Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 14 Chúc Lụy

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6897)
Phẩm 14 Chúc Lụy

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 14. CHÚC LỤY

I. LƯỢC VĂN KINH 

Kết thúc, Phật phú chúc cho Bồ tát Di Lặc sau khi Phật diệt độ, Ngài phải dùng thần lực lưu bố kinh này trong Diêm Phù Đề, đừng cho mất.

 Bồ tát Di Lặc nhận lãnh ý Phật, phát nguyện nếu đời sau có người thọ trì, đọc tụng, diễn nói kinh này, Ngài sẽ dùng thần lực ủng hộ. Bấy giờ, các Bồ tát cũng xin truyền bá và dắt dẫn mọi người tu theo kinh này. Bốn vị Thiên vương cũng xin ủng hộ người giảng kinh, không để họ bị hại.

Sau cùng, Phật dạy A Nan hãy thọ trì kinh này và diễn nói cho người đời sau. Kinh này tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh cũng gọi là Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát kinh. 

Phật nói xong, Duy Ma Cật, Văn Thù Sư Lợi, Xá Lợi Phất, A Nan v.v... và hàng Trời, người, A tu la, tất cả đại chúng đều vui mừng kính vâng làm theo.

II. GIẢI THÍCH

Lộ trình tu tập kinh Duy Ma khởi nguồn từ bản tâm thanh tịnh. Và từ bản tâm thanh tịnh phát xuất ra đại bi tâm, dẫn hành giả bước vào đời, thể hiện tình thương dưới muôn màu sắc khác nhau. Đến khi tròn đầy hạnh nguyện, lại an nhiên trở về thế giới Phật Vô Động, không tiếc nuối gì trần gian.

 Kinh Duy Ma phải được thể hiện bằng mọi việc làm khác nhau dưới dạng tâm đại bi. Ít người thực hiện được, hiếm người thấy được. Vì vậy kết thúc bộ kinh, Phật chúc lụy cho Bồ tát Di Lặc là người kế tiếp sẽ thành Phật.

 Di Lặc đang ở Đâu Suất nội việnBồ tát Nhất Sanh Bổ Xứ kế nghiệp Phật Thích Ca. Chỉ có Ngài hội đủ tư cách thực hiện trọn vẹn kinh Duy Ma, mới xứng đáng được phú chúc.

Đức Phật dạy Di Lặc Bồ tát rằng nếu có người phát tâm bồ đề, thì nên đem pháp bất tư nghì giải thoát dạy cho họ làm nhân địa tu hành. Khi Di Lặc tái sanh trên đời, thành Phật, họ sẽ là Bồ tát cùng tái sanh, thể hiện trọn vẹn tinh thần bất tư nghì giải thoát này. Qua lời Phật dạy Di Lặc, chúng ta ý thực được rằng phải trải qua quá trình hành Bồ tát đạo. Nếu không dấn thân, xây dựng cho người, chắc chắn chúng ta không đạt Phật quả.

 Phật dạy Di Lặc Bồ tát thấy người phát tâm nên biết tại sao họ phát tâm bồ đề. Quan sát kỹ thấy họ phát tâm thật, thì nên phân ra hai hạng. Hạng thứ nhất thấy quả nên tu nhân, thấy Thích Ca thành Phật cũng phát tâm tu để thành Phật. Đó là Bồ tát nhỏ sơ phát tâm, chấp chặt vào Đức Phậtgiáo lý của Ngài. Nhìn thấy Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, 18 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo, 49 năm thuyết pháp và 80 tuổi vào Niết bàn, nên họ thấy phải có đủ y hệt như vậy mới xem là Phật, mới theo. Và những gì ghi chép trong kinh điển được họ chấp nhận tuyệt đối. Đối với Bồ tát sơ phát tâm kẹt pháp nặng, việc giáo hóa họ rất khó khăn.

Với mẫu người thứ hai là Bồ tát lớn thương nhân gian sanh lại, Phật khuyên Di Lặc nên giáo hóakết thân. Các Ngài là Bồ tát mười phương sanh 

lại, mang thân người hữu hạn, kẹt tứ đại ngũ uẩn, Bồ tát tâm không hiện được. Bên ngoài có phiền não nhiễm ô do lục căn tiếp xúc lục trần giống y người thường; nhưng bên trong cốt lõi Bồ tát, chơn tâm hoàn toàn sáng suốt

Bồ tát thương nhân gian sanh lại, bị cách ấm, tưởng mình là người như mọi người khác, quên mất tư chất Bồ tát. Di Lặc nên đánh thức tâm họ, nên nhắm vào tâm Bồ tát này mà khai thác để dẫn họ đến quả vị Phật. Trong kinh ví Bồ tát tái sanh giống như sư tử con lạc vào sống chung với đàn cừu, lầm tưởng mình là cừu thật. Đến khi sư tử già dẫn nó đến dòng suối soi bóng, mới biết nó là sư tử.

Phật Thích Ca nhắc Di Lặc nên hành đạo dưới dạng này, bằng cách khơi dậy Bồ tát tâm. Vì Bồ tát lớn có đủ điều kiện, đủ trình độ tri thức đạt bất tư nghì giải thoát, nếu được khai thác đúng chỗ.

Di Lặc lãnh hội ý Phật. Nếu Phật Niết bàn, có chúng sanh nào bên ngoài giống chúng sanh khác, nhưng bên trong có hạt nhân Bồ tát, Ngài sẽ dùng thần lực ảnh hưởng cho hạt nhân Bồ tát phát lên. 

Bồ tát bất tư nghì giải thoát ở ngay trong nhân gian đóng vai trò như người thường, làm được tất cả việc mà người đời làm; nhưng trong tâm liên hệ với Di Lặc Bồ tátcung trời Đâu Suất. Nói cách khác, lực Bồ tát Di Lặc gia bị, khiến họ giải thoát, mà bên ngoài họ tùy thân tùy phận làm việc tương ưng.

Trong phẩm Bồ tát đạo, Duy Ma giới thiệu tư cách bất tư nghì giải thoát của Bồ tát. Ngài dạy rằng khi Bồ tát tâm sống dậy, biết ta là Bồ tát rồi, vẫn đứng yên vị trí cũ nhưng tâm đổi khác. Tất cả ham muốn vụt tan biến, tâm tánh hoàn toàn khác trước, không còn buồn bực tham giận như trước, nên nhìn sự vật tỉnh táo chính xác, ở vị trí nào cũng thành tựu lợi ích chúng sanh. Nếu là học trò được Bồ tát lực rọi tới, ta sẽ thông minh hơn học trò khác; nếu là chính khách nhận được Bồ tát lực sẽ thành chính khách có nhiều uy tín được kính trọng hơn trước; nếu là công nhân phải là công nhân có nhiều sáng kiến, đóng góp nhiều cho sự phát triển đời sống công nhân, mà không đòi hỏi gì cho bản thân.

Tu theo tinh thần kinh Duy Ma, người xuất gia hay tại gia phát triển Bồ tát tâm để nhận thức trở thành sáng suốt. Họ phục vụ chúng sanh để cúng dường Phật, thực hiện bất tư nghì giải thoát của Phật Thích Ca trong cuộc sống nhân sinh, làm cho Phật pháp sống dậy, chân lý được sáng tỏ

Sau Phật Niết bàn, ở thời mạt pháp, phần lớn các Bồ tát thể hiện chân lý trong cuộc sống của các Ngài hơn là ở hình thức tôn giáo bên ngoài. Phật giáo Việt Nam ảnh hưởng tinh thần Duy Ma nhiều nhất vào thời đại Lý Trần, tiêu biểu qua câu nói của Phù Vân Quốc sư : “Trong non không có Phật, Phật ở trong lòng người. Chỗ nào có người hướng về Phật, Đức Phật hiện hữu ngay ở đó”.

Như vậy Đại thừa hiểu về Đức Phật không còn là một con người, Phật là tuệ giác. Khi ta sáng suốt giác ngộ, ta là Phật. Do sáng suốt nhìn thấy sự vật đúng như thật là thấy chân lý. Pháp là chân lý. Sống đúng chân lý hay đúng quy luật, không có gì bức bách ràng buộc, ta sống trên cuộc đời dưới bất cứ dạng nào cũng giải thoát. Và người thể hiện sự thật, thể hiện tinh thần giải thoát trong cuộc sống gọi là Tăng. 

Ở dạng này, Tam Bảo được kinh Duy Ma quy về tâm giống như kinh Hoa Nghiêm gọi là tự tánh Tam Bảo.

Tóm lại, Phật Thích Ca phú chúc kinh Duy Ma và pháp bất khả tư nghì giải thoát cho Di Lặc Bồ tát. Di Lặc có khả năng làm cuộc sống nở hoa, giúp cho xã hội phát triển vật chất, thăng hoa tinh thần. Trong kinh ghi rõ Phật Di Lặc ra đời không phải lặn lội theo triền sông Hằng thuyết pháp giáo hóa chúng sanh như Phật Thích Ca. Ngài chỉ ngồi dưới cây nở đầy hoa, người nhìn thấy, hoa lòng của họ cũng nở theo.

 Ngày nay trên bước đường tu học, muốn tiếp nhận được sự gia bị của Bồ tát Di Lặc cùng với sự hộ niệm của tứ Thiên vương theo như bản nguyện của các Ngài, chúng ta phải chuẩn bị tâm thật thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là môi trường cần thiết tất yếu giúp chúng ta tương thông, trực nhận lực của Bồ tát Di Lặc

Đối với Thanh văn, Phật phú chúc cho Ngài A Nan phải ghi lại toàn bộ kinh Duy Ma để đời sau đọc tụng, tu hành. A Nantu sĩ trẻ, thông minh nhất trong đệ tử Phật.

 Như vậy, chúng ta nhận chân rõ Phật giáo trong tương lai cần tồn tại dưới dạng giải thoát như Bồ tát Di Lặc tác động cho cuộc đời luôn thăng hoa an vui hạnh phúctồn tại dưới dạng Thanh văn xuất gia tu hành thông minh, trẻ, khỏe mạnh, đầy nhiệt tình như A Nan

Đó là hai mẫu người tiêu biểu được Đức Phật phú chúc. Chúng ta cần suy nghĩ, rút ra mô hình sinh hoạt phù hợp với thời đại, thể hiện trí tuệ minh mẫn, tâm hồn tự tại thanh thản. Từ đó, chúng ta mãi mãi cùng với Di Lặc Bồ tátTôn giả A Nan thắp sáng ngọn đèn bất tư nghì giải thoát cho mọi người trên thế gian cùng được an lành giải thoát.

Mùa An cư kiết hạ PL. 2543 – 1999

Hòa thượng THÍCH TRÍ QUẢNG
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14728)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11798)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10315)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12037)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15257)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10490)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12440)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16399)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14277)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11748)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16793)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11550)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12711)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11322)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12033)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52056)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15444)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13949)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11415)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13143)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12757)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13194)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17880)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12426)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12631)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54177)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14408)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9907)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13804)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14471)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20105)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15376)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17475)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13297)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11901)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13469)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14637)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12460)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12140)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12048)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12517)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13651)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25542)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14518)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11826)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42039)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28287)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38761)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14705)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12681)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16230)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant