩa là cái thấy vượt thế gianxuất thế gian. Nói cách khác, vượt hiện tượng giới và bản thể, một cái thấy chỉ có Phật Thích Ca sau 49 ngày tư duyBồ đề đạo tràng chứng nghiệm được. 

Phạm Thiên nghe Duy Ma chất vấn A Na Luật như vậy liền hỏi ai là người có chơn thiên nhãn. Duy Ma cho biết chỉ có Phật Thích Ca đạt được. Ngài từ bản thể hiện ra hiện tượng, nhưng vẫn không rời bản thể. Siêu xuất cả hai mặt, mới là Như Lai

Ưu Ba Ly trì luật đệ nhất A la hán, thích sống khuôn mẫu nên dễ rớt vào giới điều. Ông chấp chặt giới luật trong việc xét xử hai Tỳ kheo và bị Duy Ma chỉnh lý, nay khiếp sợ không dám đến thăm bệnh Duy Ma.

Có hai Tỳ kheo phạm giới, xấu hổ, không dám thưa với Phật, liền đến hỏi Ưu Ba Ly phải sám hối bằng cách nào. Ưu Ba Ly chiếu theo luật ghi sao xử vậy, buộc một ông tội dâm, một ông tội sát, đưa ra chúng xử và đuổi khỏi Tăng đoàn

Hai thầy Tỳ kheo thất vọng quá, đúng lúc đó Duy Ma đến, nghĩa là lương tâm con người sống dậy. Khi họ phạm lỗi, Ưu Ba Ly muốn xử nặng để làm gương. Nhưng thấy họ khổ lại thương, lòng thương từ chơn tâm hiện rahình ảnh Duy Ma xuất hiện. Hay có thể nói Duy Ma này là bản tâm thanh tịnh của Ưu Ba Ly hiện lên, nhắc nhở ông một tình huống nào cũng có hai mặt. Mặt lý và mặt tình, không giống nhau, phải cân nhắc suy xét cho kỹ.

Giới luật nhằm bảo vệ giới thân huệ mạng của người tu. Tuy nhiên chấp giới, nó sẽ ràng buộc ta không làm được gì. Luật có mặt lợi ngăn chặn việc ác, nhưng cũng hại vì ngăn chặn cả việc thiện. Ta cần áp dụng nó một cách chiết trung. 

Xử theo Ưu Ba Ly, được lợi gì và có hại gì ? Trên thực tế, hai vị Tỳ kheo bị đuổi, không được ở chung với chúng. Quyết định như vậy, lợi chưa thấy. Nhưng hại trước mắt là đẩy hai người vào tâm trạng tuyệt vọng, thường đưa họ đến những hành động liều lĩnh, dễ gây tội lỗi thêm.

Duy Ma xuất hiện giải tỏa khó khăn cho Ưu Ba Ly trong việc áp dụng giới. Duy Ma nói với Ưu Ba Ly tuy hai Tỳ kheo có tội, nhưng ông đừng tròng cho họ thêm một tội thứ hai. Ta đưa ra giới để ngăn ngừa. Tuy nhiên, lỡ phạm tội thì phải tùy theo đó mà ngăn tội kế tiếp. Không phải xét xử để đưa họ đến phạm tội khác. Mục tiêu chính nhằm gỡ họ ra, không buộc họ nữa. Thay vì phạm một giới, nhưng chúng ta không xóa, nên họ phạm thêm tất cả giới khác.

 Chẳng những hai ông phạm tất cả cấm giới, mà làm tâm các Tỳ kheo còn lại hư luôn. Chuyện tội lỗi chỉ có hai Tỳ kheoƯu Ba Ly biết. Ông nên dùng trí tuệ xóa đi. Tại sao lại đem phơi bày cho cả trăm người biết, gây cho họ ấn tượng xấu đối với hai Tỳ kheo kia.

Ta tu hành sợ nhất là ấn tượng xấu trong lòng. Người xấu, nhưng hành động xấu này chỉ huyễn ảo sanh diệt luôn. Còn ấn tượng xấu rất tai hại vì sống để dạ chết mang theo

Ưu Ba Ly xử như vậy gieo vào lòng đại chúng tâm niệm dâm, dạy họ giới dâm. Trong khi họ hoàn toàn thanh tịnh, chưa biết gì về giới dâm.

Giới Đại thừa lấy tam tụ tịnh giới làm căn bản, tất cả việc làm của chúng ta đừng cho tâm ác sanh ra là chính. Vì vậy, giới Đại thừa được gọi là giới tâm. Tâm tốt rồi, hiện tượng tốt tự hiện ra. Ta giữ giới kỹ lưỡng trong sạch, thường khởi tâm thù ghét người không trong sạch. Nghĩa là ta đã mang ý niệm thù ghét vào tâm, thì giữ giới Tiểu thừa bằng cách này trở thành nguy hiểm.

Ưu Ba Ly tiêu biểu cho giữ giới hình thức nên Duy Ma xuất hiện để phát triển phần nội dung. Vì đôi khi hình thức rườm rà giết chết nội dung quan trọng. Những việc tốt trên thế gian ta làm thật nhiều, nhưng nó bao vây ta quá chặt chẽ, không khéo biến thành nghiệp. 

Giới luật tạo điều kiện cho ta giải thoát, phần gội rửa linh hồn mới chính yếu, còn việc bên ngoài chỉ phụ thuộc. Trong tâm hồn chúng ta đạt được một sở đắc nào để làm tư trang tu hành cho đời sau mới quan trọng. Pháp Phật giúp ta khai tri kiến, thăng hoa cuộc sống. Không biết sử dụng, nó ràng buộc ta chặt cứng, thì dù tu pháp nào cũng chỉ đọa thôi.

Giới Đại thừa nhằm mục tiêu ngăn cấm tội lỗi, nên có hiện tượng mới ngăn. Vì vậy, người nào phạm tội, người đó có giới. Trong 12 năm đầu, đối với thanh tịnh Tăng, Phật không chế giới. Ngài chỉ đưa ba nguyên tắc sống là tam quy làm nền tảng : sống với trí tuệ, sống với chánh pháp và sống theo tinh thần hòa hợp.

 Cuộc đời giáo hóa của Phật có thể chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn một, vì thanh tịnh Tăng, không nói giới luật. Phật dùng tâm Ngài ảnh hưởng vào tâm Tăng, biến tâm họ thành thanh tịnh. Đến thời kỳ thứ hai, Phật thuyết pháp từ Lộc Uyển đến Linh Thứu. Đối trước những người trình độ thấp, không cảm được tâm Phật, không có khả năng tư duy. Ngài phải diễn nói đủ cách. Dạy mới làm, nên việc làmgiới hạn, làm theo mẫu. Nhưng đến thời kỳ thứ ba, nói cũng không nghe, phải dọa mới sợ, nghĩa là thời kỳ đặt ra giới luật.

Duy Ma nhắc nhở Ưu Ba Ly tôn trọng giới luật, nhưng phải hiểu giới luật. Duy Ma thuyết pháp Không cho hai Tỳ kheo. Tâm thanh tịnh thì tất cả cũng thành thanh tịnh

Nếu đặt mục tiêu yêu nước thương đạo, thì ta làm gì cũng nằm trong mục tiêu này, không cần đặt vấn đề giới, không đặt vấn đề làm việc này hay không làm việc kia. Mục tiêu là chính, tất cả chỉ là phương tiện để đi đến mục tiêu

Cứu cánh của người tu hành nhằm đạt tới Phật quả, nên Duy Ma nhắc vấn đề chính cốt đắc đạo. Giới chỉ là phương tiện giúp ta đắc đạo, không phải lấy giới ràng buộc để cột cứng ta lại, chẳng làm được gì. 

Duy Ma hỏi Ưu Ba Ly tại sao ông thanh tịnh. Ưu Ba Ly trả lời vì đời này ông không phạm giới nên thanh tịnh. Duy Ma nói tiếp vậy đời trước ông có thanh tịnh không ? Ưu Ba Ly trả lời hiện tại thanh tịnh thì quá khứ cũng thanh tịnh. Quá khứ thuộc về ảo giác nghĩa là nghiệp, không có thực thể

Vì vậy, Đại thừa chủ trương nỗ lực làm việc thiện để xóa tội ác. Ưu Ba Ly nghiệp nhiều, nhưng nghe Phật thuyết pháp, tâm bỗng thanh tịnh, tội tự mất. Vì tội tự tánh Không, do vô minh mà có. 

Chính Phật làm cho Ưu Ba Ly tiêu tội. Tại sao ông không làm cho hai Tỳ kheo hết tội, mà còn tròng thêm tội lỗi cho họ.

Hai vị Tỳ kheo nghe Duy Ma giảng xong liền phát tâm bồ đề. Trên bước đường tu hành, chúng ta lưu ý đừng để việc trì luật làm khổ ta và người. Nhận chân được Phật pháp chỉ có một vị giải thoát và tội tánh Không. Ta tạo nghiệp đều do ảo giác. Bao giờ ta chuyển được tâm hoàn toàn thanh tịnh, trí tuệ bừng sáng thì tội tự mất. Bồ đề tâm phát, tội tự tiêu, giống như mặt trời lên, bóng tối tan đi. Đạt được tâm địa này, ta chuyển hóa người, dần họ cũng hết phiền não nhiễm ôthanh tịnh theo.

Chúng ta tinh tấn tu hành lấy giới tâm làm chính. Giữ tâm bồ đề kiên cố, quyết chí đạt được Như Lai huệ, cũng như luôn ấp ủ tình yêu thương đạo pháp, dân tộc và nhân loại. Từ đó, thể hiện thành việc làm phát triển đạo pháp, xây dựng đất nước, mang phước lạc cho dân tộc, cho nhân loại.

La Hầu La mật hạnh đệ nhất A la hán. Tuy Ngài thực tu hạnh Bồ tát, nhưng bề ngoài hiện tướng phàm phu. Ngài thường gây chuyện bất hòa, nhằm tạo những thử thách giúp các Tỳ kheo tu chung nỗ lực vượt khó, trưởng thành trên bước đường hành đạo

La Hầu La phát nguyện tu nghịch hạnh đến khi các Tỳ kheo này đắc quả A la hán, Ngài nhập diệt, vì đã hoàn tất bản nguyện.

 Tuy nhiên, La Hầu La cũng vấp phải lỗi lầm về quan niệm xuất gia khi Ngài khuyên các vương tử ở thành Tỳ Da Ly xuất gia để được công đức

Duy MaLa Hầu La nói chuyện thực hay không, không quan trọng. Đối với tôi, đây là vấn đề xuất gia đặt ra cho chúng ta suy nghĩ. Vì người theo đạo Phật không cúi đầu chấp nhận đơn giản, mà phải suy nghĩ cho cùng. 

Dưới kiến giải của Đại thừa, thường nhìn hiện thực cuộc sống để suy nghĩ về hiện thực đó. Nhìn thấy sự thật cùng là vương tử, nhưng bốn người xuất gia mang đến bốn kết quả khác nhau. Thật vậy, Đức Phật xuất gia thành Phật, A Na Luật xuất gia bị mù mắt, La Hầu La xuất gia 25 tuổi chết. Riêng Ngài A Nan xuất gia theo Phật, trở thành người kiết tập được tạng kinh của Phật giáo. Nhưng vẫn thấy Phật và A Nan xuất giathành quả khác nhau. 

Từ hiện thực đó, Đại thừa không quan niệm xuất gia giống nhau chung chung. Mỗi người có hoàn cảnh, tâm niệm xuất gia khác nhau, đương nhiên dẫn đến hậu quả khác nhau.

Có người phê phán nếu quan niệm như vậy sẽ mất tính cách bình đẳng. Tuy nhiên, theo tinh thần Đại thừa, bình đẳng trên sanh diệt cuộc đời chỉ là bình đẳng tạm. Bình đẳng trên chân lý, tuy không thấy, nhưng là bình đẳng thực.

Tư tưởng Duy Ma nhằm chỉnh lý sai lầm của chúng ta về vấn đề xuất gia bằng cách mượn nhận thức sai lầm của một số người gắn lên cho La Hầu La. Mượn sự kiện chết sớm của La Hầu La để chỉ chúng ta thế nào là xuất gia đúng pháp. 

Chúng ta thử kiểm xem tại sao Phật Thích Ca xuất gia tu thành Phật. Và tại sao La Hầu La tu lại chết sớm, A Na Luật tu lại mù mắt. Nói cách khác, Đại thừa muốn xác định lại việc tu sai pháp của người cố chấp hay vì lợi danh, để chúng ta tự chọn con đường tu thành Phậttừ bỏ con đường tu rồi bệnh hoạn, chết yểu

Đại thừa khẳng định giáo lý Phật giúp hành giảđời sống cao cả, không phải làm cho chúng ta khổ đau. Đạo Phật là đạo diệt khổ, chữa lành thân bệnh, tâm bệnh cho chúng sanh, không phải tu để dẫn đến chết yểu

Duy Ma hiện ra chỉnh La Hầu La xuất gia không có công đức. Cần phân biệthoàn cảnh, tâm niệm của Phật Thích CaLa Hầu La đi tu khác nhau. 

Đức Phật tu với tư cách con người đầy đủ phước đức mang tâm niệm cứu khổ chúng sanh. Ngài hoàn toàn khác với La Hầu La xuất gia để cầu phước đức.

 Người quan niệm xuất giaphước đức rồi xuất gia, là lạc vào sai lầm lớn. Họ vì lợi xuất gia. Kẹt vào lợi có khác gì phát xuất từ lòng tham, thuộc nghiệp và phiền não, quả báo chắc chắn sẽ đến. 

Ngược lại, Phật xuất gia vì muốn gánh vác trọng trách đối với chúng sanh, không phải vì phước lạc riêng cho Ngài, nên Ngài trở thành bất tử. Bao giờ còn chúng sanh, Phật còn hiện hữu

Từ góc độ này hành giả suy nghĩ để điều chỉnh thái độ xuất gia của chúng ta, việc làm của chúng ta cho đúng con đường của Phật đã vạch ra.

Duy Ma khẳng định xuất gia không có công đức. Xuất giahy sinh để làm chuyện khó khăn hơn. Tại sao hành giả bỏ nhà đi tu ? Vì có gia đình, chúng ta bị ràng buộc trong môi trường nhỏ hẹp, ý chí không tung hoành ngang dọc được. Vì ấp ủ tình thương bao la, muốn ôm cả vũ trụ vào lòng. Vì không trông coi gia đình nhỏ bé, mà muốn điều động cả thiên nhiên. Bỏ cha mẹ, người thân để bao phủ tình thương cho muôn loài... Tất cả những điều này đều khó làm, thuộc vô vi pháp, khởi lên từ những tâm hồn hướng thượng cao cả, từ chối quyền lợi thế gian đạt đến siêu xuất thế gian.

Sự nghiệp của người xuất giagiáo hóa chúng sanh.

 “Nhất bát thiên gia phạn

 Cô thân vạn lý du

 Kỳ vi sanh tử sự

 Giáo hóa độ xuân thu”.

Người xuất gia trau giồi giới đức, phát huy trí tuệ, đạt đến cái thấy, hiểu biết chính xác, làm cố vấn chỉ đạo cho mọi sinh hoạt thế gian. Người tu không thể hiện được việc này là có tội. Cả một trách nhiệm nặng nề người xuất gia phải gánh vác.

Duy Ma bảo La Hầu La đừng làm cho người thấy quyền lợi trước mắt mới đi tu. Phải thấy trọng trách mà Phật giao phó cho chúng ta, cân nhắc xem liệu chúng tathực hiện nổi không.

Duy Ma vẽ ra cho hành giả lộ trình của người xuất gia đúng chánh pháp :

1.- Xuất thế tục gia :

Người xuất gia quyết tâm dứt khoát tất cả quyền lợi trên cuộc đời, hướng tâm cầu thành Vô thượng đẳng giác. Hai vai luôn mang trọng trách phục vụ chúng sanh để thành tựu Phật quốc, không hưởng lợi lạc, chỉ hướng về chúng sanh đáp ứng mọi nhu cầu cho họ.

 Người xuất gia bỏ nhà thế tục vào nhà Như Lai, bỏ sanh diệt vào sống trong không sanh diệt, làm thế nào để trở thành người bất tử như Phật. Đức Phật vì lòng thương đối với chư thiênloài ngườihiện hữu trong lòng người, bên cạnh người như tàng lọng che mát nhân gian.

2. – Xuất phiền não gia :

Người xuất gia đối diện với khó khăn chông gai, lòng không nao núng hay buồn phiền, oán hận. Đức Phật thường ví tâm dũng mãnh của người tu như đàn voi kéo nặng leo ngược dốc, nhưng không gì có thể cản bước tiến của nó.

Người xuất gia gạn lọc thân tâm trong sạch, rời xa tình cảm tham sân tầm thường. Nói chung, vui buồn vinh nhục, phiền não trần lao không tác hại được. Hành giả hiện hữu cao thượng ở thế gian như một đóa hoa sen thơm ngát vượt khỏi bùn lầy hôi tanh. 

Người tu xuất phiền não gia tuyệt đối phải chấp nhận ba điều căn bản : người mắng chửi nói xấu ta, ta không được mắng chửi nói xấu lại. Người đánh ta, ta không được đánh lại. Người hại ta, ta không được hại lại.

3.- Xuất tam giới gia :

Hành giả quán sát lần cuối xem cái gì là TA, tức đối tượng quán sát là thân ngũ ấm. Xuất gia là ra khỏi nhà ngũ ấm hay ra khỏi nhà tam giới. Con người đau khổ với cái thân đòi hỏi miếng cơm manh áo và những dục vọng khát ái. Đó là tầng đau khổ thấp nhất của con người sống trong cõi dục giới.

 Tiến đến cái khổ thứ hai là tư duy sai lầm, chỉ cho những người sống trong Thiền định. Tuy họ có thân, nhưng không bị tác dụng dục nhiễm. Hạng này sống ở tầng thứ hai của tam giới thuộc về sắc giới

trạng thái thứ ba của người sống ở vô sắc giới. Họ không còn thân, nhưng còn thức và chỉ sống với thức uẩn.

 Ba trạng thái sống này là ba cái muôn đời đeo đẳng, buộc chặt chúng ta trầm luân sanh tử trong tam giới. Người xuất gia phải chuyển đổi ngũ uẩn thân thành ngũ phần Pháp thân : giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chuyển bằng cách thanh lọc thân tâm sanh tử hữu lậu này đến mức thuần thiện, thành thân ngũ uẩn vô lậu. Lúc ấy, qua lăng kính tuệ giác, hành giả thấy chính xác mọi vật ở cả hai phương diện thể tánhhiện tượng, cũng như vận dụng được mọi pháp một cách tự tại, không còn bị trói buộc trong sanh tử luân hồi. Đây là điểm cao nhất của lộ trình xuất gia.

Thành tựu được ba điểm nêu trên của người xuất gia, là tròn hạnh. Ngược lại, mang tâm niệm lợi danh phiền não nhiễm ô của đời bước vào đạo, ta đã bôi nhọ ý nghĩa cao thượng của người xuất gia.

 Duy Ma giảng xong, Ngài khuyên các vương tử nên xuất gia. Họ đáp lại rằng nghe Phật dạy nếu cha mẹ không cho, không được xuất gia

Duy Ma trả lời rằng Ngài không bảo họ xuất gia theo hình thức của La Hầu La. Theo Ngài, bất cứ ai thể hiện được ba điểm nêu trên, là biểu tượng của người xuất gia. Nghĩa là mẫu người hiện hữu trên cuộc đời mang tâm niệm giải thoát, phát tâm bồ đề, cầu trí tuệ vô thượng của Phật, tô điểm cho đời tươi sáng. 

Không câu nệ phần hình tướng xuất gia. Ai đầy đủ phương tiện nào sử dụng hình thức nấy. Cốt yếu đạt đến đỉnh cao của tri thứcđạo đức.

A Nan đa văn đệ nhất A la hán, nghe và nhớ hết lời Phật dạy. Ngài nghe Phật nói không khỏe nên đến Bà La Môn xin sữa cho Phật.

 Duy Ma xuất hiện chỉnh A Nan, bảo ông nên yên lặng đừng để trời oai đứcBồ tát mười phương nghe lời nói ấy. Ông nghĩ về Phật thế nào, mà nói Phật bệnh. Chuyển luân vương phước báo chưa bao nhiêu còn không tật bệnh. Như Laithân kim cang, các ác đã dứt, các lành tròn đủ, làm sao bệnh được. Nếu Phật không tự điều chỉnh thân, còn cứu được ai.

Đây là quan niệm trái ngược quan niệm nguyên thủy. Giáo lý nguyên thủy nói đến Phật là nhắc đến sanh thân Phật Thích Ca tu hành, thành Phật, thuyết pháp và 80 tuổi chết.

Nhưng kinh Duy Ma mở màn cho kiến giải Đại thừa nhìn về Phật qua tinh thần, qua lý tưởng cao đẹp của Ngài. Phật cũng là con người, nhưng khác chúng sanh ở điểm Ngài thành đạo

Thành đạo đồng nghĩa với chân lý. Trong thân tứ đại của Phật hàm chứa cái gì cao quý, đó là chân lý. Chân lý thì làm sao sanh già bệnh chết được. Kinh Pháp Hoachân lý như hạt châu trong chéo áo hay túi da đựng hạt châu.

 Phật dạy Tu Bồ Đề nếu nhìn Như Lai qua 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, Như Lai không khác Chuyển luân Thánh vương. Thân ngũ ấm tuy giống nhau, nhưng bên trong đạo đức thánh thiệntrí tuệ siêu việt của Phật kết tụ thành một hiện hữu khác biệt vượt hơn mọi người.

Hướng về Phật, nghĩa là chúng ta hướng về đạo đứctrí tuệ của Ngài. Kinh Pháp Hoa gọi là Phật thường trụ không sanh già bệnh chết. Chúng sanh nghiệp nặng, vô minh ngăn che, không thể tiếp cận được với vị Phật kết hợp bằng trí tuệđạo đức. Nhưng Ngài vẫn luôn hiện hữu miên viễn trong tâm hồn người đắc đạo.

 Ta kính trọng Đức Phậtđi theo con đường của Ngài, vì Ngài thể hiện trí tuệ tuyệt vời siêu nhân loại. Phật thấy biết và điều động mọi diễn biến trong tam thiên đại thiên thế giới một cách chính xácan ổn

Trí tuệ của Ngài gọi là Pháp thân vô thỉ vô chung, bất sanh bất diệt, tồn tại mãi với thời gian. Chúng ta chưa thành Phật nhưng vẫn có Pháp thân. Pháp Thân này còn bị vô minh phiền não bó chặt. Vì vậy, Phật phải xuất hiệnTa bà để khai tri kiến cho chúng ta.

Ngoài trí tuệ hay Pháp thân bất sanh bất diệt, thân Phật còn kết tụ bằng đạo hạnh tinh khiết, tích lũy từ nhiều đời, làm lợi ích cho vô số quần sanh. Ngày nay, trải qua hơn 2.000 năm, Ngài vẫn còn là biểu tượng mô phạm cho cả nhân loại sùng kính quy ngưỡng

Ta học Phật là học đạo đức của Ngài. Đạo đứcBáo thân hữu thỉ vô chung. 30 tuổi, Phật thành đạo và Ngài tiếp tục phát huy đạo hạnh trong 49 năm thuyết pháp, dìu dắt vô số chúng sanh đến con đường an lành giải thoát. Mỗi bước đi giáo hóa của Ngài, đạo đức ngời sáng thêm. 

Phật diễn tả Báo thân của Ngài trong phẩm Như Lai thọ lượng : “Ta xưa tu hành đạo Bồ tát cảm thành thọ mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên...”

Duy Ma dạy A Nan nhìn Phật qua Pháp thânBáo thân, thì làm gì có bệnh. A Nan cảm thấy nghi ngờ. Ngài là người nghe nổi tiếng chính xác, chẳng lẽ nghe lầm sao.

 Đến đây mở ra cho hành giả ý niệm “Nghe chính xác bằng ngôn ngữ, nhưng nghe lầm bằng tư duy”, nghĩa là từ tinh thần Tiểu thừa chuyển sang Đại thừa

Trên bước đường tu, chúng ta nghe Phật dạy theo ba cách. Cách thứ nhất nghe thanh trần bằng tai, hay đọc văn tự kinh nhưng không giải thoát, không tác động gì đến cuộc sống. Chúng ta đã nhận lầm “trần” là pháp Phật. Kinh diễn tả A Nan nhận lầm Thế Tôn bệnh đi xin sữa, để chỉnh lại cái nghe của chúng ta

Cách nghe thứ hai là nghe qua ngôn ngữ, phải suy nghĩ, hiểu được ý Phật hàm chứa bên trong. Điểm này kinh diễn tả A Nan nghe tiếng nói chư Thiên cho biết thân kim cang Như Lai không bệnh. Nghe theo cách này, nghĩa là hiểu được cốt lõi Phật dạy và thể nghiệm trong cuộc sống có kết quả, dạy người giải thoát, mới thực là cái nghe trọn vẹn. Nghe bằng hành động thực tiễn tu hành của chúng ta.

Từ nghe bằng tai của thân sanh diệt, vì giữa A Nan và Phật liên hệ qua sanh thân, tiến đến gặp Duy Ma hay Tịnh Danh. Nói cách khác, bản tâm thanh tịnh con người va chạm với thực tế nảy sanh ra tư duy, hình thành nên A Nan thứ hai là A Nan bằng tư duy.

 Dưới nhãn quan của con người bằng tư duy quán sát sẽ hiểu Phật qua trí tuệ đạo đức của Ngài. Không đơn thuần thấy Phật qua con người bằng xương thịt. Thấy Phật dưới dạng đức hạnh, nên Phật trọn lành, không tỳ vết, không bệnh, không ai phê phán được, mặc dù sanh thân Ngài có bệnh. 

Với con người A Nan bằng xương thịt nghe Phật nói sao ghi y vậy là kinh nguyên thủy. Tiến lên A Nan bằng tư duy nghe Phật thuyết, suy nghĩkiết tập lại là kinh Duy Ma

Ở đây mượn sai lầm của tu sĩ Thượng tọa bộ đem gán lên cho A Nan để nhắc nhở hành giả dõi theo bước chân Phật, phải đọc giáo lý, phải suy nghĩ, nhận thứcứng dụng vào cuộc sống. Ngõ hầu nắm bắt được Pháp thân tồn tại mãi trong thời gian vô tậnkhông gian vô cùng

A Nan chợt bừng tỉnh khi nghe tiếng nói trên hư không rằng Duy Ma nói đúng, thân Như Laikim cang thân. Vì muốn giáo hóa người ở Ta bà, Ngài ứng hiện sanh thân như họ. Ở mặt bản thể, Phật có Pháp thân thường trú bất sanh bất diệt. Nhưng trên hiện tượng giới, mang thân tứ đại vào, dù thần thông biến hóa đến đâu cũng không thoát khỏi bốn tướng vô thường : sanh, già, bệnh, chết. Đây là điểm khác biệt giữa đạo Phậtđạo Thiên Chúa. Chúa Kitô chết rồi hồn xác đều lên Thiên đàng. Phật nhập diệt thì thân tứ đại cũng phải trả về cho cát bụi. Chỉ có đạo đứctrí tuệ Ngài còn lưu lại muôn đời cho nhân loại nương theo.

A Nan còn đang xúc động với sự cảm nhận có một Đức Phật thường hằng bất biến, thì nghe trên hư không có tiếng nói rằng A Nan, hãy đi lấy sữa, chớ có hổ thẹn.

Qua sự chất vấn, Duy Ma gợi cho Ngài A Nan hay gợi cho chính chúng ta hình ảnh Pháp thânBáo thân hàm chứa bên trong Phật Thích Ca mang thân hữu hạn của con người bình thường

Gợi nhắc như vậy cũng có nghĩa là khơi dậy trong ta tấm gương đạo đức thuần thiện và trí tuệ siêu việt của Phật. Chính điều ấy tồn tại miên viễn trong lòng nhân thế, hòa đồng với vũ trụ bao lathể nhập trong những tâm hồn giải thoát. Từng bước chân theo Phật, từng bước an lành của chúng ta đi trên con đường trí tuệ, đạo đức của Ngài .

Tóm lại, mười vị đại đệ tử tiêu biểu cho mười hạnh tu của Phật, gợi cho chúng ta nhận thức tu hành thế nào đúng chánh pháp. Mỗi vị chuyên tu một pháp, suốt đời chỉ rèn luyện một hạnh mà còn vấp phải sai lầm. Huống chi chúng ta thực hiện nhiều hạnh, chắc hẳn sẽ lạc vào sai trái, khó đắc quả.

 Mới đọc qua kinh Duy Ma, chúng ta nhận thấy giá trị của Tỳ kheo thấp. Mười vị đại đệ tử đều lãnh đạo đại chúng, nhưng vẫn bị Duy Ma chê trách

Vì vậy dưới cái nhìn của Tiểu thừa, họ cho kinh này bôi nhọ chư Tăng. Làm gì có chư Tăng thấp kém hơn cư sĩ.

Tuy nhiên, trên thực tế, điển hình tôi thấy cụ Lê Đình Thám, một nhân vật rất gần chúng ta. Ngài là Thầy của các vị danh Tăng như Hòa Thượng Mật Hiển, Hòa Thượng Mật Nguyện, Hòa Thượng Trí Thủ, Thiện Hoa, Thiện Hòa v.v...

Nhận thức chúng xuất gia không chính xác bằng cư sĩ, gợi cho tôi liên tưởng đến hình ảnh Duy Mahiện thân của Phật. Ngài chỉnh lý mười đệ tử Phật để khích lệ chúng xuất gia nỗ lực phát triển đạo đứctri thức, loại bỏ tánh tự mãn ngõ hầu thăng hoa trên bước đường tu. Nếu không, chúng xuất gia sẽ dễ dàng vấp ngã trong đời ngũ trược ác thế này.

 Dưới tầm nhìn của Đại thừa lấy tri thức làm nền tảng quyết định. Hình thức bên ngoài mang thân cư sĩ hay xuất gia không thành vấn đề. Nhận thức của chúng ta ở tầm mức nào và chúng ta thành tựu được lợi ích gì cho xã hội, cho nhân loại. Chỉ có sự đóng góp này quyết định giá trị của sự hiện hữu của chúng ta trên cuộc đời .

Kinh Duy Ma không có kinh Pháp Hoa phụ đính, chúng ta dễ hiểu sai lầm. Kinh Pháp Hoa cho thấy các đại đệ tử Phật không dở, không thua bất cứ người nào, chứ không riêng gì cư sĩ.

Có thể nói các Ngài giả bộ thua, để tạo thành tấm gương cho hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo khiếp sợ, nỗ lực tu học.

 Điển hình như Ca Diếp có lần được Phật nhường cho Ngài nửa tòa ngồi, thì làm sao Ca Diếp có thể thua được. Hoặc Ngài Phú Lâu Na đã từng ở 90 ức Phật quá khứ hộ trì trợ tuyên chánh pháp của Như Lai. Trong hiện tại và trong hiền kiếp về tương lai, Ngài cũng là bậc nhất. Hay Ngài A Nan đã từng phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác với Phật Thích Ca từ thời Phật Không Vương. Thật sự, những vị này không phải thuộc hàng Thanh văn tầm thường. Kinh Pháp Hoa cũng xác định nếu Phật nói tất cả sự thật này, mọi người sẽ không tu.

Đệ tử Phật thua Duy Ma, vì ý của Phật muốn vậy. Phật sắp xếp cho họ thất bại, đẩy họ vào đường cùng để trí sanh, đưa ra một bài học giáo hóa sống động cho mọi người.

 Thật vậy, trên bước đường tu, thân tâm ta luôn chạm trán với những điều thuận nghịch, chúng ta mới phát hiện được chân lý, tức thấy được sự thực của cuộc đời.

Mười đại đệ tử thể hiện pháp tu Thanh văn Tiểu thừa, nhưng thực sự các Ngài căn tánh Đại thừa. Xuất hiện trên sân khấu cuộc đời, đối trước những người mang tâm niệm chán đời, các Ngài phải khoác chiếc áo tiêu cực yếm thế để giáo hóa, lần khai ngộ cho họ.

 Sự thật tâm hồn các Ngài thật cao thượng, đã cùng với Phật dấn thân trên vạn nẻo đường đời, tích cực trợ lực cho Phật trong việc tuyên dương chánh pháp, mới tạo được uy tín rộng lớn cho Tăng đoàn thời bấy giờ. 

Công đức, hạnh nguyệntrí tuệ của các Ngài như Phật xác định trong kinh Pháp Hoa rằng ngoài đức Như Lai, không ai có thể thấu biết được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15911)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14346)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13440)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13152)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16066)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16319)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11776)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17469)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12795)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13582)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12788)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14776)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16245)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12660)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12691)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14029)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14020)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12292)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10932)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13121)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13798)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13065)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13409)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13816)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13596)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16163)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11873)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12873)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12658)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10981)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12520)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11231)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant