Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Quan Kinh Duy Ma

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6028)
Tổng Quan Kinh Duy Ma

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

Ghi Sau Khi Duyệt Duy Ma

Trái với tiểu thừa nói đời Phật chỉ có đức Di lạc là bồ tát, đại thừa nói đời Phật, mà ngay trong nhân loại, ít nhất cũng có những vị bồ tát sau đây, ghi theo Thế giới Pg thông sử, tập thượng, trang 136.

1. Văn thù đại sĩ,

2. Thiện tài đồng tử,

3. Bảo tíchDuy ma, 500 người ở thành Tì da li.

4. Hiền hộ, với 16 người ở thành Vương xá.

Ấy là sách trên đã sót hoàng hậu Thắng man, và chắc còn sót không ít.

Về nhóm Hiền hộ 6 người thì nhiều chỗ nói đến, Phật học đại từ điển trang 214 ghi lại tạm được. Theo đó, họ toàn là tại gia. Nhưng Thế thân bồ tát nói họ có đủ mọi sự bất khả tư nghị của bồ tát (luận Pháp hoa, cuốn thượng). Tên của họ thì kinh Tư ích cuốn 1 kê đầy đủ, còn luận Trí độ chỉ lược kê 6 người nhưng có vài chi tiết được ghi rõ.

Đây là danh sách mà kinh Tư Ích kê đủ.

1. Hiền hộ bồ tát,

2. Bảo tích bồ tát,

3. Tinh đức bồ tát,

4. Đế thiên bồ tát,

5. Thủy thiên bồ tát,

6. Thiện lực bồ tát,

7. Đại ý bồ tát,

8. Thù thắng ý bồ tát,

9. Tăng ý bồ tát,

10. Thiện phát ý bồ tát,

11. Bất hư kiến bồ tát,

12. Bất hưu tức bồ tát,

13. Bất thiểu ý bồ tát,

14. Đạo sư bồ tát,

15. Nhật tạng bồ tát,

16. Trì địa bồ tát.

Còn luận Trí độ lược kê.

1. Bạt đà ba la, cư sĩ bồ tát (Hiền hộ bồ tát), người thành Vương xá.

2. Bảo tích, vương tử bồ tát (Bảo tích bồ tát), người thành Tì da li.

3. Hoàng đức, trưởng giả tử bồ tát (Tinh đức bồ tát), người nước Chiêm ba.

4. Đạo sư, cư sĩ bồ tát (Đạo sư bồ tát), người nước Xá vệ.

5. Na la diên, bà la môn bồ tát (Đế thiên bồ tát), người nước Phù thê la.

6. Thủy thiên, ưu bà tắc bồ tát (Thủy thiên bồ tát).

Ngoài ra, 16 vị la hán mà Pháp trú ký nói, cũng gọi là 16 đại sĩ, "vâng huấn dụ của Phật, vĩnh viễntại thế giới này mà tế độ chúng sinh". Danh sách các ngài, kể cả Phạn tự, được kê rõ trong Phật học đại từ điển, trang 2844 và 211. Trong số đó, đứng đầutôn giả Tân đầu lô, thứ 11 là tôn giả La hầu la, thứ 16 là Châu lị bàn đà, 3 vị có trong kinh Di đà. Nhưng Pháp trú ký là do tôn giả Nan đề mật đa la nói ra, bách kỷ 8 sau Phật nhập diệt. Nói tại Tích lan, mở đầu có câu" Như lai đã nói kinh Pháp trú, nay chỉ lược lại". Mười sáu vị la hán ở đây "được gọi là đại sĩ, vâng huấn dụ của Phật, vĩnh viễntại thế giới này mà tế độ chúng sinh", thì đại sĩđại bồ tát, có thể nói được như vậy.

*

Đại thừa, cỗ xe của bồ tát, có thể tổng quát vào trong 3 câu mà luận Trí độ đã nói. Đó là thích ứng với nhất thế trí, đại bi đứng đầu, không thủ đắc là phương tiện. Nhất thế trí là tuệ giác của Phật; đại thừa thì chí nguyệnđời sống phải thích ứng với tuệ giác đó. Đại bitừ bi rộng lớn; đại thừa thì phải thương mà gánh vác lấy chúng sinh. Không thủ đắc là tánh không; đại thừa thì phải từ đó mà làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh. Tương tự 3 câu trên đây, kinh Đại nhật cũng nói tâm bồ đề làm nhân tố, đại bi làm căn bản, phương tiện làm hoàn thành. Đừng lầm lẫn phương tiện là tùy tiện. Phương tiệnáp dụng nhưng phương cách khéo léo để ích lợi chúng sinh, hội nhập tuệ giác.

Nhìn lại Duy ma thì thấy kinh này chủ não là Bát nhã, văn phong là Hoa nghiêm.

Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt. Với 2 tâm này, Duy ma cho thấy có thể, và cần phải, sử dụng và hoạt dụng đến thành ra diệu dụng, đối với toàn bộ cuộc đờiviệc đời. Bao nhiêu kyՠthuật công nghệ, bồ tát thì phải học, phải làm và phải dạy, đã đành, chính trị, quân sự, Duy ma cũng không bỏ. Thế giới càng xuống dốc, bồ tát càng có mặt và ra sức. Do vậy, bồ tát không phải được đề cao mà là bị đòi hỏi, phải "bất khả tư nghị".

Duy ma là như vậy. Nên học tập và truyền bá kinh này là "đi theo đường đi của đức Thế tôn".

Mười sáu tháng 5, 2537

Trí quang


(1) Trước hết hãy biết một vài ghi chú. Ngài Huyền tráng ghi: Đến Phệ xá ly (Tì da li)... Tây bắc cung thành cách năm sáu dặm có 1 già lam, cạnh già lam có 1 ngôi tháp, đó là chỗ xưa Phật nói kinh Tì ma la cật (Duy ma). Đông bắc cách ba bốn dặm có 1 ngôi tháp, đó là nhà cũ của Tì ma la cật. Nhà này hãy còn nhiều sự linh dị. Cách đó không xa, có 1 phòng chất đá làm ra, đó là chỗ Tì ma la cật hiện bịnh thuyết pháp. Bên cạnh có nhà cũ của Bảo tích, nhà cũ của Yêm ma la nữ. (Chính 55/235).

Ngài Khuy cơ ghi: Phệ xá li, dịch Quảng nghiêm. Nước này chu vi có 8000 dặm. Đại đô thành nước này nay tuy đổ nát, nhưng nền cũ vẫn còn, chu vi sáu bảy mươi dặm. Nền thành vương cung chu vi bốn năm dặm. Phía tây bắc cung thành cách năm sáu dặm có một ngôi già lam, học tập Chánh lượng bộ. Cạnh ngôi già lam này có 1 ngôi tháp, Phật đã ở đây nói kinh Vô cấu xưng, chỗ mà bấy giờ trưởng giả tử Bảo tánh dâng lọng. Phía bắc ngôi già lam cách ba bốn dặm là vườn Yêm la nữ, được đem hiến Phật và Ngài thường ở đấy. Đông bắc ngôi già lam cách ba bốn dặm thì có nhà cũ của Vô cấu xưng. Cách nhà không xa, có 1 nhà thần, hình dáng như chất gạch, truyện nói rằng đó là phòng chất đá mà thành, và là chỗ Vô cấu xưng hiện bịnh thuyết pháp. Cách chỗ này không xa, có 1 ngôi tháp, đó là nhà cũ của Bảo tánh. Cạnh nhà này không xa, là nhà cũ của Yêm ma la nữ... Yêm ma laẤn độ có trái yêm ma la. Thành này có nữ nhân lấy tên theo trái ấy, nên gọi là Yêm ma la nữ. Yêm ma la nữ có khu vườn hơn hết..., sau đem hiến Phật, và Ngài thường du ngụ (Vạn 29/196AB).

Ngài Thái hư ghi: Đời Đường có Vương Huyền Sách từng đến Ấn độ. Bấy giờ nhà của ngài Duy ma đang còn. Ông vốn ngờ kinh này nói nhà này nhỏ mà chứa được 900 vạn người và 32000 tòa sư tử cao lớn. Tòa sư tử thì xác định lớn, mà nhà không biết nhỏ đến đâu. Ông lấy hốt mà đo chu vi nhà thì 4 phía đều được 10 hốt. Mỗi hốt 1 thước, tức 1 trượng. Do vậy mà tán thán thần lực của ngài Duy ma. Ngài Huyền tráng cũng đến Ấn độ, từng đến nhà ngài Duy ma. Nhìn cái nhà nhỏ, bụng nghi kinh nói không thật, muốn viết lên vách nhà để tỏ ý mình. Nào ngờ chấm bút muốn viết thì vách với người chung cục cách nhau mãi mà không gần được, sờ cũng không thấu, gần trọn ngày mà không viết được chữ nào. Ngài gác bút mà tán thán di tích còn thế, huống chi thần lực xưa kia (Thái hư toàn thư, 866).

Tham chiếu các kinh khác, như kinh Nguyệt thượng nữ v/v, chép ngài Duy ma họ Lôi, vợ là Kim cơ, con trai là Thiện tư, con gái là Nguyệt thượng. Vậy ngài Duy ma là người thật đời Phật (Thái hư toàn thư 903).

Vài ghi chép trên đây chứng tỏ ngài Duy ma không những là người thật thời Phật, mà còn 1 vị đại cư sĩ, đại bồ tát đến có thể gọi là bồ tát bất khả tư nghị. Thế nhưng tại sao sách vở của cái Phật giáo gọi là nguyên thỉ xưa nay ghi về đệ tử tại gia danh tiếng của Phật không thấy ghi về ngài. Tất phải có một sự húy kào đó. Thời Phật, nói bồ tát chỉ có đức Di lạc, là sai. Ngoài đức Di lạc, và ngài Duy ma, nổi tiếng còn có hoàng hậu Thắng man, nhất là có 16 người gọi là nhóm Hiền hộ. Tất cả đều không được sách vở Phật giáo nguyên thỉ ghi đến.

Nhưng ở đây xác định ngài Duy ma là một vị đại bồ tát. Dầu kinh ngài nói là nói về bất khả tư nghị đi nữa, không thể vì vậy mà cho là nhân vật giả tạo, bồ tát giả tạo.

(2) Kinh này được kê có 6 bản dịch. Nhưng trong Đại tạng hiện còn chỉ có 3 bản. Thứ nhất là của Cung minh Chi khiêm. Thứ hai là của dịch giới chi vương La thập. Thứ ba là của Đại đường tam tạng Huyền tráng. Tức các số 474, 475, 476 của Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (Chính 14/519-588). Bản thứ hai là định bản. Phật giáo đại sự biểu của Lương Khải Siêu ghi bản ấy xuất hiện năm 406 (Phật học nghiên cứu, phụ lục bài 1, trang 16).

Bản thứ hai có cái tên Duy ma cật sở thuyết bất khả tư nghị giải thoát pháp môn kinh: bản kinh mà ngài Duy ma cật nói về pháp môn giải thoát tên bất khả tư nghị. Vậy gọi là kinh Duy ma là gọi tắt tên người, nhưng phần chính kinh Duy ma là sự Bất khả tư nghị.

Bản dịch thứ hai này của ngài La thập được hầu hết các vị đại sư danh tiếng chú thích, trong đó có các ngài Tuệ viễn, Trí giảCát tạng. Nhưng quí nhất, căn bản nhất, chính là bản Chú Duy ma kinh của chính ngài Tăng triệu, thuật lại lời ngài La thập, ngài Đạo sanh và lời mình (Vạn 27/170-278). Bản này là tài liệu chính yếu mà tôi căn cứ để dịch giải kinh này. Ngoài ra, bản dịch thứ ba của ngài Huyền tráng thì có chính ngài Khuy cơ chú sớ (Chính 29/182-322). Dĩ nhiên bản dịch thứ ba và bản chú sớ này tôi tham khảo rất nhiều.

Cũng nên nói thêm, bản dịch thứ hai của ngài La thập không những nổi tiếngnghĩa lý mà còn nhất là vì văn chương. Thi hào Vương Duy đời Đường lấy hiệu Ma cật, là lấy tên ngài Duy ma đó. Chưa hết. Các tác giả từ chương và kịch khúc còn lấy cảm hứng ở đoạn thiên nữ hiến hoa trong phẩm 7. Học giả Hồ Thích đã nói kinh này là hài kịch triết lý.

Như đã thấy, kinh này gọi tắt là kinh Duy ma, nhưng chủ yếu là sự bất khả tư nghị. Từ ngữ này có nghĩa là sự việc không thể nghĩ và bàn một cách bình thường. Ở đây cũng có chút ít cái ý bất khả tư nghịsiêu việt tư duy mô tả, là tâm hành xứ diệtngôn ngữ đạo đoạn.

Trọn kinh Duy ma, từ đầu đến cuối, từ đại thể đến chi tiết, đều là bất khả tư nghị. Bối cảnh và nội dung bất khả tư nghị ấy không phải chỉ có một chiều. Tuy nhiên phần chính vẫn là trực tiếp và gián tiếp tấn công tiểu thừa. Nên kinh Duy ma đại thừa này mà không bị cái gọi là Phật giáo nguyên thỉ gạt đi, ngài Duy ma không bị không ghi đến, mới là điều đáng ngạc nhiên.

(3) Sự bất khả tư nghị đầu tiên là kinh Duy ma đề cao cư sĩ. Thế nhưng không phải đề cao là nói làm sao cho vai trò cư sĩ cao lên.

Tăng bảo dĩ nhiênthiểu số, trong đạo cũng như ngoài đời. Phật cũng không khuyến khích lắm hay tìm cách làm cho ai cũng xuất gia. Nhưng hàng xuất giaTăng bảo. Tăng bảo mà bất xứng thì bản thân Tăng bảoPhật giáo phải rán chịu, chứ địa vị Tăng bảo không ai có thể thay thế.

Trong kinh Duy ma, vị cư sĩ này biện tài vô ngại. Không một thanh văn hay bồ tát nào gặp ông mà có thể đối thoại. Thế nhưng, trừ đoạn tôn giả Phú lâu na trong phẩm 2, các vị tỷ kheo có lạy ngài Duy ma. Ngoài ra, lễ nghi tăng già cư sĩ không có chỗ nào sơ suất. Vậy đề cao cư sĩ là đề cao thế nào?

Bản chất của Phật pháp là không phải chỉ đặc biệt giành cho ai. Ai cũng có phần Phật pháp. Nhưng là cái phần đúng theo giới pháphình thức giới pháp. Như vậy nói chỉ có Tăng bảo mới hoằng pháp là sai, và dĩ nhiên cũng là sai nếu nói cư sĩ chỉ hộ pháp. Trừ sinh hoạt kiết ma, tất cả Phật tử, Tăng bảo cũng như cư sĩ đều tùy vị trí mà làm mọi việc Phật. Có điều làm như vậy, nếu là xuất gia thì tương đối dễ hơn, vì, như kinh Ưu bà tắc nói, bồ tát có 2, có tại giaxuất gia. Xuất gia làm việc bồ tát thì không khó, tại gia làm việc bồ tát mới khó hơn, vì tại gia thì bị bao nhiêu điều phiền nhiễu.

Do vậy mà Duy ma là một hình ảnh cư sĩ bất khả tư nghị. Hình ảnh đó, trước hết kinh này muốn có.

(4) Phật xuất thế, đầu tiên thiết lập Tăng bảo ngay nơi vị trí thanh văn. Thanh văn mà phạn hạnh dĩ lập, bất thọ hậu hữu, ấy là đã rốt ráo. Sự thiết lập này, về sau, vừa làm cho Tăng bảo ngày càng xa với Phật quả, vừa làm cho Phật pháp ngày càng hẹp hòi. Mục đích luận của Phật giáo lại chẳng phải chỉ là la hán. Vì lẽ đó, sau khi đưa Tăng bảo đến thanh văn rồi thì tất nhiên Phật phải hướng dẫn họ bước tới nữa. Thậm chí ngang đây, Pháp hoa công nhậnthanh văn mà không công nhậnniết bàn của thanh văn.

Phật, sau thanh văn thì tất nhiên đưa đến bồ tát. Bồ tát không phải chỉ là cái thân tối hậu của một đức Phật, không phải chỉ là vị trải qua 100 kiếp tu bách phước tướng hảo, cũng không phải chỉ là vị được thọ ký thay Phật. Bồ tát được quan niệm như vậy là của tiểu thừa. Đại thừa thì ai cũng có thể làm Phật. Phật có bao nhiêu phẩm chất mà La hán không có. Làm Phật thì phải bằng giai đoạn bồ tát. Đại thừa nói rõ tâm ta tưởng Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Nghĩa là ai cũng có thể làm bồ tát, không kể tại gia hay xuất gia. Mà tại gia có khi còn có cơ hội hơn.

Khi hướng dẫn thanh văn thì Phật bảo phạn hạnh dĩ lập, bất thọ hậu hữu. Khi thăng tiến thanh văn làm bồ tát thì Phật bảo tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh). Chính vì vậyDuy ma đóng góp vào việc thăng tiến này. Thế nhưng sự bất khả tư nghị ở đây không phải ở nơi ngài Duy ma, mà chính là ở nơi các vị thanh văn đóng cái vai trò bị khiển trách để thực hiện ý muốn của Phật.

(5) Đặc biệt là Thuyết hữu bộ, sau khi chiếm Thượng tọa bộ, trọng luận hơn kinh, trước tác nghiêm mật, làm cho sinh khí linh động của Phật giáo, nhất là Phật giáo thời Phật, gần như mất hẳn. Chính điều này đã sản sinh hoạt động của các bộ phái, đặc biệtđại thừa, đặc biệt là kinh Duy ma. Kinh này cực kỳ linh động, trong tư tưởng cũng như trong ngôn ngữ. Do vậy, cái sinh khí trung đạo linh động của thời Phật dầu không sống lại được hoàn toàn, kinh Duy ma cũng phá vỡ được những hình thức cứng nhắc, những sinh hoạt tự cao và cô lập, phá vỡ cái Phật giáo Thuyết hữu bộ. Tất cả những gì gọi là bất khả tư nghị trút hết cho việc thứ 4 ở trên thì nay lại càng trút hết cho việc thứ 5 này.

(6) Thống quán toàn bộ Duy ma, trước hết thấy hay nói đến nhất là sự phát bồ đề tâm và chứng vô sinh nhẫn. Phát bồ đề tâmchí nguyện đại thừa. Vô sinh nhẫn là nhẫn sự vô sinh phiền não (tức gần như vô sinh trí, sau tận trí, nói theo tiểu thừa).

Thống quán như vậy tự lộ ra toàn bộ Duy ma là nói về tịnh độ. Kinh này có 14 phẩm, trừ 2 phẩm sau là phần lưu thông, còn 12 phẩm trước toàn là nói về tịnh độ.

Tịnh độ của kinh Duy ma trình bày thật là linh động. Từ phẩm 1 nói tâm tịnh độ tịnh, đến phẩm 12 nói muốn được tịnh độ thì phải đi theo đường đi của Phật.

Duy ma nói về tịnh độ dưới nhiều sự việc và dạng thức thật là bất khả tư nghị, đề cao và lấy làm tiêu ngữ 2 câu tóm tắt hết thảy bồ tát hạnh, ấy là làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh.

Có một chi tiết nhỏ cũng đáng nói đến. Tức như cái phòng của ngài Duy ma, ở đây không nói là báo độ như các nơi khác, mà nói theo ngôn ngữ Duy mabất khả tư nghị. Lại còn một chi tiết nữa, tuồng như Đông phương tịnh độ (Bất động như lai) thịnh hành trước cả Tây phương tịnh độ (Di đà như lai).

(7) Thế nhưng vấn đề vẫn chưa hết. Phải có sự so sánh chút ít giữa Duy maPháp hoa. Pháp hoa đối với tiểu thừa thì nhận là phương tiện bước đến đại thừa. Pháp hoa nói thanh vănnội bí bồ tát hạnh, ngoại hiện thanh văn tướng. Pháp hoa thọ ký cho tiểu thừa cuối cùng thành Phật tất cả. Duy ma không như vậy. Duy ma linh hoạt, bất khả tư nghị, lấy chúng sinhphiền não làm đất bùn mọc lên hoa sen. Thế nhưng 2 lần ngài Ca diếp than mất phần, không có khả năng để làm gì được nữa về sự bất khả tư nghị, thì rõ ràng Duy ma tấn công mà không hội qui tiểu thừa.

22.10.2535.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30314)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34457)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10628)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10387)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12532)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12618)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11951)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14385)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13111)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant