Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 7 Quán Chúng Sinh

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6965)
Phẩm 7 Quán Chúng Sinh

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 7. QUÁN CHÚNG SANH

I. LƯỢC VĂN KINH

 Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật rằng : “Bồ tát quán sát chúng sanh như thế nào ?”.

Duy Ma Cật đáp : “Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra, Bồ tát quán chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như ánh nắng dợn, như mây giữa hư không, như bọt nước, như cây chuối bền chắc, như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như căn thứ bảy, như tam độc của A la hán, như tham giận phá giới của Bồ tát chứng vô sanh nhẫn, như tập khí phiền não của Phật, như người mù thấy sắc tướng v.v... Bồ tát quán sát chúng sanh cũng như thế đó”. 

Ngài Văn Thù hỏi : “Nếu Bồ tát quán sát như thế phải thực hành lòng từ thế nào ?”.

Duy Ma Cật đáp : “Bồ tát quán sát như thế rồi tự nghĩ rằng ta phải vì chúng sanh nói pháp như trên. Đó là lòng từ chân thật. Thật hành lòng từ tịch diệt bởi vì không sanh. Thật hành lòng từ không nóng bức, bởi không có phiền não. Thật hành lòng từ bình đẳng, bởi ba đời như nhau. Thật hành lòng từ A la hán vì phá các giặc kiết sử. Thật hành lòng từ Bồ tát vì an vui chúng sanh. Thật hành lòng từ Như Lai vì được tướng như như. Thật hành lòng từ của Phật vì giác ngộ chúng sanh. Thật hành lòng từ không có chi sánh bằng vì đoạn các ái kiến. Thật hành lòng từ không nhàm mỏi, quán KHÔNG, vô ngã. Thật hành lòng từ pháp thí, lòng từ trì giới, lòng từ nhẫn nhục, lòng từ tinh tấn, lòng từ Thiền định, lòng từ trí tuệ v.v... Lòng từ của Bồ tát là như thế đó”.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi sao gọi là lòng bi ?

Duy Ma đáp : Bồ tát làm công đức gì cốt để cho chúng sanh.

- Sao gọi là lòng hỷ ?

- Có lợi ích đều hoan hỷ, không hối hận.

- Sao gọi là lòng xả ?

- Những phước báo đã làm không có hy vọng quả báo cho riêng mình.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi : “Sự sanh tử đáng sợ, Bồ tát nên nương vào đâu ?”.

Duy Ma đáp : “Bồ tát nên nương vào công đức lực của Như Lai”.

- Bồ tát muốn nương vào công đức lực của Như Lai, nên trụ vào đâu ?

- Nên trụ ở việc độ thoát tất cả chúng sanh.

- Muốn độ chúng sanh, nên trừ bỏ những gì ?

- Nên trừ bỏ những phiền não của mình v.v...

- Pháp thiện và pháp bất thiện lấy gì làm gốc ?

- Cái thân là gốc.

- Thân lấy gì làm gốc ?

- Tham dục là gốc.

- Tham dục lấy gì làm gốc ?

- Phân biệt quấy bậy là gốc, tư tưởng điên đảo là gốc, không có chỗ trụ là gốc. Văn Thù Sư Lợi, do nơi gốc không có chỗ trụ, người ta tạo ra tất cả pháp !”

Lúc ấy, trong nhà Duy Ma có một Thiên nữ thấy các vị Trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung rải hoa trời trên mình các vị Bồ tátThanh văn. Khi hoa đến mình các vị Bồ tát đều rơi hết, đến các vị Thanh văn đều dính lại. Các Ngài dùng thần lực phủi hoa, mà hoa cũng không rớt.

Lúc ấy Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất tại sao phải phủi hoa. Xá Lợi Phất đáp vì hoa này không như pháp, nên Ngài phủi.

Thiên nữ nói : Chớ bảo hoa này không như pháp, vì hoa này không có phân biệt. Tự Ngài phân biệt mà thôi. Nếu người xuất gia ở trong Phật phápphân biệt là không như pháp. Nếu không phân biệtnhư pháp. Hãy xem các vị Bồ tát có dính hoa đâu ? Vì đã đoạn hết tưởng phân biệt v.v... Do tập khí kiết sử chưa dứt nên hoa mới dính nơi thân. Còn người kiết tập hết rồi, hoa không dính được.

Xá Lợi Phất hỏi : Thiên nữ ở nhà này đã được bao lâu ?

- Tôi ở nhà này cũng như Ngài được giải thoát.

- Ở đây đã lâu vậy sao ?

- Ngài giải thoát cũng lâu lắm sao ?

Xá Lợi Phất lặng thinh không đáp.

Thiên nữ nói : Tại sao vị trí tuệ bậc nhất lại im lặng ?

- Giải thoát không có ngôn thuyết, nên ta không biết nói làm sao.

Thiên nữ nói : “Ngôn thuyết, văn tự đều là tướng giải thoát. Vì giải thoát không có ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên. Văn tự cũng vậy. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất chớ nên rời văn tự mà nói giải thoát, vì tất cả pháp là tướng giải thoát”.

Xá Lợi Phất hỏi : Không cần ly dâm, nộ, si được giải thoát sao ?

Thiên nữ đáp : Phật vì kẻ tăng thượng mạn nói ly dâm, nộ, si là giải thoát. Nếu với kẻ không tăng thượng mạn thì Phật nói tánh của dâm, nộ, si là giải thoát.

Xá Lợi Phất nói : “Hay thay Thiên nữ, nàng chứng cái gì mà biện tài như thế ?”

Thiên nữ đáp : “Tôi không được, không chứng mới được biện tài như thế. Nếu có được, có chứng thì ở trong Phật pháp là kẻ tăng thượng mạn”.

Xá Lợi Phất hỏi : “Ở trong ba thừa, nàng cầu thừa nào ?”

Thiên nữ nói : “Cần pháp Thanh văn để hóa độ chúng sanh, tôi làm Thanh văn. Cần pháp nhân duyên để hóa độ, tôi làm Bích Chi Phật. Cần pháp đại bi để hóa độ chúng sanh, tôi làm Đại thừa. Thưa Xá Lợi Phất, như người vào rừng chiêm bặc chỉ ngửi thấy mùi chiêm bặc, không có mùi hương nào khác v.v... Thưa Ngài Xá Lợi Phất, tôi ở nhà này đã 12 năm chưa từng nghe nói pháp Thanh văn, Bích Chi Phật. Chỉ nghe đại từ đại bi của Bồ tát và những pháp bất khả tư nghì của chư Phật”.

“Xá Lợi Phất, trong nhà này thường hiện ra tám pháp chưa từng có, khó được :

1.- Nhà này thường dùng hào quang màu vàng ròngsoi sáng. Chẳng dùng ánh sáng mặt trời mặt trăng.

2.- Khi người ta vào nhà này, chẳng bị các thứ cấu nhơ làm rối loạn.

3.- Nhà này thường có Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương, chư Bồ tát các phương khác nhóm họp không dứt.

4.- Nhà này là nơi thường thuyết giảng sáu pháp ba la mật.

5.- Nhà này là nơi thường trổi nhạc bậc nhất của trời người, vang ra vô lượng pháp âm.

6.- Nhà này có bốn kho tàng lớn chứa đầy món báu giúp cho kẻ nghèo. Hễ cầu liền được, không bao giờ hết.

7. Nhà này Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc v.v... vô lượng chư Phật mười phương đều hiện đến. Khi vị Thượng nhơn đây tưởng niệm các Ngài, các Ngài thuyết tạng pháp bí yếu của chư Phật. Thuyết xong, các Ngài trở về.

8.- Nhà này tất cả cung điện của chư Thiên và các Tịnh độ của chư Phật đều hiện ở trong đây.

Thưa Xá Lợi Phất, nhà này thường hiện ra tám pháp chưa từng có, khó được như thế. Ai thấy được việc không thể nghĩ bàn đó, mà lại còn ham ưa pháp Thanh văn sao ?”. 

Xá Lợi Phất nói : “Vì sao cô không chuyển thân nữ thành thân nam ?”

Thiên nữ đáp : “12 năm nay tôi kiếm mãi cái tướng nữ nhân không được. Tại sao phải chuyển ?” Ví như nhà huyễn thuật hóa ra một người nữ huyễn. Nếu có người hỏi rằng : Sao không chuyển thân nữ đó đi. Vậy người đó hỏi có đúng chăng ?”.

Xá Lợi Phất đáp : “Không đúng, huyễn hóa không có tướng nhất định. Còn phải chuyển đổi gì nữa”.

Thiên nữ nói : “Tất cả pháp cũng như thế, không có tướng nhất định. Tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ ?”.

Tức thì Thiên nữ dùng sức thần thông biến Xá Lợi Phất thành Thiên nữ. Thiên nữ lại tự hóa mình giống Xá Lợi Phất mà hỏi rằng : “Tại sao Ngài không chuyển thân nữ đi ?”

Xá Lợi Phất đáp : “Ta nay không biết tại sao lại biến thành thân đàn bà này ?”.

Thiên nữ nói : “Thưa Xá Lợi Phất, nếu Ngài chuyển được thân đàn bà đó, thì tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được. Như Xá Lợi Phất không phải người nữ mà hiện thân nữ, thì tất cả người nữ cũng lại như thế, tuy hiện thân nữ mà không phải người nữ. Vì thế, Phật nói tất cả các pháp không phải đàn ông, không phải đàn bà”.

Bấy giờ, Thiên nữ thu nhiếp thần lực, thân Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất : “Tướng đàn bà bây giờ ở đâu ?”

Xá Lợi Phất đáp : “Tướng đàn bà không ở đâu, mà ở tất cả”.

Thiên nữ nói : “Tất cả pháp cũng như thế, không ở đâu mà ở tất cả”.

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ : “Nàng chết rồi sẽ sanh ở đâu ?”.

Thiên nữ đáp : “Phật hóa sanh thế nào, tôi cũng hóa sanh thế ấy”.

Xá Lợi Phất nói : “Phật hóa sanh, không phải chết rồi mới sanh”.

Thiên nữ nói : “Chúng sanh cũng thế, không phải chết rồi mới sanh”.

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ : “Bao lâu cô sẽ chứng được Vô thượng chánh đẳng giác ?”.

Thiên nữ đáp : “Khi nào Xá Lợi Phất trở lại phàm phu, tôi sẽ được Vô thượng chánh đẳng giác”.

Xá Lợi Phất nói : “Có khi nào ta trở lại phàm phu”.

Thiên nữ nói : “Có khi nào tôi lại được Vô thượng chánh đẳng giác. Vì sao ? Vì bồ đề không xứ sở, nên không có được”.

Xá Lợi Phất nói : “Hiện nay các Phật chứng Vô thượng Bồ đề, các Phật đã chứng, sẽ chứng nhiều như số cát sông Hằng gọi là gì ?”

Thiên nữ đáp : “Đó là theo số mục văn tự ở đời mà nói có ba đời, chớ không phải nói Bồ đềquá khứ, vị lai và hiện tại”.

- Thưa Xá Lợi Phất, ông có đắc quả A la hán không ?

- Không được mà được.

Thiên nữ nói : “Các Phật, Bồ tát cũng như thế, không được mà được”.

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất : “Thiên nữ này đã từng cúng dường 92 ức đức Phật, đã được thần thông du hý của Bồ tát, nguyện lực đầy đủ, chứng vô sanh nhẫn, không thối chuyển. Vì theo bổn nguyện, nên tùy ý hiện ra để giáo hóa chúng sanh”.

II. GIẢI THÍCH

Sau khi Văn Thùchúng hội xem Duy Ma phô diễn khả năng siêu việt hay lực bất tư nghì giải thoát của đại Bồ tát, Văn Thù hỏi Duy Ma đứng lập trường siêu việt nghĩ gì về chúng sanh. Nghĩa là từ những điều Văn Thù thấy được trong thế giới Bồ tát gợi cho Ngài nảy sanh nhận thức thế giới quan Bồ tát bất tư nghì. So với thế giới quan phàm phu, thế giới này hoàn toàn khác. Ở đây, mở ra hai loại hình thế giới, thế giới lý tưởngthế giới thực tế.

 Bồ tát đầy đủ thần thông, nhưng trở về thực tế sống với chúng sanh phải giải quyết thế nào, thấy chúng sanh ra sao ? Đó là vấn đề chuyển biến đặt ra mở đầu cho phẩm này.

Theo quan niệm từ trước đến nay, trên căn bản ta tu hành, thường xem chúng sanh chướng ngăn chánh đạo. Chúng sanh thuộc sanh tử môn và Niết bàn thuộc giải thoát môn, là hai thái cực, hai thế giới hoàn toàn riêng biệt. 

Chúng sanh là cái gì đáng ghê sợ. Một người, ta còn sợ, huống chi nhiều người. Hay nhìn thấy loài người còn ngán, kể gì đến loài khác. Tất cả hàm linh đủ kiểu. Hóa độ thế nào cho xuể.

Vì vậy, chúng ta thường nghĩ muốn giải thoát phải từ bỏ chúng sanh, từ bỏ sanh tử. Thuở mới tu, tôi vẫn mang tâm niệm này. Phật tại thế, tâm niệm của Thanh văn cũng giống như vậy, mà Ca Diếp là người tiêu biểu như chúng ta vừa thấy trong phẩm 6.

Thanh văn nhìn chúng sanh là đối tượng đáng sợ, thì Duy Ma khai ngộ khác. Duy Ma trả lời Văn Thù rằng Ngài quán thấy tất cả chúng sanh như nhà ảo thuật nhìn những vật do mình biến hóa ra. Nghĩa là chúng sanh được coi như một cái gì lệ thuộc Bồ tát

Từ chúng sanh là một cái đáng sợ, Duy Ma nâng lên một nấc, coi nó như vật mình tự biến tạo. Vì Ngài đứng trên lập trường quả môn hay bản thể môn nhìn xuống hiện tượng giới. Tất cả hiện tượng đều phát xuất từ bản thể hay nói khác do mình tạo ra. Vì mình là bản thểchúng sanhhiện tượng.

 Ở lập trường tu chứng, Bồ tát thấy chúng sanh do Bồ tát bất tư nghì giải thoát biến hóa, hay tất cả hiện tượng đều do bản thể sanh ra. Ví như người làm ảo thuật nhìn vật do họ biến hóa, chắc chắn họ không ưa thích hay sợ vật giả đó. 

Nói cách khác, phàm phu ham mê vật thế gian. Thanh văn thì sợ vật thế gian, trong khi Bồ tát bất tư nghì giải thoát thấy vật do mình tạo ra, nên không sợ, không mê. Tuy nhiên, khi ta còn phàm phu mà tự cho rằng chúng sanh do ta biến hóa, là rớt vào tăng thượng mạn

Chúng sanh trên dạng bản thể bất sanh, bất diệt, bất biến. Nếu đứng ở lập trường này, ta là người bất tử, thì ta thấy chúng sanh là những hiện tượng xảy ra nhất thời. Quá khứ, hiện tại, vị lai tiếp nối nhau sanh và chết, không có gì vĩnh cửu. Tuy nó sanh diệt, nhưng không rời bản thể.

Chúng sanh từ nghiệp hay vô minh sanh nên cái thấy đổi khác. Hiện tượng vốn sanh diệt, luôn luôn thay đổi. Ta lại mang thêm cặp kính nghiệp để thấy khác nữa, là tạo thêm một tầng sai biệtThiền sư diễn tả cái thấy biết lệch lạc của chúng sanh bằng câu “Đừng tìm tri thức trong mộng”.

 Con người trong một thời gian nhất định của mạng sống hạn hẹp nằm trong thời gian vô tận, giống như một giấc mơ nằm trong khoảng ngắn của cuộc đời. Ta lạc vào một cơn mộng xa rời bản thể để có hiện tượng giới. Con người trên hiện tượng so với con người bản thể chẳng khác nào con người nằm mộng trong giấc mộng của con người. Nếu so với mạng sống bất tử của Bồ tát, thì mạng của ta trên sanh diệt, quả là cách nhau quá xa.

Cái thấy của chúng sanh sai khác, biến đổi liên tục tùy theo hành nghiệp. Và hành nghiệp phát xuất từ vô minh. Duy Ma ví cái thấy này như người lữ hành thấy nước trong sa mạc có thật. 

Theo Phật, nhân duyên hòa hợp tạo thành tất cả. Từ sa mạc biến thành nước, từ nước biến thành hư không, v.v... Nếu ta biết phát huy và vận dụng năng lực, sẽ có nước. Trên mặt bản thể, nước và sa mạc không khác. Còn trên hiện tượng, tùy theo nghiệp thấy hoàn toàn khác. 

Duy Ma bảo Ngài thấy chúng sanh như cái lõi của cây chuối, nghĩa là do tu chứng thấy cái thật trên cuộc đời. Bồ tát thấy chúng sanh khác hơn chúng sanh thấy chúng sanh

Một chúng sanh nhìn chúng sanh dưới mọi dạng thức khác nhau, rồi khởi niệm vui buồn giận khổ. Cuối cùng các pháp tương đối này ràng buộc họ, không còn lối thoát, rơi vào cùng tột khổ đau. 

Rõ ràng đối với chúng sanh, thương hay ghét đều làm họ khổ. Nói chung, mọi suy nghĩ dẫn đến quả khổ là phương cách chúng sanh quán sát chúng sanh qua lăng kính thiện nghiệpác nghiệp, thấy có người dễ thương và không dễ thương

Hàng nhị thừa trụ pháp KHÔNG, không thương không ghét, tâm dửng dưng trước sự vật, chỉ lo tu, nên thấy chúng sanh không có. Hai cái thấy của phàm phu và Thanh văn là hai thái cực Chân đếTục đế

Thanh văn đứng ở lập trường Chân đế, ly trần nên trần ai không dính vô. Chúng sanhTục đế hiệp trần, bị trần làm ô nhiễm

Bồ tát tu hành phát xuất từ Tục đế, tiến đến Chân đế và từ Chân đế trở về Trung đế của Bồ tát, đạt được đệ nhất nghĩa đế.

 Bồ tát khởi đầu tu, thấy chúng sanh y như chúng sanh thấy. Giai đoạn hai, Bồ tát thấy chúng sanh như Thanh văn thấy không có gì. Sau đó, nảy sanh cái thấy thứ ba, thấy chúng sanh theo Bồ tát. Bỏ hai cái thấy trước cũng không có Trung đế. Bồ tát thấy chúng sanh như không có, vì an trụ pháp KHÔNG

Tại sao chúng sanh không thật có ? Dưới kiến giải của Bồ tát, trước khi sanh, chúng ta không có, gọi là KHÔNG. Nhưng hiện hữucuộc đời, chúng ta cũng không tồn tại vĩnh viễn mà thay đổi từng giờ từng phút. Cuối cùng trả hơi thở cho gió, ta không còn gì. Trước KHÔNG, sau KHÔNG, niệm giữa không dừng, nên toàn bộ đều KHÔNG. 

Trước mắt Bồ tát, tuy vô số chúng sanh, nhưng không có. Vì các chúng sanh này đều nằm dưới dạng sanh diệt, có mà không có, hay giả có. Nói cách khác, Bồ tát thấy sự vật theo nhân duyên, thấy tướng chân thật từ KHÔNG hiện có, từ có trả lại KHÔNG. 

Chúng sanh không có tánh hằng hữu, nên không thể nói một người tốt hay xấu. Họ có thể vừa tốt vừa xấu, xấu với người này nhưng tốt với người khác. 

tánh không hằng hữu nên tùy người, tùy nghiệp, nghĩa là tùy đối tượng mà tướng chúng sanh sanh diệt, hiện ra sai khác.

 Ý thức được điều này, khi ta bị người đối xử tệ, nếu biết đổi tánh xấu, người sẽ tốt với ta. Đức Phật dạy chúng sanh không có tánh cố định, nếu cố định không thể tu thành Phật.

 Bồ tát quán sát như vậy, không sanh tâm tham đắm. Chúng sanh hiện hữu từ đâu và mất về đâu là cách nhìn của Bồ tát.

 Bồ tát nhìn chúng sanh trên hiện tượng hoàn toàn giả, do mình biến hóa, tức từ bản thể khởi hiện tượng. Bồ tát truy nguyên chỗ phát xuất và chỗ trở về, nghĩa là giải quyết tận gốc. Vì thế, việc giáo hóa chúng sanh của Duy Ma không giống Bồ tát sơ phát tâm.

 Chúng ta thấy người khổ, phát tâm giúp. Ngày mai lại thấy nó khổ, giúp nữa. Giúp hoài vẫn thấy chúng sanh khổ y nguyên. Giáo hóa chúng sanh như vậy, chẳng mấy chốc Bồ tát sẽ thoái chuyển. Đó là Bồ tát đứng trên hiện tượng giáo hóa chúng sanhhiện tượng. Đối với Duy Ma, làm vậy không ích lợi gì. 

Chúng ta mới phát tâm nhiệt tình lắm. Nhưng trải qua một thời gian hành đạo, cảm thấy ngán, không muốn làm gì. Chúng ta ngồi yên suy tư lời Phật dạy, bỗng giáo lý bừng sáng trong tâm. Theo cái thấy mới phát hiện từ bản tâm thanh tịnh này mà tu hành, chúng ta nhận được những kết quả ngoài suy luận bình thường. Nhận ra những việc làm tính toán trước kia của chúng ta hoàn toàn vô ích, khổ công nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu. Thiết nghĩ chúng ta học nhiều, tu đủ thứ, nhưng dùng được pháp nào là việc quan trọng. Và nhất là phải quán sát thấy được chỗ khởi tu của mình, mới đi lần vào thế giới Phật được.

Từ giả có của hiện tượng, Bồ tát thấy chúng sanh bên ngoài là KHÔNG. Tiến lên một nấc, Bồ tát quán sát bên trong thấy tồn tại của con người mang tính di truyền tiếp nối từ đời này sang đời khác, gọi là sinh mệnh tương tục. Thân con người chết xác này sanh thân khác, nhưng vẫn tồn tại cái hằng hữu bên trong. Tồn tại của hằng hữu này ở đâu ? Chỉ có mắt huệ nhìn thấy được, như Thiền sư Nhật Bản diễn tả :

 Bốn mùa hoa đều nở

 Chẻ cây hoa ở đâu

Bồ tát chứng được cái hằng hữu là chơn tánh nằm ngoài khả năng vói tới của ngoại đạo, Thiên ma. Phật dạy chơn tánh này khi chúng ta còn là phàm phu, nó không nhỏ và lúc chúng ta thành Phật nó cũng không lớn. Bồ tát thấy được chơn tánh bất sanh bất diệt và sống với chơn tánh hình thành thế giới Cực Lạc.

Dưới dạng thật tánh, Bồ tát thấy Phật, chúng sanh và Ngài, cả ba không hề khác nhau, Ngài không giáo hóa mà thật giáo hóa. 

Trên dòng sanh diệt từ quá khứ dẫn đến hiện tạilũy kiếp trong tương lai, tâm chúng sanhBồ tát luôn tương ưng để tồn tại dưới dạng quyến thuộc. Ở lập trường tứ đại ngũ uẩn, thì có muôn ngàn sai khác, chúng muốn làm gì cũng được. Ngược lại, ở lập trường thật tánh thì Phật, chúng sanhBồ tát không có một niệm xa rời. Chính vì vậy, Bồ tát thấy chúng sanh không có, nhưng vẫn không từ bỏ tâm đại bi.

Theo Duy Ma, chúng ta không nắm bắt được chân lý, mà cứ phân biệt trên sanh diệt là cái không có, chẳng ích lợi gì. Vì vậy, Duy Ma nói với Văn Thù rằng Bồ tát quán chúng sanh như lõi cây chuối. Cây chuối làm gì có lõi. Lột hết bẹ là hết. Chúng sanh sanh diệt nằm trong ngũ uẩn thân cũng vậy, mất thân ngũ uẩn là hết. 

Từ lập trường Bồ tát của Duy Ma nhìn về chúng sanh, hay cao hơn từ lập trường Phật của Thiên nữ nhìn về chúng sanh, thì xuất gia hay tại gia đều là chúng sanh sanh diệt, không có gì đáng quan tâm

Điều đáng quan tâm là người tạo ra hình chúng sanh, tức là nghiệp. Biết được nghiệp tạo hình, chúng ta chuyển từ gốc nghiệp này. Không nặn hình chúng sanh, thì làm gì có chúng sanh

Chúng ta thường rớt vào sai lầm, tu thật cực khổ, nhưng không diệt nghiệp, cũng kể như vô ích. Bồ tát quán chúng sanh như cây chuối lột hết bẹ không còn, nghĩa là không thật hữu. 

Bồ tát cũng quán chúng sanh như giấc mơ, tức thay đổi, không có thật. Thân này có được do ý thức sanh ra, do phân biệt hiểu biết con người tạo ra ngũ ấm. Ý thức có, thì vật hiện hữu. Ý thức không, thì vật cũng không.

 Bồ tát quán chúng sanh như nước trong sa mạc không thật, chúng sanh do khát áivô minh sanh ra. Tuy quan sát chúng sanh không thật có, do nghiệp mà thành, Bồ tát vẫn giáo hóa chúng sanh bằng cách tự hóa giải nghiệp của mình cho sạch. Khi nào nghiệp của Bồ tát hoàn toàn tiêu, thì chúng sanh trong sa mạc sanh tử cũng không còn. 

Ngoài ra, Duy Ma xác định Ngài thấy chúng sanh như Đại thứ năm, như Thức thứ bảy, như Nhập thứ 13, như Giới thứ 19, v.v... Trong khi Phật dạy chúng ta tu chỉ có 4 đại, 6 thức, 12 nhập, 18 giới. Chỗ này không khéo, ta dễ hiểu lầm là không có. 

Đại thứ năm, Thức thứ bảy, Nhập thứ 13, Giới thứ 19, ý muốn chỉ những cái nằm ngoài phương tiện của chúng ta, nằm ngoài sự nhận thức của con người nên gọi là bất tư nghì. 

Sự thực của nó chúng ta không thấy hay không diễn tả được mà kinh Pháp Hoa nói tất cả pháp tướng thường tự vắng lặng. Cái vắng lặng này được Duy Ma diễn tả bằng những gì nằm ngoài pháp Phật đã dạy là Đại thứ năm, Thức thứ bảy v.v... Những cái không có trên cuộc đời, nhưng là sự thật.

 Những pháp vắng lặng này được Duy Ma gợi lên, để chúng ta có khái niệm về sự tu hành của Bồ tát. Cái chúng ta thấy không có là cái thấy có của Bồ tát, một việc làm vượt hiểu biết phàm phu. Vì vậy, Bồ tát hành đạo không giống chúng sanh hành đạo. Kinh Pháp Hoa diễn tả sự sai biệt này bằng câu “Bất như tam giới kiến ư tam giới”.

Thanh văn an trú pháp KHÔNG nghe pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát là KHÔNG, dễ hiểu lầm giống pháp KHÔNG của họ. Văn Thù hỏi Duy Ma về pháp KHÔNG của Bồ tát. Hai thượng thủ này vấn đáp với nhau nhằm mục tiêu khai ngộ cho mọi người tu hành.

 Pháp KHÔNG của Thanh văn tu, không làm và không để tâm việc làm của thế gian, không dính líu cuộc đời, xem cuộc đời là không có. Duy Ma nâng pháp KHÔNG của Thanh văn lên một nấc, KHÔNG nằm ngoài CÓ, không phải CÓ và KHÔNG đối lập nhau. Tuy nằm ngoài mà bao bọc vạn vật nên vận dụng được vạn vật theo ý của Bồ tát.

Văn Thù đọc được tâm niệm của Thanh văn liền hỏi Duy Ma thêm : Nếu thấy tất cả vật trên cuộc đời hoàn KHÔNG thì các Ngài hành Bồ tát đạo làm gì ? Tu rồi cũng chết, sao lại tu ? Và việc làm của Bồ tát có giống công tác của dã tràng xe cát cho sóng lên cuốn trôi hết hay không ?

 Thanh văn nhìn việc hành đạo của Bồ tát là công dã tràng, là người trong sanh tử độ người sanh tử. Trên bước đường tu, ta không hiểu lý này dễ rớt thành công dã tràng, tu nhiều không có công đức sanh ra chán nản. 

Bồ tátlập trường bất tư nghì hành đạo, nhìn chúng sanh khác, nên việc làm cũng khác. Vấn đềlợi ích và không lợi ích được đặt ra. Nếu thấy cứu chúng sanh rồi chúng sanh cũng chết, thì đừng cứu. 

Từ gợi ý này, Duy Ma giảng dạy cho chúng ta thấy vấn đề cứu vớt chúng sanh của Bồ tát, của Phật, để chúng ta tùy hỷ việc làm của các Ngài. 

Cùng một việc giúp đỡ, nhưng người được trả ơn, còn ta bị trả oán. Theo Duy Ma muốn thấy vấn đề, phải đứng ở lập trường giải thoát hay quả môn mới thấy. Còn ở lập trường chúng sanhtu pháp Bồ tát, chỉ là nhà từ thiện xã hội, không phải Bồ tát thật. 

Bồ tát đứng trên lập trường KHÔNG mà giáo hóa, không phải ở lập trường HỮU giáo hóa. Vì ở lập trường hữu, chúng sanh giáo hóa chúng sanh, không thể giải thoát. Ta là người, họ cũng là người. Ta giúp họ, cuối cùng họ chết và ta cũng chết. Nghĩa là tu hành giáo hóa trong sanh tử, không khác gì tu trong mộng, chẳng đắc đạo bao giờ.

 Trên cuộc đời, chúng ta làm gì cũng rớt qua chỗ mộng. Vì chúng ta không nằm trong quỹ đạo của Bồ tát, nên việc làm của chúng ta hoàn toàn khác.

Chúng sanh ở dạng không sanh diệt mới thật là đối tượng của Bồ tát giáo hóa. Duy Ma gợi ý này cho Thanh văn phát tâm

Thông thường, phải có vật ta mới điều chỉnh vật theo ý muốn. Hay phải có đối tượng mới vận dụng đối tượng này để giáo hóa.

 Ta nhìn thấy chúng sanh là thật, ta mới giáo hóa được. Nhưng Phật lại dạy mọi vật trên thế gian đều KHÔNG. Nếu chúng sanh không thật, mà ta phải giáo hóa, thì việc làm này đi về đâu ? Đó là vấn đề Thanh văn không giải quyết được.

 Giáo hóa thì phải thấy thật và nếu thấy thật lại rớt qua thật hữu của chúng sanh phàm phu. Và lâu ngày bị tham sân phiền não chi phối, chắc chắn lọt vào trần ai. Đó là điều mà Thanh văn ghê sợ

Còn nói KHÔNG thì cần gì làm. Ở điểm này, Duy Ma dạy đạt đến quả vị A la hán phát tâm bồ đề, mới thấy được thật hữu. Kinh Pháp Hoa gọi là ra khỏi nhà lửa, đến khoảng đất trống, tức chơn không, KHÔNG này là thực tướng các pháp. Nếu KHÔNG suông, không có gì là NGOAN KHÔNG hay giả danh A la hán. Đạt đến chơn không, chúng sanh sẽ hiện ra khác với chúng sanh lúc ta mới tu.

Cái thấy của người đắc đạo được diễn tả bằng hình ảnh trước khi tu thấy núi là núi, sông là sông. Đắc đạo rồi, thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Cái thấy sau cùng núi vẫn là núi, sông vẫn là sông nằm bên kia tri thức phàm phu

Vì vậy, đắc A la hán nhìn thấy chúng sanh ở dạng khác, không thể thấy theo mắt thường. Lúc ấychúng sanh không có cảm giác bị giáo hóa hay bị chi phối, mới thật là giáo hóa.

 Như khi còn là thái tử Sĩ Đạt Ta, chưa thành đạo, Phật sống chung với năm anh em Kiều Trần Như cũng không hòa được với họ. Nhưng khi thành đạo nghĩa là đứng trên lập trường bất tư nghì giải thoát, Ngài đến với họ. Tự nhiên họ kính phục, đảnh lễ Phật dù Ngài chưa nói một lời nào và thỉnh Phật thuyết pháp. Sau đó, Ngài độ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp v.v... Và sự giáo hóa của Phật lan rộng nhẹ nhàng cả xứ Ấn Độ.

 Qua hiện tượng lịch sử này, tu sĩ Phật giáo phát triển nhận chân được lực giáo hóa của Phật ở dạng bản thể. Họ đã vận dụng ý này để phê phán sự tranh chấp hơn thua giữa Thượng tọa bộĐại chúng bộsai lầm

Đắc đạo và chưa đắc đạo cũng là một con người, không phải người khác. Nhưng Thanh văn nghĩ rằng Phật đắc đạo thành con người khác là sai. Chúng ta ở trong sanh tử nghĩ Phật là con người, cũng sai. 

Ở đây muốn diễn tả người sanh tử không giáo hóa được người sanh tử. Hay nói khác, muốn giáo hóa chúng sanh sanh tử phải đứng trên bản thể, nhìn sự vật đúng hoàn toàn. Từ đó trở lại thực tế mượn nhân vật Duy Ma là người sống đã đạt đến trạng thái giải thoát của người không sanh tử giáo hóa được mọi người ở thành Tỳ Da Ly, để diễn tả ý này. 

xa hơn nữa, Duy Ma không cần mặc áo Sa môn cho người theo. Vì khoác chiếc áo tu để người nghe theo, chẳng khác gì lừa dối người và tự lừa dối mình. 

Duy Ma dưới lớp áo cư sĩ, nhưng chứng ngộ giải thoát, được mọi người quy phục kính ngưỡng. Ngài là nhân vật mà Phật giáo phát triển đưa ra nhằm phá bỏ ý tưởng chấp chặt hình thức

Tư tưởng mới đưa ra hình ảnh cư sĩ nói pháp giáo hóa hơn chư Tăng, còn được đẩy mạnh xa hơn nữa bằng cách mượn hình ảnh Thiên nữ hiện thân trong nhà Duy Ma rải hoa trời trên mình các vị Bồ tátThanh văn

Theo quan niệm của Ấn Độ thời bấy giờ, người nữ không làm được gì. Trong kinh Pháp Hoa, Xá Lợi Phất nói rõ người nữ có năm điều chướng không thể thành Phật

Dưới kiến giải của Phật giáo phát triển, chẳng những cư sĩ mà cả người nữ đều có những cái phi thường, nếu họ chứng được bản thể, nắm được quy luật, điều động được sự vật. Trên hiện tượng sanh diệt, thì thân tướng có muôn ngàn sai khác; nhưng ở dạng bản thể, tất cả các pháp đồng nhau không khác. Ai nắm được quy luật, người đó thành chủ tể

Ý niệm Thiên nữthần thông biến hóa không lường, bằng với Phật, qua câu nói của Thiên nữ “Phật sanh sao, tôi sanh vậy”, nhằm phá hủy tâm phân biệt giữa xuất giatại gia, Chơn đếTục đế, tướng nam và tướng nữ. 

Ý niệm Thiên nữ bằng với Phật trong kinh Duy Ma, được triển khai thành Long nữ trong kinh Pháp Hoa. Long nữ thành Phật trong chớp mắt hay hình ảnh Đức Quan AÂm thể hiện lòng từ bi đối với chúng sanh dưới 33 thị hiện thân, trong đó có thị hiện thân người nữ. 

Văn Thù hỏi Duy Ma sanh tử đáng sợ, Bồ tát nương vào đâu để hành Bồ tát đạo, nương gì để tu hành ? Đó chính là vấn đề quan trọng đối với chúng ta

Trên bước đường tu, có những lúc tôi cảm thấy chới với, rơi vào hố thẳm của nhận thức, cố tìm Phật nhưng không thấy Phật ở đâu. Thiệt là khổ ! 

Người thực tu thường gặp tâm trạng này. Tu bằng tất cả tâm huyết, nhưng khó thấy đạo. Đến đâu cũng thấy toàn sanh tử, không thấy Phật. Phật Thích Ca cũng sanh tử. Các vị danh Tăng tiền bối hiện diện rồi cũng tịch. Và chính bản thân ta cũng đang đi lần đến cái chết. Không biết tìm cái bất tử ở đâu. Tuổi đời càng lớn, chúng ta càng bước gần đến nấm mồ, mà vẫn chưa tìm thấy được chỗ nương bền chắc. Đó là nỗi khổ tâm lớn, là niềm lo sợ kinh khủng của người tu. Người không tu mặc cho dòng đời trôi, có gì để nói. 

Riêng tôi, có lúc muốn tìm hóc đá nào tu để ra khỏi sanh tử. Vì Phật cứ chập chờn trước mắt, khi hiện có, khi biến mất, như ảo giác. 

 Tâm trạng này của chúng ta được Duy Ma giải tỏa bằng câu nương công đức lực Như Lai thì thoát ly sanh tử. Tuy nhiên, nó lại đưa ra cho chúng ta thêm một vấn đề khó : Như Lai lực là gì, tìm Như Lai lực ở đâu để nương ?

 Duy Ma cho biết tìm Như Lai lực trong chúng sanh hay lấy độ thoát chúng sanh làm chỗ nương. Nương Như Lai lực là trở về hiện hữu của TA và của tất cả mọi người trên cuộc đời. Hiện hữu của TA trên cuộc đờiNhư Lai, bỏ cái này tìm cái khác không có.

 Câu trả lời của Duy Ma “Hiện hữu của TA trên cuộc đời là Như Lai” là câu nói của tư cách Bồ tát đã thành Vô thượng đẳng giác thương nhân gian sanh lại, nói chuyện với người trí tuệ tuyệt luân.

 Riêng chúng ta chưa vượt khỏi Nhà lửa tam giới, thì hiện hữu này vẫn là sanh tử đáng sợ !

Duy Ma cho biếtđộ thoát chúng sanh mới thấy được Như Lai lực, vì Như Laiđộ thoát chúng sanh. Tuy nhiên, thực tế vào đời độ chúng sanh không đơn giản. Làm sao độ được chúng sanh để thấy Như Lai lực ?

 Kinh Kim Cang dạy người thấy Như Lai qua 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp là người tà đạo, không bao giờ thấy Như Lai. Cái khó ở chỗ Như Lai không nằm trong 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, nhưng lìa tướng tốt này cũng không có Như Lai. Bỏ một để tìm một, không được. Con người đầy đủ phước đức trí tuệ bên trong mới hiện thân tướng giải thoát trang nghiêm bên ngoài. Nhưng chấp bên ngoài là thật thì Phật không cho. Vì bên ngoài Chuyển luân Thánh vương cũng có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. 

Như vậy bên ngoài đồng nhau, nhưng bên trong còn hàm chứa khác biệt. Thân và tâm chúng ta không phải là một, nhưng cũng không phải là hai cái khác nhau. Thân tâm kết hợp với nhau để thành một hữu tình.

 Thanh văn nghĩ làm sao để độ thoát chúng sanh. Duy Ma trả lời muốn độ thoát chúng sanh, phải độ mình. Nghĩa là phải trở lại pháp tu ban đầu của Tiểu thừa. Chưa độ mình, nghĩ độ người, là hư vọng. Pháp căn bản chưa xong, mà đòi pháp vô thượng, làm sao có. 

Duy Ma dạy hành giả không có cách nào khác hơn là phải trở lại khởi đầu, diệt tận gốc tham sân phiền não. Nhờ đoạn sạch tham sân phiền não, hành giả hiện tướng giải thoát hay tướng tịch diệt. Tướng tịch diệt này vô hình trung đã giáo hóa chúng sanh

Tinh thần kinh Duy Ma nêu lên quá trình tu hành tất yếu phải như vậy. Duy Ma tiêu biểu cho tịch diệt tướng. Khi hành giả muốn độ chúng sanh, tức khởi niệm tham, nên không độ được. Dẹp tận gốc tâm tham, cho đến ý thức độ chúng sanh cũng không có. Đạt được tâm chứng này, ý thức sai lầm không còn khả năng làm phiền hành giả. Hành giả trở về bản tâm thanh tịnh, bình ổn thực sự.

 Bản tâm thanh tịnhNhư Lai, khởi tâm sanh diệtchúng sanh. Trở về bản tâm thanh tịnh mới tiếp nhận được lực Như Laigiáo hóa chúng sanh dưới dạng Như Lai giáo hóa

Những người sắp giải thoát, nghe được ý này, liền giải thoát. Còn vướng mắc ngữ ngôn văn tự, cứ tiếp tục sống trong sanh diệt. Từ ý này cổ nhân có nói : “Chúng ta sanh diệt trong pháp Như Lai và Như Lai xuất hiện trong sanh diệt của chúng ta”.

 Như Lai xuất hiện trong thân chúng sanh dưới dạng sanh diệt. Nếu quan sát bằng lăng kính Như Lai tạng tâm hay bản thể sự vật thấy chúng ta đang sanh sanh hóa hóa gọi là sanh diệt trong pháp Như Lai. Cảm nhận được ý này, nương được Như Lai lực, tôi hết sợ.

Tuy chúng sanh ở trong sanh tử, Bồ tát phải đứng lên lập trường không sanh tử, tức bản thể của sự vật, để giáo hóa họ. Vì vậy, ta thấy Bồ tát không làm gì, nhưng thật vẫn hành động trên bản thể. Nếu đạt đến pháp KHÔNG, vô tác, vô nguyện và từ bản thể phát tâm bồ đề, thấy chúng sanh dưới dạng bản thể, không phải thấy trên dạng hiện tượng. Đó là giáo hóa dưới dạng bản thể

 Chúng sanh nhờ có bản thể hay Phật tánh, thấy Bồ tát trụ ở bản thể, thì Phật tánh họ bừng lên được, phá phiền não nhiễm ô bên trong, tự giải thoát. Ví như ánh sáng bừng lên, bóng tối tự mất. Hoặc Ngài Nhật Liên ví dụ ý này rằng con chim trong lồng, nghe chim ngoài trời kêu, nó phá lồng bay ra. Vì vậy, giáo hóa của Bồ tát hay Phật dưới dạng bất tư nghì giải thoát, không giáo hóa mà giáo hóa.

Hai vị Bồ tát thượng thủ luận bàn rốt ráo các pháp, tác động cho chúng hội xa rời trần cấu, chứng vô sanh nhẫn. Nghĩa là từ thế giới sanh diệt trở về thể tánh bất sanh, thuộc bất nhị môn, vượt ngoài hiểu biết của con người. Ở đây, tạo ra hiện tượng kỳ diệu là nhà Duy Ma nhỏ mà chứa được vô số Thanh vănBồ tát. Phần này nói về thuyết bất nhị pháp môn

Chuyển tiếp phần hai, đột nhiên xuất hiện một Thiên nữ thể nghiệm thuyết bất nhị. Bấy giờ, Thiên nữ xuất hiện rải hoa cúng dường PhậtThánh chúng

Trước kia Thiên nữ ở đâu ? Chúng ta đã biết kinh Duy Macốt lõi của Thiền, diễn tả tu chứng hoàn toàn trong nội tâm, khó thể hiện bằng lời. Kinh mượn hoạt cảnh Thiên nữ xuất hiện để chỉ tâm Như Lai, nhắc nhở hành giả phải dùng tâm Như Lai mà tu. Hoạt cảnh Thiên nữ tán hoa tiêu biểu sự an lành, hồn nhiên, vui tươi của người tu, tất cả sự vật muôn màu muôn vẻ đẹp tuyệt vời. 

Ý này được Thiền sư Nhật Bản cảm nhận rằng khi tâm yên tĩnh, thì bầu trời hoàn toàn tươi đẹp, không có gì đẹp trên thế gianhành giả không thấy, thiên đường là đây. Nói cách khác, từ trạng thái tâm hồn thanh tịnh thực sự, không còn chút mảy may tham sân phiền não, mới xuất hiện cái đẹp cùng tột, chân thiện mỹ.

 Kế đến, hoạt cảnh vẽ thêm hoa rải xuống mình các Bồ tát đều rơi xuống đất. Hoa trúng vào Thanh văn thì dính luôn. Hoa dính vào Thanh vănThanh văn còn tâm chấp trước

Tâm chấp trước hay tâm phân biệt tốt xấu phải trái làm ta khổ, nó tồn tại trong ta gọi là nhị biên. Người tu Thánh đạo cầu giải thoát, nhưng tâm còn vướng mắc, không giải thoát. 

Văn Thù nhắc muốn giải thoát phải độ chúng sanh. Tách rời chúng sanh, đối lập chúng sanh, vĩnh viễn không giải thoát. Còn có chúng sanh trước mặt phá hoại, được diễn tả bằng hình ảnh hoa không rớt. Hoa này là hoa lòng ở trong tâm, tức những gì còn tồn tại trong lòng chúng ta, không phải hoa bên ngoài.

 Bồ tát không còn vấn đề tồn tại vì đã giáo hóa chúng sanh hội nhập cuộc đời, biến chúng sanh thành Bồ tát thật. 

Thanh văn tu hành, từ bỏ cuộc đời, không giận, ai làm gì mặc ai, họ sống theo họ. Nghĩa là chúng ta còn tồn tại “cái mặc ai” và tồn tại “cái của ta” hay tồn tại “cái ta giải thoát” và “chúng sanh đau khổ”. Tuy bỏ hết phiền não cuộc đời, nhưng còn giữ lại tâm chấp trướctâm từ bỏ cuộc đời

Chấp trước này vướng mắc dữ dội trong tâm, muốn bỏ thì nó càng dính chặt hơn nữa. Kinh diễn tả bằng hình ảnh Thanh văn dùng thần lực phủi hoa cũng không được.

 Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất không lo tu, gỡ hoa làm chi ? Xá Lợi Phất trả lời “Tôi sợ nó”. Lúc trước nó ở ngoài, nhưng sợ riết nó dính vô áo, toàn là hoa cuộc đời bám chặt vào. Sợ đến thâm nhập vào lòng. 

Trên bước đường tu, chúng ta thường vấp phải sai lầm này, không đắc đạo. Ta tu giải thoát, nhưng không được giải thoát. Người khác không tu giải thoát sao lại giải thoát ? Đó là cánh cửa mở ra cho chúng ta thấy hai cách tu của Bồ tátnhị thừa khác nhau. 

Bồ tát lo thanh tịnh hóa tâm, hình thức bên ngoài tùy duyên thay đổi. Thanh văn giữ thân tướng thanh tịnh, nhưng còn nhiều vấn đề tồn tại trong tâm không giải quyết được. Tùy duyên hay tùy hoàn cảnh sống, Bồ tát hành đạo đều lợi lạc giải thoát. Nhưng cố định mô hình nào là cố chấp, đều không giải thoát tiêu biểu bằng hoa dính. Cố công gỡ, nó càng dính khắn vào lòng. Chúng ta buông bỏ, nó tự mất. 

Quy Sơn cảnh sách dạy : “Đản tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân” nghĩa là khi tâm chúng ta không để ý đến vật, nó không có tác dụng đối với ta. Ngược lại, chúng ta sống cách ly, nhưng tâm để vào trần tục, tức thì trần tục ô nhiễm hóa chúng ta :

 Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá

 Thây bụi đời bám đã rồi rơi

 Xem trò thế sự đầy vơi

 Dửng dưng như một nụ cười vô duyên.

Hoa dính hay không, không quan trọng, quan trọng là chúng ta có vướng bận không. Dính bên ngoài chẳng ăn thua gì, sợ nhất dính trong tâm hồn. Bồ tát tiêu biểu tâm hồn thanh tịnh, Thanh văn tiêu biểu hình tướng thanh tịnh

Bồ tát tùy duyên giáo hóa, giải thoát ngay trong cuộc đời. Bồ tát không dính hoa, vì các Ngài không hề có quan niệm về nó. Các Ngài thấy rõ pháp ở hai mặt : sanh diệtbất sanh diệt. Ở trong sanh diệt, tất yếu phải theo định luật sanh diệt. Ở trạng thái Niết bàn phải tịch tĩnh. Đó là hai thế giới giữa thể và dụng. 

Bồ tát đạt vô sanh, không để tâm. Để tâm sẽ vướng mắc. Hoa không dính Bồ tát, tiêu biểu cho tâm các Ngài không kẹt việc tốt xấu trên cuộc đời

Khởi đầu tu, ta tránh xấu tìm tốt thì phải kẹt tốt. Hoa tiêu biểu cho tốt. A la hán bỏ sanh tử về Niết bàn, nên kẹt Niết bàn. Các Ngài phải gỡ thêm một lần nữa là bỏ Niết bàn. Tuy nhiên, bỏ Niết bàn lại rớt qua sanh tử.

 Đối với Bồ tát, Niết bànsanh tử là một. Tâm sanh thì sanh tử, tâm diệt đương nhiên an trú Niết bàn. Vì vậy A la hán còn trụ sanh diệt không phải là A la hán thật. Kinh Pháp Hoa cho biết Niết bàn của A la hánNiết bàn giả. Họ không tự tạo Niết bàn được. Tuy nhiên, nhờ nương theo thanh tịnh giải thoát của Phật, họ cũng giải thoát. Rời Phật, họ sẽ điên đảo vọng tưởng. Ở Kỳ Viên tịnh xá gần Phật được giải thoát. Đến nhà Duy Ma chạm trán với mưa gió của cuộc đời, liền rớt.

 Thanh văn sống trong pháp là Niết bàn giải thoát, nhưng rời pháp Như Lai trở thành sanh tử liền. Từ ý này, kinh Pháp Hoa nhắc hành giả an trú pháp Như Lai sẽ được an lành, là Niết bàn giả, không phải Niết bàn của ta thực chứng.

Đạt đến quả vị Thanh văn, Phật nâng lên, tập cho ta sống xa Phật, xem có thanh tịnh hay không. Sống xa Phật, dùng trí quan sát các pháp xem các pháp có còn chi phối ta hay không. Đó là phương cách tu của Bích Chi Phật.

 Khi Thanh văn sống xa Phật để khám phá thế giới, mới thấy khác hơn bình thường và quay ngược về giai đoạn ba, bước theo Bồ tát làm lợi ích chúng sanh. Tuy nhiên, cần lưu ý là phải làm theo mô hình của Phật, không phải tự làm theo ý ta. Bồ tát này phát xuất từ Thanh văn, Duyên giác, đến Bồ tátBồ tát của tam thừa.

Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất tại sao Ngài phủi hoa. Xá Lợi Phất trả lời rằng gỡ hoa vì nó không hợp pháp. Xá Lợi Phất đứng ở tâm niệm Thanh văn mà nói hoa không hợp pháp, vì không thích hợp với tâm niệm tu hành của Thanh văn. Đối với hàng Thanh văn, tất cả đồ trang sức đều phải bỏ, chỉ sống cuộc đời khổ hạnh.

Thiên nữ trả lời Xá Lợi Phất rằng : “Hoa vô tri, vô giác, hợp pháp hay không là do con người. Tôi nhớ các Ngài tu hành đã xa lìa trần cấu, thành A la hán, lìa tham sân si, rời xa thực tế, thì sao còn thấy thực tế để gỡ bỏ. Tôi nghi ngờ trạng thái chứng đắc của các Ngài quá ! 

“ Phật dạy lẽ sống của người tu là xa rời sanh tử để trở về Niết bàn, hay từ thực tại cuộc sống mà đi sâu vào nội giới tu chứng. Nếu quả thực các Ngài đã đạt đến phần tâm chứng giải thoát, thì liên hệ bên ngoài không còn. Nay tôi thấy liên hệ bên ngoài còn, là các Ngài chưa thật chứng nội giới”. 

Câu chuyện xảy ra giữa Xá Lợi PhấtThiên nữ không có thật. Vì lúc kiết tập kinh Duy Ma, làm gì có Xá Lợi Phất.

 Theo tôi, việc này để diễn tả sự phát huy trí tuệ, tiêu biểu bằng hình ảnh Xá Lợi Phất. Trên quá trình tu hành tìm chân lý, người tu sĩ tiến bộ có những nhận thức, suy tư, hiểu được hiện tượng thật. Và bằng trí tuệ chứng đắc, họ lý giải lời Phật dạy, thấy được chân tinh thần bình đẳng mà Phật đề ra

Từ giáo lý căn bản về bình đẳng qua lời Phật dạy “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”, Phật giáo Đại thừa phân tích, ứng dụng, triển khai thành tinh thần Tăng tục bình đẳng. Ý này nói lên trí tuệ không hạn cuộc riêng cho giới xuất gia. Và xa hơn, mạnh hơn nữa là tinh thần nam nữ bình đẳng, quyền năng không dành riêng cho đàn ông.

 Chúng ta có thể nhận thấy rõ vào thời kỳ kiết tập kinh Duy Ma, xã hội đang phát triển mạnh cùng với tân Bà La Môn giáo. Với bối cảnh như vậy, hàng tu sĩ trí thức muốn bảo vệ đạo pháp phải phá vỡ lớp cố chấp của tu sĩ bảo thủ sống đóng khuôn. Họ đưa ra hai nhân vật Duy MaThiên nữ nằm ngoài Phật pháp. Hai người này lại hiểu và vận dụng Phật pháp tuyệt luân hơn so với đệ tử Phật. Chính vì vậy, trong thời kỳ này, Đại chúng bộ kiết tập kinh điển, thành lập Tăng đoàn mới gồm có cả cư sĩ cũng được tham dự việc kiết tập.

Đệ tử của Phật có ba hạng : Thanh văn, Duyên giácBồ tát. Hàng Thanh vănvị trí thấp nhất, lo tự sửa mình nhiều hơn. Chúng sanh thì tội ngập đầu, nhưng lại luôn thấy lỗi nhỏ của người. Ngài Huệ Năng dạy nếu là bậc chân tu, thì không thấy lỗi người. Nếu còn thấy lỗi người, biết mình còn kém dở. 

Đối với hạng người này, Phật dạy đừng nhìn ra chúng sanhchúng sanh đa dạng có nhiều nghiệp và phiền não. Nếu không có nghiệp và phiền não, họ đã là Phật, không là chúng sanh

Phật biết những người mới phát tâm nhìn thấy nghiệp và phiền não, sẽ dễ phiền não theo. Những điều mà người làm, ta cảm thấy không bằng lòng. Và đem cái không bằng lòng đặt vào lòng ta lâu ngày, nó biến thành nghiệp của ta.

Đối với chúng sanh có chút ít căn lành đời trước, Phật sợ họ mất căn lành, Ngài mới nói pháp Thanh văn cho họ. Thanh vănđệ tử nhỏ trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, suy nghĩáp dụng lời Phật dạy. Sống theo mẫu Phật sống là sống theo pháp. Nhờ làm theo Phật lâu ngày, tất cả phiền não trần lao, chúng sanh, chúng sanh nghiệp xa lần. Chuyện thế gian quên càng nhiều, họ càng tiến gần đến Niết bàn. Gần không phải là sống kế bên, nhưng sống giống Phật.

 Sống theo bên ngoài, bị phiền não chi phối. Ta còn nhiều nghiệp mà giáo hóa người, thì chỉ giáo hóa bằng nghiệp mà thôi. Vì vậy, Phật khuyên ta nên nghe pháp và sống với pháp. Sống theo Phật nghe pháp, tâm trở nên bình ổn, ta bắt đầu sống với nội tâm, không còn hướng ra ngoại cảnh gọi là hồi quang phản chiếu.

 Thanh văn tu trên lộ trình này, đạt đến pháp KHÔNG, việc đời không còn dính líu đến họ. Sống trong chùa lâu ngày, không nghe chuyện phiền não thế tục, thoát ly trần cảnh. Ngày đêm sống với pháp, với nội tâm hay Niết bàn. Niết Bàn, sanh tử, nội tâmngoại cảnh, bốn trạng thái này là một .

Thiên nữ nhắc Xá Lợi Phất hay chúng Thanh văn rằng các Ngài ở Niết bàn, hoa ở thế gian, làm sao gỡ nó ? Còn phải gỡ hoa chứng tỏ các Ngài còn ở sanh tử.

 Câu chuyện Thiên nữrải hoaThanh văn có dính hoa hay không, chúng ta xem là hiện tượng thật cũng được, hay giả dụ cũng tốt. Điều chính chúng ta cần suy nghĩ đến mục tiêu câu chuyện ngầm chỉ một pháp gì mà Phật muốn truyền đạt, không phải nói cho vui.

Khi tu, Thanh vănBồ tát ở hai thái cực khác nhau. Thiên nữ ngầm nhắc nhiều khi trên bước đường hành đạo, chúng ta tưởng rằng mình giải thoát. Nhưng lúc va chạm thực tế, mới thấy rõ tâm ta còn đầy phiền não tội lỗi

 Thanh văn được Phật ấn chứng là A la hán cứ đinh ninh họ ở quả vị này. Tu hành chúng ta dễ rớt vào tâm trạng này, rất nguy hiểm. A la hán nghĩ mình là A la hán, thì không còn là A la hán nữa, tức khởi niệm thành vọng động, đã rời vị trí A la hán. A la hán thuộc về vô sanh, nhưng phát khởi vọng niệm nghĩa là rời vô sanh, rớt qua sanh tử.

Khi ngồi yên, không nghĩ gì. Trạng thái tâm của chúng ta bất sanh. Tâm bất sanh, nên vật cũng bất sanh. Đây là trạng thái nội giới, một trạng thái nhiếp tâm cao độ mà 500 cỗ xe chạy ngang cũng không biết. Khi lặn sâu vào Thiền định, đạt vô sanh thật. Nhưng xả Thiền, không trụ trạng thái vô sanh được nữa. Sanh này do từ tâm sanh khởi.

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ tu hành theo thừa nào ? Thiên nữ trả lời trong ba thừa của Như Lai, Ngài không tu thừa nào.

 Điều này gợi cho chúng ta suy nghĩ Như Lai chỉ có tam thừa giáo, mà Thiên nữ không tu thừa nào. Vậy Bồ tát có phải đệ tử của Như Lai không ?

 Thiên nữ trả lời nếu đi vào rừng có gỗ chiên đàn, thì ta chỉ nghe mùi chiên đàn thôi, không có mùi khác. Đây là Thiên nữ tu ở nhất thừa, không tu ở tam thừa

Tu ở nhất thừa nghĩa là đã lìa quan niệm của tam thừa trước, nhưng nó dung hội được cả ba thừa. Nếu cần Thanh văn, Thiên NữThanh văn. Cần Bích Chi Phật, Ngài là Bích Chi Phật. Cần Bồ tát, Ngài là Bồ tát. Không cần gì, Thiên nữ không là gì. Chính đó là quả vị giải thoát

Vì vậy, khi đạt quả vị Như Lai, không còn gì vướng bận Ngài. Nhưng không có gì chúng sanh cần, mà Như Lai không đáp ứng. Bồ tát viên thừa an trụ trạng thái chứng đắc này. Tùy yêu cầu của chúng sanh, các Ngài thành tựu nhiều việc lợi ích dưới mọi dạng thức, không phải bị kẹt trong mô hình nào.

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ thần lực của Ngài thật bất tư nghì, sao Ngài không biến thành đàn ông ? Thiên nữ trả lời ở đây 12 năm, đã cố gắng tìm xem tướng nữ là gì và tác dụng của nó ra sao, mà vẫn không biết. Xá Lợi Phất mới đến, sao phân biệt thấy được rõ vậy ?

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ tại sao không chuyển thành thân nam để tu hành cho dễ. Thiên nữ giải thích rằng không kẹt trong tướng nữ và nam, đạt được Trung đạo đệ nhất nghĩa, Bồ tát tùy hoàn cảnhhiện thân tương ưng để hành đạo. Ở môi trường này, trong pháp hội này, Thiên nữ đóng vai nữ để thể hiện bất nhị pháp môn một cách tuyệt diệu, cần gì phải chuyển thành thân nam.

 Vừa nói xong, Ngài biến Xá Lợi Phất thành Thiên nữ và Ngài tự hóa mình thành Xá Lợi Phất mà hỏi rằng : Tại sao Ngài không chuyển thân nữ ? Xá Lợi Phất trả lời không biết tại sao ông lại biến thành thân đàn bà. Điều này nhắc hành giả trên bước đường tu thường đứng trên chân như nhìn về sanh diệt, coi chừng lần rớt về tục đế mà không hay biết. Ở đây diễn tả bằng hình ảnh Xá Lợi Phất biến thành Thiên nữ và ngược lại Thiên nữ biến thành Xá Lợi Phất

Muốn đoạn thân tướng trên mặt hiện tượng, hành giả phải đoạn nghiệp. Xá Lợi Phất thành người nữ là vì Xá Lợi Phất có nhiều phân biệt. Từ phân biệt tạo thành nhiều nghiệp, sau cùng nghiệp của mình biến mình thành ra thân xấu tệ. Không phải một nhân vật nào bên ngoài có khả năng biến đổi ta.

Qua câu chuyện của Xá Lợi Phất, chúng ta thấy sanh trên cuộc đời, mỗi người đã có thân hình cố định. Hiện ra thân nữ hay thân nam không quan trọng. Vấn đề chính yếu là người nào tạo nên thân này. Thiên nữ ví dụ như một người thợ nặn tượng đàn bà. Ta lại bảo họ sao không biến thành đàn ông; như vậy quả thật ngớ ngẩn. 

Thiên nữ giải thích rằng nếu bây giờ Xá Lợi Phất tự chuyển thân đàn bà thành đàn ông được, thì các người nữ khác cũng sẽ chuyển thành đàn ông được. Phải biết khi ta thành người nào hay loài nào, là do động cơ thúc đẩy mà thành. 

Xá Lợi Phất chưa chủ động tâm, nên còn bị tâm chi phối. Đây là khác biệt giữa Thanh vănBồ tát. Bồ tát trên nhân gian đóng vai chủ động, mang đủ các loại hình, tùy theo bổn nguyện mà hiện thân, hoặc tùy chúng sanh cần tư cách nào, Ngài mang thân đó. 

Chúng sanh tùy nghiệp hiện thân hình không giống nhau, nên ghét thân nữ mà không đổi được. Chúng sanh không chủ động được mà thọ thân tùy theo nghiệp quyết định. Nghiệp đổi thì thân đổi. Nghiệp của chúng ta thế nào tạo hình chúng ta tương ưng như vậy. Đã tạo ra hình rồi, không có cách nào thay đổi được. Đổi hay không do ông thợ nắn hình là nghiệp, hình không tự đổi được.

 Trên bước đường tu hành, lặn sâu vào thế giới tâm thức, vượt qua bức tường tri thức của con người, sẽ thấy nguyên nhân tạo hình ở nhân gian. Và bấy giờ đã nắm rõ quy luật, muốn tạo hình gì tùy ý.

Cuối cùng Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ rằng Ngài hiểu biết quá rộng, công đức không thể nghĩ bàn. Dù sao mang thân hữu hạn trên trần thế tức có sanh diệt, sau khi chết rồi sanh về đâu, có lên Niết bàn không ? Thiên nữ trả lời chư Phật sanh thế nào, Ngài cũng sanh vậy. 

Thân người nữ được Thiên nữ so sánh bằng với Phật. Điểm này thể hiện trong kinh Pháp Hoa phẩm 12, Long Nữ thành Phật, rằng sanh tửNiết bàn là một. Chúng sanh và Phật không khác.

 Chúng sanh và Phật cũng đầy đủ ba thân, nhưng sử dụng được hay không mới quan trọng.

Chết đây sanh kia là phần đoạn sanh tử chỉ cho chúng sanh. Phật theo quan niệm cố hữu của mọi người, tiêu biểuXá Lợi Phất, Phật thành Phật rồi vào Niết bàn, không hiện hữu ở đây nữa. 

Hiểu theo tinh thần Như Lai thọ lượng của kinh Pháp HoaNhư LaiNiết bàn, thì không phải là Phật nữa. Phật hiện có diệt hay không diệt là tùy trường hợp giáo hóa. Khi vô minh, nghiệp chướng, phiền não nổi lên, Phật biến mất. Chúng ta không thấy mặc dù Ngài vẫn có. Đến khi tâm hồn chúng ta hoàn toàn lắng yên, Phật lại hiện hữu êm đềm bên cạnh chúng ta.

Từ trạng thái tâm hồn yên tĩnh hay bản tâm thanh tịnh của Duy Ma, nhìn lại cuộc đời sẽ thấy rõ mọi hiện tượng bày ra ngoạn mục, trong đó có đầy đủ Thiên nữXá Lợi Phất. Thật vậy, khi tâm hành giả bao la, tất cả hiện tượng giới sẽ phơi bày muôn màu muôn vẻ để chúng ta hiểu và điều động nó. Điều động như vậy là điều động từ gốc, nên không giáo hóa chúng sanh mới thật là giáo hóa.

 Thiên nữXá Lợi Phất ở trong lòng chúng ta. Chúng ta nắm tận gốc, giải quyết trên căn bản tâm, cùng một ý với phần đầu đã nói là muốn độ chúng sanh phải độ mình. Bản tâm hành giả thanh tịnh, mới thấy chúng sanh ở trong tâm và giáo dưỡng họ ngay trong tâm hành giả. Nhờ vậy, chúng sanh bên ngoài cũng được giải thoát theo. Đó là giáo hóa dưới dạng bản thể. Còn mang ý niệm giáo hóa, hành giả còn đứng ở lập trường chúng sanh giáo hóa chúng sanh, chắc chắn thất bại.

 Tôi có kinh nghiệm sâu sắc về vấn đề này. Khi tôi muốn người nào đến, họ lại đi. Tôi muốn họ đi cho khuất mắt, họ cứ lù lù hiện đến. Cái muốn này của chúng ta phát xuất từ ý thức. Nằm trong ý thức giới mà độ chúng sanh, chỉ toàn bực bội khó chịu.

 Phải trở về bản tâm thanh tịnh, hành giả giáo hóa chúng sanh ở trong tâm mình thuần thục xong, thì chúng sanh bên ngoài cũng ngoan ngoãn theo. Nói cách khác, bên trong hành giả hoàn toàn thuần tịnh, bên ngoài tự tốt theo, hoặc muốn độ chúng sanh, trước nhất phải độ mình.

 Từ đây phải quay ngược lại tìm hiểu xem mình là gì. Văn Thù cho biết chúng tahiện hữu của thiện ác sanh diệt. Chúng ta tồn tạihai mặt tương đối phải trái, tốt xấu. 

Theo Phật, phân tích con người từng thứ riêng rẽ sẽ thấy cái ngã không có. Giả ngã này là tổng hợp mà Duy Ma gọi là tương đối pháp hợp lại thành. 

Theo Ngài Thế Thân phân tích có 100 pháp trong thân. Hành giả điều chỉnh 100 pháp này bằng cách thủ tiêu lần cái ác, để tâm thiện sanh ra. Nhưng thiện hay ác đều ở trong sanh diệt, nó bám víu chúng ta để tồn tại, nó không phải thật của ta. 

Duy Ma cho biết thiện ác tồn tại trên thân sanh diệt là tổ hợp vật chất. Tổ hợp siêu vật chấttinh thần. Phần tinh thần tuy không thấy bằng mắt, nhưng tồn tại thật như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thân kiến... Bình thường chúng ta không thấy nó, nhưng gặp môi trường tác động, nó xuất hiện nhanh lắm. Người xưa thường nói mắt sáng như thấy vàng. 

_Phật cho biết phần độc hại tinh thần này, nếu chúng có hình tướng, thì không có chỗ chứa cho hết. Quan sát bằng lăng kính thật tướng các pháp thấy chúng ta tồn tạitồn tại trên tâm tham, tâm sân, tâm si... Hành giả tu Thiền phát hiện những độc tố tinh thần để điều chỉnh. Chỉnh trong lòng xong, vật bên ngoài đương nhiên thay đổi. 

Trên bước đường tu, chúng ta trắc nghiệm pháp này sẽ thấy kết quả đúng như Phật dạy. Mọi việc đều do ta tạo tác, không ai có khả năng làm khổ chúng ta.

Trên lộ trình bước theo dấu chân Phật, khởi đầu từ phát tâm tu Bồ tát đạo, hành giả phát triển tri thứcđạo đức. Tu như vậy liên tục từ đời này sang đời khác, tiến đến Phật quả. Và từ quả vị viên mãn này, hành giả mang theo bản nguyện ban đầuchúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Thệ nguyện này dẫn hành giả đi thọ sanh, nhưng không sanh, ví như anh thợ làm đồ giả. Hay nói cách khác, hành giả thành Chánh Giác, được Báo thân viên mãn. Nhưng không an trú Niết bàn, mà theo bản nguyện, hành giả vẫn hằng hữu trong mười phương giáo hóa chúng sanh. Đó là đại Niết bàn của chư Phật, chư đại Bồ tát bất tư nghì giải thoát.

Ý kiến bạn đọc
20 Tháng Ba 201614:12
Khách
~()~
*~ CÓ BÀI KINH DUY MA CẬT ,, KHI RÃNH ,, BÕ TÍ THÌ GIỜ GỠI CHO TÔI XIN. - ĐỄ KHI RÃNH TÔI CÓ ĐỌC
**~ XIN CÃM ƠN NHIỀU..
~~ NAM MO A DI DA PHAT ~~
~()~ - HAIHUYNHQ4@GMAIL.COM
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11248)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15186)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13044)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11722)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11051)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14061)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10587)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant