Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Quan Kinh Duy Ma

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6026)
Tổng Quan Kinh Duy Ma

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

Ghi Sau Khi Duyệt Duy Ma

Trái với tiểu thừa nói đời Phật chỉ có đức Di lạc là bồ tát, đại thừa nói đời Phật, mà ngay trong nhân loại, ít nhất cũng có những vị bồ tát sau đây, ghi theo Thế giới Pg thông sử, tập thượng, trang 136.

1. Văn thù đại sĩ,

2. Thiện tài đồng tử,

3. Bảo tíchDuy ma, 500 người ở thành Tì da li.

4. Hiền hộ, với 16 người ở thành Vương xá.

Ấy là sách trên đã sót hoàng hậu Thắng man, và chắc còn sót không ít.

Về nhóm Hiền hộ 6 người thì nhiều chỗ nói đến, Phật học đại từ điển trang 214 ghi lại tạm được. Theo đó, họ toàn là tại gia. Nhưng Thế thân bồ tát nói họ có đủ mọi sự bất khả tư nghị của bồ tát (luận Pháp hoa, cuốn thượng). Tên của họ thì kinh Tư ích cuốn 1 kê đầy đủ, còn luận Trí độ chỉ lược kê 6 người nhưng có vài chi tiết được ghi rõ.

Đây là danh sách mà kinh Tư Ích kê đủ.

1. Hiền hộ bồ tát,

2. Bảo tích bồ tát,

3. Tinh đức bồ tát,

4. Đế thiên bồ tát,

5. Thủy thiên bồ tát,

6. Thiện lực bồ tát,

7. Đại ý bồ tát,

8. Thù thắng ý bồ tát,

9. Tăng ý bồ tát,

10. Thiện phát ý bồ tát,

11. Bất hư kiến bồ tát,

12. Bất hưu tức bồ tát,

13. Bất thiểu ý bồ tát,

14. Đạo sư bồ tát,

15. Nhật tạng bồ tát,

16. Trì địa bồ tát.

Còn luận Trí độ lược kê.

1. Bạt đà ba la, cư sĩ bồ tát (Hiền hộ bồ tát), người thành Vương xá.

2. Bảo tích, vương tử bồ tát (Bảo tích bồ tát), người thành Tì da li.

3. Hoàng đức, trưởng giả tử bồ tát (Tinh đức bồ tát), người nước Chiêm ba.

4. Đạo sư, cư sĩ bồ tát (Đạo sư bồ tát), người nước Xá vệ.

5. Na la diên, bà la môn bồ tát (Đế thiên bồ tát), người nước Phù thê la.

6. Thủy thiên, ưu bà tắc bồ tát (Thủy thiên bồ tát).

Ngoài ra, 16 vị la hán mà Pháp trú ký nói, cũng gọi là 16 đại sĩ, "vâng huấn dụ của Phật, vĩnh viễntại thế giới này mà tế độ chúng sinh". Danh sách các ngài, kể cả Phạn tự, được kê rõ trong Phật học đại từ điển, trang 2844 và 211. Trong số đó, đứng đầutôn giả Tân đầu lô, thứ 11 là tôn giả La hầu la, thứ 16 là Châu lị bàn đà, 3 vị có trong kinh Di đà. Nhưng Pháp trú ký là do tôn giả Nan đề mật đa la nói ra, bách kỷ 8 sau Phật nhập diệt. Nói tại Tích lan, mở đầu có câu" Như lai đã nói kinh Pháp trú, nay chỉ lược lại". Mười sáu vị la hán ở đây "được gọi là đại sĩ, vâng huấn dụ của Phật, vĩnh viễntại thế giới này mà tế độ chúng sinh", thì đại sĩđại bồ tát, có thể nói được như vậy.

*

Đại thừa, cỗ xe của bồ tát, có thể tổng quát vào trong 3 câu mà luận Trí độ đã nói. Đó là thích ứng với nhất thế trí, đại bi đứng đầu, không thủ đắc là phương tiện. Nhất thế trí là tuệ giác của Phật; đại thừa thì chí nguyệnđời sống phải thích ứng với tuệ giác đó. Đại bitừ bi rộng lớn; đại thừa thì phải thương mà gánh vác lấy chúng sinh. Không thủ đắc là tánh không; đại thừa thì phải từ đó mà làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh. Tương tự 3 câu trên đây, kinh Đại nhật cũng nói tâm bồ đề làm nhân tố, đại bi làm căn bản, phương tiện làm hoàn thành. Đừng lầm lẫn phương tiện là tùy tiện. Phương tiệnáp dụng nhưng phương cách khéo léo để ích lợi chúng sinh, hội nhập tuệ giác.

Nhìn lại Duy ma thì thấy kinh này chủ não là Bát nhã, văn phong là Hoa nghiêm.

Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt. Với 2 tâm này, Duy ma cho thấy có thể, và cần phải, sử dụng và hoạt dụng đến thành ra diệu dụng, đối với toàn bộ cuộc đờiviệc đời. Bao nhiêu kyՠthuật công nghệ, bồ tát thì phải học, phải làm và phải dạy, đã đành, chính trị, quân sự, Duy ma cũng không bỏ. Thế giới càng xuống dốc, bồ tát càng có mặt và ra sức. Do vậy, bồ tát không phải được đề cao mà là bị đòi hỏi, phải "bất khả tư nghị".

Duy ma là như vậy. Nên học tập và truyền bá kinh này là "đi theo đường đi của đức Thế tôn".

Mười sáu tháng 5, 2537

Trí quang


(1) Trước hết hãy biết một vài ghi chú. Ngài Huyền tráng ghi: Đến Phệ xá ly (Tì da li)... Tây bắc cung thành cách năm sáu dặm có 1 già lam, cạnh già lam có 1 ngôi tháp, đó là chỗ xưa Phật nói kinh Tì ma la cật (Duy ma). Đông bắc cách ba bốn dặm có 1 ngôi tháp, đó là nhà cũ của Tì ma la cật. Nhà này hãy còn nhiều sự linh dị. Cách đó không xa, có 1 phòng chất đá làm ra, đó là chỗ Tì ma la cật hiện bịnh thuyết pháp. Bên cạnh có nhà cũ của Bảo tích, nhà cũ của Yêm ma la nữ. (Chính 55/235).

Ngài Khuy cơ ghi: Phệ xá li, dịch Quảng nghiêm. Nước này chu vi có 8000 dặm. Đại đô thành nước này nay tuy đổ nát, nhưng nền cũ vẫn còn, chu vi sáu bảy mươi dặm. Nền thành vương cung chu vi bốn năm dặm. Phía tây bắc cung thành cách năm sáu dặm có một ngôi già lam, học tập Chánh lượng bộ. Cạnh ngôi già lam này có 1 ngôi tháp, Phật đã ở đây nói kinh Vô cấu xưng, chỗ mà bấy giờ trưởng giả tử Bảo tánh dâng lọng. Phía bắc ngôi già lam cách ba bốn dặm là vườn Yêm la nữ, được đem hiến Phật và Ngài thường ở đấy. Đông bắc ngôi già lam cách ba bốn dặm thì có nhà cũ của Vô cấu xưng. Cách nhà không xa, có 1 nhà thần, hình dáng như chất gạch, truyện nói rằng đó là phòng chất đá mà thành, và là chỗ Vô cấu xưng hiện bịnh thuyết pháp. Cách chỗ này không xa, có 1 ngôi tháp, đó là nhà cũ của Bảo tánh. Cạnh nhà này không xa, là nhà cũ của Yêm ma la nữ... Yêm ma laẤn độ có trái yêm ma la. Thành này có nữ nhân lấy tên theo trái ấy, nên gọi là Yêm ma la nữ. Yêm ma la nữ có khu vườn hơn hết..., sau đem hiến Phật, và Ngài thường du ngụ (Vạn 29/196AB).

Ngài Thái hư ghi: Đời Đường có Vương Huyền Sách từng đến Ấn độ. Bấy giờ nhà của ngài Duy ma đang còn. Ông vốn ngờ kinh này nói nhà này nhỏ mà chứa được 900 vạn người và 32000 tòa sư tử cao lớn. Tòa sư tử thì xác định lớn, mà nhà không biết nhỏ đến đâu. Ông lấy hốt mà đo chu vi nhà thì 4 phía đều được 10 hốt. Mỗi hốt 1 thước, tức 1 trượng. Do vậy mà tán thán thần lực của ngài Duy ma. Ngài Huyền tráng cũng đến Ấn độ, từng đến nhà ngài Duy ma. Nhìn cái nhà nhỏ, bụng nghi kinh nói không thật, muốn viết lên vách nhà để tỏ ý mình. Nào ngờ chấm bút muốn viết thì vách với người chung cục cách nhau mãi mà không gần được, sờ cũng không thấu, gần trọn ngày mà không viết được chữ nào. Ngài gác bút mà tán thán di tích còn thế, huống chi thần lực xưa kia (Thái hư toàn thư, 866).

Tham chiếu các kinh khác, như kinh Nguyệt thượng nữ v/v, chép ngài Duy ma họ Lôi, vợ là Kim cơ, con trai là Thiện tư, con gái là Nguyệt thượng. Vậy ngài Duy ma là người thật đời Phật (Thái hư toàn thư 903).

Vài ghi chép trên đây chứng tỏ ngài Duy ma không những là người thật thời Phật, mà còn 1 vị đại cư sĩ, đại bồ tát đến có thể gọi là bồ tát bất khả tư nghị. Thế nhưng tại sao sách vở của cái Phật giáo gọi là nguyên thỉ xưa nay ghi về đệ tử tại gia danh tiếng của Phật không thấy ghi về ngài. Tất phải có một sự húy kào đó. Thời Phật, nói bồ tát chỉ có đức Di lạc, là sai. Ngoài đức Di lạc, và ngài Duy ma, nổi tiếng còn có hoàng hậu Thắng man, nhất là có 16 người gọi là nhóm Hiền hộ. Tất cả đều không được sách vở Phật giáo nguyên thỉ ghi đến.

Nhưng ở đây xác định ngài Duy ma là một vị đại bồ tát. Dầu kinh ngài nói là nói về bất khả tư nghị đi nữa, không thể vì vậy mà cho là nhân vật giả tạo, bồ tát giả tạo.

(2) Kinh này được kê có 6 bản dịch. Nhưng trong Đại tạng hiện còn chỉ có 3 bản. Thứ nhất là của Cung minh Chi khiêm. Thứ hai là của dịch giới chi vương La thập. Thứ ba là của Đại đường tam tạng Huyền tráng. Tức các số 474, 475, 476 của Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (Chính 14/519-588). Bản thứ hai là định bản. Phật giáo đại sự biểu của Lương Khải Siêu ghi bản ấy xuất hiện năm 406 (Phật học nghiên cứu, phụ lục bài 1, trang 16).

Bản thứ hai có cái tên Duy ma cật sở thuyết bất khả tư nghị giải thoát pháp môn kinh: bản kinh mà ngài Duy ma cật nói về pháp môn giải thoát tên bất khả tư nghị. Vậy gọi là kinh Duy ma là gọi tắt tên người, nhưng phần chính kinh Duy ma là sự Bất khả tư nghị.

Bản dịch thứ hai này của ngài La thập được hầu hết các vị đại sư danh tiếng chú thích, trong đó có các ngài Tuệ viễn, Trí giảCát tạng. Nhưng quí nhất, căn bản nhất, chính là bản Chú Duy ma kinh của chính ngài Tăng triệu, thuật lại lời ngài La thập, ngài Đạo sanh và lời mình (Vạn 27/170-278). Bản này là tài liệu chính yếu mà tôi căn cứ để dịch giải kinh này. Ngoài ra, bản dịch thứ ba của ngài Huyền tráng thì có chính ngài Khuy cơ chú sớ (Chính 29/182-322). Dĩ nhiên bản dịch thứ ba và bản chú sớ này tôi tham khảo rất nhiều.

Cũng nên nói thêm, bản dịch thứ hai của ngài La thập không những nổi tiếngnghĩa lý mà còn nhất là vì văn chương. Thi hào Vương Duy đời Đường lấy hiệu Ma cật, là lấy tên ngài Duy ma đó. Chưa hết. Các tác giả từ chương và kịch khúc còn lấy cảm hứng ở đoạn thiên nữ hiến hoa trong phẩm 7. Học giả Hồ Thích đã nói kinh này là hài kịch triết lý.

Như đã thấy, kinh này gọi tắt là kinh Duy ma, nhưng chủ yếu là sự bất khả tư nghị. Từ ngữ này có nghĩa là sự việc không thể nghĩ và bàn một cách bình thường. Ở đây cũng có chút ít cái ý bất khả tư nghịsiêu việt tư duy mô tả, là tâm hành xứ diệtngôn ngữ đạo đoạn.

Trọn kinh Duy ma, từ đầu đến cuối, từ đại thể đến chi tiết, đều là bất khả tư nghị. Bối cảnh và nội dung bất khả tư nghị ấy không phải chỉ có một chiều. Tuy nhiên phần chính vẫn là trực tiếp và gián tiếp tấn công tiểu thừa. Nên kinh Duy ma đại thừa này mà không bị cái gọi là Phật giáo nguyên thỉ gạt đi, ngài Duy ma không bị không ghi đến, mới là điều đáng ngạc nhiên.

(3) Sự bất khả tư nghị đầu tiên là kinh Duy ma đề cao cư sĩ. Thế nhưng không phải đề cao là nói làm sao cho vai trò cư sĩ cao lên.

Tăng bảo dĩ nhiênthiểu số, trong đạo cũng như ngoài đời. Phật cũng không khuyến khích lắm hay tìm cách làm cho ai cũng xuất gia. Nhưng hàng xuất giaTăng bảo. Tăng bảo mà bất xứng thì bản thân Tăng bảoPhật giáo phải rán chịu, chứ địa vị Tăng bảo không ai có thể thay thế.

Trong kinh Duy ma, vị cư sĩ này biện tài vô ngại. Không một thanh văn hay bồ tát nào gặp ông mà có thể đối thoại. Thế nhưng, trừ đoạn tôn giả Phú lâu na trong phẩm 2, các vị tỷ kheo có lạy ngài Duy ma. Ngoài ra, lễ nghi tăng già cư sĩ không có chỗ nào sơ suất. Vậy đề cao cư sĩ là đề cao thế nào?

Bản chất của Phật pháp là không phải chỉ đặc biệt giành cho ai. Ai cũng có phần Phật pháp. Nhưng là cái phần đúng theo giới pháphình thức giới pháp. Như vậy nói chỉ có Tăng bảo mới hoằng pháp là sai, và dĩ nhiên cũng là sai nếu nói cư sĩ chỉ hộ pháp. Trừ sinh hoạt kiết ma, tất cả Phật tử, Tăng bảo cũng như cư sĩ đều tùy vị trí mà làm mọi việc Phật. Có điều làm như vậy, nếu là xuất gia thì tương đối dễ hơn, vì, như kinh Ưu bà tắc nói, bồ tát có 2, có tại giaxuất gia. Xuất gia làm việc bồ tát thì không khó, tại gia làm việc bồ tát mới khó hơn, vì tại gia thì bị bao nhiêu điều phiền nhiễu.

Do vậy mà Duy ma là một hình ảnh cư sĩ bất khả tư nghị. Hình ảnh đó, trước hết kinh này muốn có.

(4) Phật xuất thế, đầu tiên thiết lập Tăng bảo ngay nơi vị trí thanh văn. Thanh văn mà phạn hạnh dĩ lập, bất thọ hậu hữu, ấy là đã rốt ráo. Sự thiết lập này, về sau, vừa làm cho Tăng bảo ngày càng xa với Phật quả, vừa làm cho Phật pháp ngày càng hẹp hòi. Mục đích luận của Phật giáo lại chẳng phải chỉ là la hán. Vì lẽ đó, sau khi đưa Tăng bảo đến thanh văn rồi thì tất nhiên Phật phải hướng dẫn họ bước tới nữa. Thậm chí ngang đây, Pháp hoa công nhậnthanh văn mà không công nhậnniết bàn của thanh văn.

Phật, sau thanh văn thì tất nhiên đưa đến bồ tát. Bồ tát không phải chỉ là cái thân tối hậu của một đức Phật, không phải chỉ là vị trải qua 100 kiếp tu bách phước tướng hảo, cũng không phải chỉ là vị được thọ ký thay Phật. Bồ tát được quan niệm như vậy là của tiểu thừa. Đại thừa thì ai cũng có thể làm Phật. Phật có bao nhiêu phẩm chất mà La hán không có. Làm Phật thì phải bằng giai đoạn bồ tát. Đại thừa nói rõ tâm ta tưởng Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Nghĩa là ai cũng có thể làm bồ tát, không kể tại gia hay xuất gia. Mà tại gia có khi còn có cơ hội hơn.

Khi hướng dẫn thanh văn thì Phật bảo phạn hạnh dĩ lập, bất thọ hậu hữu. Khi thăng tiến thanh văn làm bồ tát thì Phật bảo tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh). Chính vì vậyDuy ma đóng góp vào việc thăng tiến này. Thế nhưng sự bất khả tư nghị ở đây không phải ở nơi ngài Duy ma, mà chính là ở nơi các vị thanh văn đóng cái vai trò bị khiển trách để thực hiện ý muốn của Phật.

(5) Đặc biệt là Thuyết hữu bộ, sau khi chiếm Thượng tọa bộ, trọng luận hơn kinh, trước tác nghiêm mật, làm cho sinh khí linh động của Phật giáo, nhất là Phật giáo thời Phật, gần như mất hẳn. Chính điều này đã sản sinh hoạt động của các bộ phái, đặc biệtđại thừa, đặc biệt là kinh Duy ma. Kinh này cực kỳ linh động, trong tư tưởng cũng như trong ngôn ngữ. Do vậy, cái sinh khí trung đạo linh động của thời Phật dầu không sống lại được hoàn toàn, kinh Duy ma cũng phá vỡ được những hình thức cứng nhắc, những sinh hoạt tự cao và cô lập, phá vỡ cái Phật giáo Thuyết hữu bộ. Tất cả những gì gọi là bất khả tư nghị trút hết cho việc thứ 4 ở trên thì nay lại càng trút hết cho việc thứ 5 này.

(6) Thống quán toàn bộ Duy ma, trước hết thấy hay nói đến nhất là sự phát bồ đề tâm và chứng vô sinh nhẫn. Phát bồ đề tâmchí nguyện đại thừa. Vô sinh nhẫn là nhẫn sự vô sinh phiền não (tức gần như vô sinh trí, sau tận trí, nói theo tiểu thừa).

Thống quán như vậy tự lộ ra toàn bộ Duy ma là nói về tịnh độ. Kinh này có 14 phẩm, trừ 2 phẩm sau là phần lưu thông, còn 12 phẩm trước toàn là nói về tịnh độ.

Tịnh độ của kinh Duy ma trình bày thật là linh động. Từ phẩm 1 nói tâm tịnh độ tịnh, đến phẩm 12 nói muốn được tịnh độ thì phải đi theo đường đi của Phật.

Duy ma nói về tịnh độ dưới nhiều sự việc và dạng thức thật là bất khả tư nghị, đề cao và lấy làm tiêu ngữ 2 câu tóm tắt hết thảy bồ tát hạnh, ấy là làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh.

Có một chi tiết nhỏ cũng đáng nói đến. Tức như cái phòng của ngài Duy ma, ở đây không nói là báo độ như các nơi khác, mà nói theo ngôn ngữ Duy mabất khả tư nghị. Lại còn một chi tiết nữa, tuồng như Đông phương tịnh độ (Bất động như lai) thịnh hành trước cả Tây phương tịnh độ (Di đà như lai).

(7) Thế nhưng vấn đề vẫn chưa hết. Phải có sự so sánh chút ít giữa Duy maPháp hoa. Pháp hoa đối với tiểu thừa thì nhận là phương tiện bước đến đại thừa. Pháp hoa nói thanh vănnội bí bồ tát hạnh, ngoại hiện thanh văn tướng. Pháp hoa thọ ký cho tiểu thừa cuối cùng thành Phật tất cả. Duy ma không như vậy. Duy ma linh hoạt, bất khả tư nghị, lấy chúng sinhphiền não làm đất bùn mọc lên hoa sen. Thế nhưng 2 lần ngài Ca diếp than mất phần, không có khả năng để làm gì được nữa về sự bất khả tư nghị, thì rõ ràng Duy ma tấn công mà không hội qui tiểu thừa.

22.10.2535.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34470)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33327)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56808)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39243)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38334)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52715)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36433)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32100)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43245)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31316)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46471)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36021)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28568)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29066)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31752)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28653)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 28965)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60796)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39521)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26484)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29508)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37138)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39874)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26716)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42445)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37046)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28145)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28765)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26269)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27045)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26079)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34330)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27658)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30305)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33048)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28357)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 29915)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25357)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21725)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51047)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26524)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28476)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27539)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24200)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27288)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31713)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30005)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27548)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35207)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27305)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29845)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31530)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22903)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 23984)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22868)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant