Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Ii

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6666)
Phần Ii

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

2

Bồ Tát

Thăm Bệnh

Bất Khả Tư Nghì

Quan Sát Chúng Sinh


Bồ Tát

Bấy giờ đức Thế tôn bảo bồ tát Di lạc: Đại sĩ hãy đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma. Bồ tát Di lạc thưa với Phật: Bạch đức Thế tôn, con không đủ sức đến thăm bịnh vị trưởng giả ấy. Tại sao? Vì con nhớ trước đây con nói hạnh của địa vị bất thoái cho chúa trời Đâu suấtquyến thuộc của ông. Bấy giờ trưởng giả Duy ma đến, thưa với con: Kính bạch bồ tát Di lạc, đức Thế tôn thọ ký cho nhân giả một đời nữa là thành tựu vô thượng bồ đề, vậy nhân giả dùng đời nào nhận được thọ ký, quá khứ vị lai hay hiện tại? Nếu dùng đời quá khứ thì đời quá khứ đã qua rồi, nếu dùng đời vị lai thì đời vị lai chưa đến, nếu dùng đời hiện tại thì đời hiện tại không ngừng, đúng như Thế tôn đã nói, chư tỷ kheo, chính ngay bây giờ mà các vị vừa sinh vừa già vừa chết. Nếu dùng cái không có đời nào mà nhận được thọ ký, thì không có đời nàovị trí chính yếu, trong vị trí chính yếu cũng không có thọ ký, không có sự được vô thượng bồ đề. Như vậy làm sao nhân giả được thọ ký một đời, từ chân như sinh mà được thọ ký, hay từ chân như diệt mà được thọ ký? Từ chân như sinh thì chân như không sinh, từ chân như diệt thì chân như không diệt. Tất cả chúng sinh toàn là chân như, tất cả các pháp cũng toàn chân như, tất cả hiền thánh cũng toàn là chân như, đến như nhân giả cũng là chân như. Nếu nhân giả được thọ ký thì tất cả chúng sinh đáng lẽ cũng được thọ ký, tại sao, vì chân như là không nhị biên, không các tánh khác nhau. Nếu nhân giả được vô thượng bồ đề thì tất cả chúng sinh đáng lẽ cũng được, tại sao, vì chúng sinh chính là bồ đề. Nếu nhân giả được niết bàn thì tất cả chúng sinh đáng lẽ cũng được niết bàn, tại sao, vì chính Phật biết chúng sinh triệt để niết bàn, không còn niết bàn nữa. Do vậy, nhân giả không nên đem pháp này mà dẫn dụ chư thiên, vì thật ra không có người phát tâm vô thượng bồ đề, cũng không có người thoái chuyển tâm ấy. Nhân giả nên làm cho chư thiên này bỏ sự phân biệt về bồ đề. Tại sao? Vì bồ đề không thể được bằng thân, không thể được bằng tâm. Tịch diệtbồ đề, vì diệt hết các tướng. Không xét là bồ đề, vì rời mọi sự vin níu. Không biết là bồ đề, vì không mọi sự nhớ nghĩ. Đoạn trừ là bồ đề, vì xả bỏ mọi thứ kiến chấp. Tách rời là bồ đề, vì tách rời mọi thứ vọng tưởng. Chướng ngạibồ đề, vì chướng ngại mọi sự nguyện cầu. Không chứng vào là bồ đề, vì không có tham trước. Thuận với là bồ đề, vì thuận với chân như. Trú ở là bồ đề, vì trú ở pháp tánh. Đạt đếnbồ đề, vì đạt đến thật tế. Bất nhịbồ đề, vì tách rời ý thức và đối tượng của ý thức. Đồng đẳng là bồ đề, vì đồng đẳng hư không. Vô vibồ đề, vì không sinh trú diệt. Biết rõ là bồ đề, vì biết rõ tâm hành của chúng sinh. Không hội tụ là bồ đề, vì giác quan và đối tượng không hội tụ với nhau. Không hợp là bồ đề, vì tách rời thói quen phiền não. Không vị tríbồ đề, vì không có hình sắc. Giả danhbồ đề, vì danh từ là không. Như biến hóabồ đề, vì không có lấy bỏ. Không loạn độngbồ đề, vì thường tự yên tĩnh. Khéo vắng lặngbồ đề, vì bản tánh thanh tịnh. Không lấy là bồ đề, vì tách rời vin níu. Không khác là bồ đề, vì các pháp đồng đẳng. Không sánh là bồ đề, vì không gì có thể ví dụ. Nhiệm mầu là bồ đề, vì các pháp khó biết. Bạch đức Thế tôn, khi trưởng giả Duy ma nói pháp như vậy thì có hai trăm thiên nhân được vô sinh pháp nhẫn, nên con không đủ sức đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma.

Đức Thế tôn bảo đồng tử Quang nghiêm: Đồng tử hãy đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma. Đồng tử Quang nghiêm thưa với Phật: Bạch đức Thế tôn, con không đủ sức đến thăm bịnh vị trưởng giả ấy. Tại sao? Vì con nhớ trước đây con đi ra thành Tì da li, thì gặp trưởng giả vừa vào thành ấy. Con thi lễ mà hỏi cư sĩ từ đâu đến đây? Trưởng giả trả lời với con, rằng tôi từ đạo tràng đến đây. Con hỏi đạo tràng là chỗ nào? Trưởng giả trả lời: Tâm ngay thẳng là đạo tràng, vì không có giả dối. Phát khởi việc làmđạo tràng, vì có thể làm thành mọi việc. Tâm sâu xađạo tràng, vì tăng thêm công đức. Tâm bồ đềđạo tràng, vì không có lầm lẫn. Bố thíđạo tràng, vì không có hy vọng đáp trả. Trì giớiđạo tràng, vì ý nguyện đầy đủ. Nhẫn nhụcđạo tràng, vì đối với chúng sinh tâm không chướng ngại. Tinh tiếnđạo tràng, vì không biếng nhác thoái lui. Thiền địnhđạo tràng, vì tâm thuần hóa ôn hòa. Trí tuệđạo tràng, vì hiện thấy các pháp. Từ là đạo tràng, vì đồng đẳng chúng sinh. Bi là đạo tràng, vì chịu được mệt nhọc khổ sở. Hỷ là đạo tràng, vì vui thích về pháp. Xả là đạo tràng, vì ghét thương đều cắt đứt. Thần thôngđạo tràng, vì thành tựu sáu thông. Giải thoátđạo tràng, vì có thể trái bỏ. Phương tiệnđạo tràng, vì giáo hóa chúng sinh. Bốn nhiếp pháp là đạo tràng, vì thâu nhiếp chúng sinh. Đa vănđạo tràng, vì thực hành đúng như đã nghe. Chế ngự tâm là đạo tràng, vì chánh quán các pháp. Ba mươi bảy giác phầnđạo tràng, vì xả bỏ pháp hữu vi. Đế là đạo tràng, vì không lừa đảo thế gian. Duyên khởiđạo tràng, vì vô minh cho đến lão tử đều vô cùng tận. Các phiền nãođạo tràng, vì biết đúng như sự thật. Chúng sinhđạo tràng, vì biết là vô ngã. Tất cả các pháp là đạo tràng, vì biết các pháp là không. Chiến thắng ma quânđạo tràng, vì không có nghiêng đổ. Ba cõiđạo tràng, vì không đi mau về đâu. Sư tử gầm là đạo tràng, vì không còn e sợ. Lực, vô úybất cọngđạo tràng, vì không mọi lầm lỗi. Ba minh là đạo tràng, vì không còn sót lại sự chướng ngại nào. Một ý nghĩ biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu nhất thế trí. Như vậy, thiện nam tử, bồ tát nếu thích ứng các pháp ba la mậtgiáo hóa chúng sinh, thì mọi động tác, cất chân lên để chân xuống, nên biết toàn là từ đạo tràng mà đến ở nơi Phật pháp. Khi trưởng giả Duy ma nói pháp như vậy thì năm trăm thiên nhân đều phát tâm vô thượng bồ đề, nên con không đủ sức đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma.

Đức Thế tôn bảo bồ tát Trì thế: Bồ tát hãy đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma. Bồ tát Trì thế thưa với Phật: Bạch đức Thế tôn, con không đủ sức đến thăm bịnh vị trưởng giả ấy. Tại sao? Vì con nhớ ngày trước con ở trong tịnh thất, bấy giờ ma vương Ba tuần đổi dáng Đế thích, cùng mười hai ngàn thiên nữ tấu nhạc hát ca mà đến chỗ con, cùng nhau lạy ngang chân con, rồi chắp tay cung kính đứng qua một phía. Con tưởng là Đế thích nên bảo rằng, đến đây tốt lắm, Kiều thi ca. Nhưng phước đức đáng hưởng cũng đừng buông thả. Phải xét năm dục vô thường để cầu pháp lành. Đem thân thể tính mạngtài sảnthực hiện sự bền chắc. Ma vương liền thưa với con, kính bạch chánh sĩ, xin ngài hãy nhận mười hai ngàn thiên nữ này để giúp việc quét rưới. Con bảo: Kiều thi ca, đừng đem vật phi giới pháp đến cho sa môn Thích tử. Những thiên nữ này không phải thích nghi với tôi. Nói chưa xong thì trưởng giả Duy ma đến, thưa với con: Người này không phải Đế thích, mà là ma vương đến quấy phá bồ tát đó. Tức thì trưởng giả bảo ma vương, hãy cho ta những thiên nữ này. Ta thì nhận được. Ma vương kinh sợ, nghĩ trưởng giả này chắc sẽ não hại ta. Ma vương muốn tàng hình trốn đi mà không tàng hình được. Cùng tận thần lực, ma vương vẫn không thể trốn đi. Thì nghe trong không gian có tiếng bảo: Ba tuần, hãy đem thiên nữ cho đi thì mới đi được. Ma vương vì sợ nên miễn cưỡng mà cho. Trưởng giả Duy ma bảo các thiên nữ: ma vương đã đem các người cho ta, vậy các người nên phát tâm vô thượng bồ đề. Trưởng giả liền thích nghithuyết pháp cho họ phát tâm. Lại bảo, các người đã phát tâm rồi thì có cái vui chánh pháp khả dĩ vui được, không cần vui theo năm dục nữa. Các thiên nữ hỏi, vui theo chánh pháp là thế nào? Trưởng giả nói, là thích tin Phật, thích nghe Pháp, thích cúng Tăng, thích rời năm dục, thích xét năm uẩn như giặc thù, thích xét bốn đại như rắn độc, thích xét sáu giác quan như xóm vắng, thích giữ gìn tâm bồ đề, thích lợi ích chúng sinh, thích kính thờ sư trưởng, thích bố thí rộng rãi, thích giữ giới bền chắc, thích ôn hòa nhẫn nhục, thích siêng năng tập hợp thiển căn, thích thiền định không có loạn động, thích tuệ sáng không có dơ bẩn, thích mở rộng tâm bồ đề, thích chiến thắng ma quân, thích đoạn tuyệt phiền não, thích làm sạch thế giới, thích vì thành tựu tướng hảotu tập mọi thứ công đức, thích trang nghiêm đạo tràng, thích nghe giáo pháp sâu xa mà không sợ, thích ba cửa giải thoát mà không thích phi thời (18) , thích gần đồng họcthích tâm không tức giận chướng ngại đối với những người không phải đồng học, thích nâng đỡ bạn ác và thích thân gần thiện tri thức, thích tâm mừng thanh tịnh (19) , thích tu vô lượng các pháp giác phần. Như thế đó là sự vui thích chánh pháp của bồ tát. Bấy giờ Ba tuần bảo các thiên nữ, ta muốn cùng các người trở về thiên cung. Các thiên nữ nói, ngài đã đem chúng tôi cho vị cư sĩ này, lại có cái vui chánh pháp làm cho chúng tôi rất thích rồi, chúng tôi không còn thích cái vui năm dục nữa. Ma vương nói, thưa cư sĩ, xin ngài phóng xả những thiên nữ này. Cho người tất cả, đó là bồ tát. Trưởng giả Duy ma nói, rồi, ta đã phóng xả rồi đó, nhà ngươi đem họ đi đi. Ấy là để làm cho tất cả chúng sinh được hoàn hảo về ước nguyện chánh pháp. Các thiên nữ hỏi trưởng giả Duy ma, chúng tôi nên ở thiên cung theo cách nào? Trưởng giả Duy ma nói, các chị, có một pháp môn tên là Ngọn đèn vô tận, các chị nên tu học. Ngọn đèn vô tận là như một ngọn đèn đốt cháy cả trăm cả ngàn ngọn đèn, làm cho tối tăm đều sáng lên cả, và cái sáng ấy không bao giờ cùng tận. Như thế ấy, các chị, một vị bồ tát mở mắt dẫn đường cho cả trăm cả ngàn chúng sinh, làm cho họ phát tâm vô thượng bồ đề, thế nhưng tâm vô thượng bồ đề của vị bồ tát ấy vẫn không cùng tận, mà tùy pháp mình nói còn tự tăng thêm mọi thứ thiện pháp, như thế gọi là ngọn đèn vô tận. Các chị dẫu ở thiên cung, vẫn đem ngọn đèn vô tận này làm cho vô số thiên tử thiên nữ phát tâm vô thượng bồ đề, thì thế là báo đáp ân đức của Phật, lại rất lợi ích cho cả chúng sinh. Lúc ấy các thiên nữ đem đầu mặt lạy ngang chân trưởng giả Duy ma, rồi theo ma vương trở về thiên cung. Trong chốc lát họ ẩn mất tất cả. Bạch đức Thế tôn, trưởng giả Duy mathần lực tự tạitrí tuệ hùng biện như vậy, nên con không đủ sức đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma.

Đức Thế tôn bảo trưởng giả tử Thiện đức: trưởng giả tử hãy đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma. Trưởng giả tử Thiện đức thưa với Phật: Bạch đức Thế tôn, con không đủ sức đến thăm bịnh vị trưởng giả ấy. Tại sao? Vì con nhớ ngày trước con thiết lập hội đại thí nơi nhà cha con cho, hiến cúng tất cả sa môn, bà la môn, ngoại đạo, những người nghèo nàn, thấp kém, cô độc, hành khất, kỳ hạn đủ bảy ngày. Bấy giờ trưởng giả Duy ma đến hội đại thí mà bảo con: Trưởng giả tử, hội đại thí thì không nên như ông thiết lập. Hãy làm hội pháp thí, cần gì hội tài thí như thế này. Con hỏi, thưa cư sĩ, hội pháp thí là thế nào? Trưởng giả trả lời: hội pháp thí thì không trước không sau; một lúc mà hiến cúng tất cả chúng sinh, đó là hội pháp thí. Con hỏi: như thế là thế nào? Trưởng giả nói: Vì tuệ giác bồ đề mà khởi lên tâm từ. Vì cứu vớt chúng sinh mà khởi lên tâm bi. Vì giữ chánh pháp mà khởi lên tâm hỷ. Vì thâu nhiếp trí tuệ mà khởi lên tâm xả. Vì thâu nhiếp những kẻ tham lẫn mà khởi lên thí độ. Vì hóa độ những kẻ phạm giới mà khởi lên giới độ. Đem sự vô ngã mà khởi lên nhẫn độ. Đem sự bất kể thân tâm mà khởi lên tiến độ. Đem bồ đề vắng lặng mà khởi lên thiền độ. Vì sự toàn trí mà khởi lên tuệ độ. Vì giáo hóa chúng sinh mà khởi lên không. Vì không bỏ hữu vi mà khởi lên vô tướng. Vì thị hiện thọ sinh mà khởi lên vô tác. Vì hộ trì chánh pháp mà khởi lên phương tiện lực. Vì hóa độ chúng sinh mà khởi lên bốn nhiếp pháp. Vì kính thờ tất cả mà khởi lên sự trừ khử ngạo mạn. Đem thân thể tính mạngtài sản không bền chắc mà khởi lên thân thể tính mạngtài sản bền chắc. Nơi sáu sự tưởng niệm mà khởi lên tưởng niệm. Nơi sáu cách hòa kính mà khởi lên tâm ngay thẳng chân chất. Vì đúng đắn làm lành mà khởi lên cách sống trong sạch. Đem tâm trong sạch hoan hỷ mà khởi lên sự thân gần hiền thánh. Vì không ghét kẻ ác mà khởi lên tâm thuần hóa. Vì sự xuất gia mà khởi lên tâm sâu xa. Vì sự làm đúng với nói mà khởi lên đa văn. Vì sự không tranh cãi mà khởi lên ở chỗ trống vắng. Vì xu hướng tuệ giác của Phật mà khởi lên sự ngồi yên. Vì cởi mở sự ràng buộc chúng sinh mà khởi lên sự tu hành. Vì sự đầy đủ tướng hảo và sạch sẽ thế giới mà khởi lên phước nghiệp. Vì để biết tâm lý chúng sinh, thuyết pháp thích ứng, mà khởi lên trí nghiệp. Vì biết các pháp, không lấy không bỏ, nhập vào đồng nhất, mà khởi lên tuệ nghiệp. Vì đoạn mọi phiền não, mọi chướng ngại, mọi bất thiện, mà khởi lên mọi thiện nghiệp. Vì được tất cả trí tuệ và tất cả thiện pháp mà khởi lên mọi pháp hỗ trợ tuệ giác của Phật. Như thế ấy, thiện nam tử, gọi là hội pháp thí. Bồ tát ở nơi hội pháp thí như vậy là bậc thí chủ vĩ đại, cũng là ruộng phước của toàn thể thế gian. Bạch đức Thế tôn, khi trưởng giả Duy ma nói pháp này thì trong chúng bà la môn có hai trăm người phát tâm vô thượng bồ đề. Còn con, bấy giờ tâm con được thanh tịnh, và con tán dương là chưa từng có. Con cúi đầu lạy ngang chân trưởng giả Duy ma, và cởi ra kính dâng trưởng giả xâu chuỗi ngọc trị giá cả trăm cả ngàn lạng vàng. Nhưng trưởng giả không nhận. Con nói, kính thưa cư sĩ, xin Ngài nhận cho con rồi cho ai thì tùy ý ngài. Bấy giờ trưởng giả mới nhận chuỗi ngọc, chia làm hai phần, đem một phần cho một người hành khất thấp nhất trong hội đại thí, đem một phần dâng đức Nan thắng như lai. Tất cả các chúng trong hội đại thí đều thấy thế giới Quang minh, thấy đức Nan thắng như lai, thấy nửa xâu chuỗi ngọcthế giới ấy biến thành đài ngọc bốn trụ, bốn phía trang sức, không ngăn che nhau. Trưởng giả Duy ma hiện thần biến rồi, nói, nếu người cho mà tâm lý bình đẳng, thì cho một người hành khất thấp nhất cũng như hiến lên ruộng phước Phật đà, không khác gì cả. Hễ tâm đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, thì như thế gọi là pháp thí toàn hảo. Trong thành, một kẻ hành khất thấp nhất thấy thần lực ấy, và nghe lời nói ấy, cũng phát tâm vô thượng bồ đề. Do vậy, con không đủ sức đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma.

Như thế ấy, các bị bồ tát ai cũng thưa với Phật về trường hợp cũ, thuật lại lời nói của trưởng giả Duy ma, và cùng nói không đủ sức đến thăm bịnh vị trưởng giả ấy.

Thăm Bịnh

Lúc ấy đức Thế tôn bảo Văn thù đại sĩ: Đại sĩ hãy đến thăm bịnh trưởng giả Duy ma. Văn thù đại sĩ thưa với Phật: Bạch đức Thế tôn, thượng nhân ấy khó mà đối đáp. Vì thượng nhân ấy thấu suốt thật tướng một cách sâu xa, diễn nói pháp yếu một cách khéo léo, hùng biện không có bế tắc, trí tuệ không bị cản trở, biết hết mọi thể thức đúng pháp của bồ tát, vào hết mọi kho tàng bí yếu của Phật đà, chiến thắng các loại ma quân, du hành các pháp thần thông, trí tuệ phương tiện đều đã hoàn hảo. Tuy nhiên, con xin vâng theo thánh ý của đức Thế tôn mà đến thăm bịnh thượng nhân ấy. Thế là các vị bồ tát, các đại đệ tử của Phật, Đế thích, Phạn vương, bốn Thiên vương, v/v, cùng nghĩ nay hai vị đại sĩ Văn thùDuy ma đàm luận với nhau thì chắc chắn nói về diệu pháp. Tức thì tám ngàn bồ tát, năm trăm thanh văn, một trăm ngàn thiên nhân, đều cùng đi theo.

Văn thù đại sĩ, với sự cung kính bao quanh của các vị bồ tát, các vị đại đệ tử của Phật, và các thiên nhân, đi vào thành Tì da li. Trưởng giả Duy ma nghĩ rằng Văn thù đại sĩ cùng đại chúng sẽ đến đây. Trưởng giả liền dùng thần lực làm cho phòng mình trống không, không để vật gì, cũng không có người hầu, chỉ để lại một cái giường mà nằm với bịnh tật. Văn thù đại sĩ vào nhà trưởng giả Duy ma, thấy phòng trưởng giả không có gì hết, chỉ độc một cái giường nằm. Trưởng giả Duy ma nói, ngài đến tốt quá, ngài Văn thù; ấy là ngài không đến mà đến, không thấy mà thấy đó. Văn thù đại sĩ nói, đúng như vậy, trưởng giả Duy ma; nếu đến rồi thì không đến nữa, nếu đi rồi thì không đi nữa, bởi vì đến thì không từ đâu mà đến, đi thì cũng không đi đến đâu, và thấy được thì không còn thấy nữa.

Nhưng hãy gác việc ấy lại. Trưởng giả Duy ma, bịnh trưởng giả chịu nổi không? chữa trị có bớt mà không thêm không? Đức Thế tôn ân cần hỏi thăm nhiều lắm. Trưởng giả Duy ma, bịnh trưởng giả do đâu và đã bao lâu rồi? làm sao mà hết được? Trưởng giả Duy ma thưa: từ si mà có ái, nên bịnh tôi sinh ra. Chúng sinh bịnh nên tôi bịnh. Chúng sinh bịnh hết thì bịnh tôi cũng hết. Tại sao, bởi bồ tátchúng sinh mà vào sinh tử, có sinh tử là có bịnh. Nếu chúng sinh hết bịnh thì bồ tát không còn bịnh nữa. Như vị trưởng giả chỉ có đứa con một, đứa con bịnh thì cha mẹ bịnh theo, đứa con lành thì cha mẹ cũng lành. Bồ tát cũng vậy. Thương chúng sinh như con, nên chúng sinh bịnh thì bồ tát bịnh, chúng sinh lành bồ tát mới lành. Ngài hỏi bịnh tôi do đâu, thì thưa ngài, bịnh bồ tát là do đại bi mà có.

Văn thù đại sĩ hỏi, trưởng giả, phòng này tại sao trống không, không cả người hầu? Trưởng giả Duy ma nói, thế giới của Phật cũng không như vầy. Hỏi: vì gì mà không? Đáp: vì không mà không. Hỏi: không, vì sao mà không? Đáp: vì không phân biệt. Hỏi: không mà có thể phân biệt được sao? Đáp: chính sự phân biệt cũng không. Hỏi: không, nên tìm thấy ở đâu? Đáp: nên tìm thấy ở trong sáu mươi hai kiến chấp. Hỏi: sáu mươi hai kiến chấp nên tìm thấy ở đâu? Đáp: nên tìm thấy trong sự giải thoát của Phật. Hỏi: sự giải thoát của Phật nên tìm thấy ở đâu? Đáp : nên tìm thấy trong tâm hạnh của chúng sinh. Ngài hỏi tại sao tôi không có người hầu, thì tất cả ma quân ngoại đạo toàn là người hầu của tôi. Lý do là vì ma quân ưa thích sinh tửbồ tát không từ bỏ sinh tử, ngoại đạo ưa thích kiến chấpbồ tát không dao độngkiến chấp.

Văn thù đại sĩ lại hỏi: bịnh của trưởng giảtrạng huống gì? Đáp: bịnh tôi không có trạng huống, không thể thấy được. Hỏi: bịnh ấy chung với thân hay chung với tâm? Đáp: bịnh tôi không phải chung với thân, vì thực tính của thân là tách rời, cũng không phải chung với tâm, vì tâm thì như huyễn ảo. Hỏi: trong bốn đại chủng, bịnh trưởng giảđại chủng nào? Đáp: bịnh tôi không phải đại chủng đất, cũng không tách rời đại chủng đất; các đại chủng thủy, hỏa và phong cũng vậy. Nhưng bịnh chúng sinh do bốn đại chủng mà có, và vì chúng sinh bịnh nên tôi bịnh.

Lúc ấy Văn thù đại sĩ hỏi trưởng giả Duy ma: bồ tát nên an ủi như thế nào đối với bồ tát có bịnh? Trưởng giả thưa: Hãy nói thân vô thường mà đừng bảo chán bỏ thân. Nói thân khổ sở mà đừng bảo thích thú niết bàn. Nói thân vô ngã mà bảo giáo hóa hướng dẫn chúng sinh. Nói thân trống vắng mà đừng bảo vắng lặng hoàn toàn. Hãy khuyên sám hối tội cũ nhưng không nói tội thường còn, di chuyển theo thì gian (20) . Khuyên do bịnh của mình mà thương bịnh người khác. Khuyên nên ý thức cái khổ vô số kiếp quá khứ mà nghĩ nhớ lợi ích chúng sinh. Khuyên nhớ phước đã làm và nhớ cách sống trong sạch. Khuyên đừng lo rầu mà thường xuyên tinh tiến. Khuyên nguyện làm thầy thuốc bậc nhất để chữa trị mọi bịnh. Bồ tát nên khuyến khích như vậy cho bồ tát có bịnh, để bồ tát có bịnh được hoan hỷ.

Văn thù đại sĩ lại hỏi trưởng giả Duy ma: bồ tát có bịnh thì thuần hóa tâm mình như thế nào? Trưởng giả thưa: bồ tát có bịnh nên nghĩ bịnh mình sinh ra từ phiền não thác loạn đời trước, không phải có thật, thì ai là người bị bịnh. Tại sao như vậy? Vì bốn đại chủng hóa hợp thì có cái danh từ giả thiết là thân, bốn đại chủng không có chủ thể thì thân cũng không có tự ngã. Lại nữa, bịnh đây là do chấp ngã, nên đừng có chấp ngã. Biết gốc bịnh rồi thì nên trừ khử ý tưởng ngã, ý tưởng chúng sinh, bằng cách khởi lên ý tưởng pháp. Nên nghĩ như vầy: chỉ do các pháp hợp lại mà thành ra thân này, vậy sinh chỉ là pháp sinh, diệt chỉ là pháp diệt. Chính các pháp cũng không thông tin cho nhau, khi sinh không nói ta sinh, khi diệt không nói ta diệt. Bồ tát có bịnh lại nghĩ như vầy để trừ bỏ ý tưởng pháp: Ý tưởng pháp cũng là thác loạn. Thác loạn là đại họa, ta phải trừ bỏ. Trừ bỏ cách nào? Phải tách rời ngã ngã sở. Làm sao tách rời ngã ngã sở? Phải tách rời nhị biên. Làm sao tách rời nhị biên? Phải thể hiện bình đẳng mà không nghĩ rằng đây là các pháp ở trong, đây là các pháp ở ngoài. Thể hiện bình đẳng như thế nào? Là ngã bình đẳng, niết bàn cũng bình đẳng. Tại sao như vậy? Vì ngã với niết bàn cả hai đều là không. Vì gì mà không? Vì chỉ có danh từ. Cả hai pháp đều không có tự tánh quyết định: được bình đẳng như vậy thì không còn bịnh gì nữa, mà chỉ có cái bịnh về không. Nhưng cái bịnh về không cũng là không. Vậy là bồ tát có bịnh đem cái không chịu gì hết mà chịu mọi cảm giác. Chưa toàn hảo Phật pháp thì cũng không hủy diệt cảm giác mà thủ chứng.

Nếu thân thể khổ sở thì nghĩ đến chúng sinh trong các nẻo đường dữ mà nổi dậy lòng đại bi, rằng mình thuần hóa thì cũng thuần hóa chúng sinh, và chỉ trừ khử bịnh chứ không trừ khử pháp (21) . Vì đoạn tuyệt gốc bịnh mà giáo hóa hướng dẫn chúng sinh. Gốc bịnh là gì? Là phan duyên (22) : phan duyên là gốc bịnh. Phan duyên gì? Phan duyên ba cõi. Làm sao đoạn tuyệt phan duyên? Hãy không thủ đắc: không thủ đắc thì không phan duyên. Không thủ đắc là gì? Là siêu việt nhị biên. Nhị biên là gì? Là thấy trong thấy ngoài, và toàn bộ là không thể thủ đắc. Văn thù đại sĩ, như thế ấy gọi là bồ tát có bịnh thuần hóa tâm mình, đoạn tuyệt những nỗi khổ già bịnh chết bằng tuệ giác bồ đề của bồ tát. Nếu không được như vậy thì sự tu trị của bồ tát không có trí tuệlợi ích gì cả. Thắng kẻ thù mới là mạnh, đoạn tuyệt cả già bịnh chết mới gọi là bồ tát.

Bồ tát có bịnh lại nghĩ, bịnh mình không thật không có, bịnh chúng sinh cũng không thật không có. Khi xét như vậy mà đối với chúng sinh nổi lên lòng đại bi ái kiến (23) thì phải tức khắc xả bỏ. Tại sao? Bởi bồ tát thì vì trừ khử phiền não mà nổi lên đại bi, còn đại bi ái kiến thì đối với sinh tử có lòng chán mệt. Xả bỏ đại bi ái kiến thì không bị ái kiến ngăn che. Sinh ra ở đâu cũng không bị ràng buộc, như thế mới có thể thuyết pháp mà cởi mở ràng buộc cho chúng sinh. Như Phật đã dạy, mình bị ràng buộc mà cởi mở được ràng buộc cho người thì vô lý, mình không bị ràng buộc mà cởi mở được ràng buộc cho người thì có lý. Do vậy, bồ tát không nên khởi lên sự ràng buộc. Ràng buộc là gì? Cởi mở là gì? Tham đắm mùi thiền là sự ràng buộc của bồ tát, phương tiện mà sinh là sự cởi mở của bồ tát. Thêm nữa tuệ giác không phương tiệnràng buộc, tuệ giácphương tiện là cởi mở, phương tiện không tuệ giác là ràng buộc, phương tiệntuệ giác là cởi mở. Tuệ giác không phương tiệnràng buộc, là thế nào? Là bồ tát do ái kiến mà làm sạch thế giới và làm nên chúng sinh, ở trong không vô tướng vô tác mà tự thuần hóa, như vậy gọi là tuệ giác không phương tiệnràng buộc. Tuệ giácphương tiện là cởi mở, là thế nào? Là bồ tát không đem ái kiến mà làm sạch thế giới và làm nên chúng sinh, ở trong không vô tướng vô tác tự thuần hóa mà không chán mệt, như vậy gọi là tuệ giácphương tiện là cởi mở. Phương tiện không tuệ giác là ràng buộc, là thế nào? Là bồ tát ở nơi các phiền não tham dục, sân hậntà kiến v/v mà trồng các các gốc rễ công đức, như vậy gọi là phương tiện không tuệ giác là ràng buộc. Phương tiệntuệ giác là cởi mở, là thế nào? Là bồ tát rời bỏ các phiền não tham dục, sân hậntà kiến v/v mà trồng các gốc rễ công đức, hồi hướng vô thượng bồ đề, như vậy gọi là phương tiệntuệ giác là cởi mở. Văn thù đại sĩ, Bồ tát có có bịnh nên xét các pháp như vậy. Lại xét thân này vô thường khổ không vô ngã, đó là tuệ giác; dầu thân có bịnh mà thường ở trong sinh tử lợi ích tất cả chứ không chán mệt, đó là phương tiện. Lại xét thân không rời bịnh, bịnh không rời thân, thân này bịnh này không cái nào mới không cái nào cũ, đó là tuệ giác; dầu thân có bịnh mà không vĩnh viễn niết bàn, đó là phương tiện.

Văn thù đại sĩ, bồ tát có bịnh nên thuần hóa tâm mình như vậy mà không ở trong sự thuần hóa, cũng không ở trong sự không thuần hóa. Tại sao, vì ở trong sự không thuần hóaphàm phu, ở trong sự thuần hóathanh văn, do vậy, bồ tát không ở trong sự thuần hóa, không ở trong sự không thuần hóa, tách rời nhị biên ấy là bồ tát hạnh. Ở trong sinh tử mà không ô nhiễm, ở trong niết bàn mà không vĩnh diệt, ấy là bồ tát hạnh. Không phải làm như phàm phu, không phải làm như hiền thánh, ấy là bồ tát hạnh. Không phải việc làm dơ bẩn, không phải việc làm trong sạch, ấy là bồ tát hạnh. Tuy đã vượt quá ma quân mà vẫn thị hiện chiến thắng ma quân, ấy là bồ tát hạnh. Cầu trí toàn giác mà không cầu kết quả chưa đến lúc, ấy là bồ tát hạnh. Quán sát các pháp không sinh mà không nhập vào chính vị, ấy là bồ tát hạnh. Quán sát mười hai duyên khởi mà nhập vào tà kiến, ấy là bồ tát hạnh. Thu nhận chúng sinh mà không ái trước, ấy là bồ tát hạnh. Thích thú xa rời mà không diệt tận thân tâm, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong ba cõi mà không làm hỏng pháp tánh, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong không mà trồng các gốc rễ công đức, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong vô tướnghóa độ chúng sinh, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong vô tácthị hiện thọ thân, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong sự không nổi lên mà nổi lên thiện hạnh, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong sáu độ mà biết khắp tâm tâm sở của chúng sinh, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong sáu thông mà không diệt tận phiền não, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong bốn tâm vô lượng mà không ham sinh Phạn thiên, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong thiền định giải thoáttam muội mà không thọ sinh theo thiền định, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong bốn niệm xử mà không vĩnh ly thân thọ tâm pháp, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong bốn chánh cần mà không xả bỏ thân tâm tinh tiến, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong bốn thần túc mà đã được thần thông tự tại, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong năm căn bản mà biết rành các căn lanh chậm của chúng sinh, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong năm năng lực mà thích cầu mười năng lực của Phật, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong bảy giác chiphân biệt tuệ giác của Phật, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong tám chánh đạo mà thích đi theo Phật đạo vô lượng, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong chỉ và quán là những pháp hỗ trợ tuệ giác mà không tuyệt đối sa vào tịch diệt, ấy là bồ tát hạnh. Đi trong sự không sinh không diệt của các pháp mà trang nghiêm thân thể bằng các tướng hảo, ấy là bồ tát hạnh. Hiện ra cử động của thanh văn duyên giác mà không rời bỏ các pháp của Phật đà, ấy là bồ tát hạnh. Tùy thuận sự rốt ráo trong sạch của các pháp mà tùy theo thích ứng biến hiện thân mình, ấy là bồ tát hạnh. Quán các quốc độ vĩnh tịch như hư không mà biến hiện mọi thứ tịnh độ, ấy là bồ tát hạnh. Được Phật tuệ, chuyển pháp luân, nhập niết bàn, mà không rời bỏ đường đi bồ tát, ấy là bồ tát hạnh.

Khi trưởng giả Duy ma nói như vậy, thì trong số đại chúng đi theo Văn thù đại sĩ có tám ngàn thiên nhân cùng phát tâm vô thượng bồ đề.

 

Bất Khả Tư Nghị

Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất thấy trong phòng trưởng giả Duy ma không có giường ghế thì nghĩ rằng các vị bồ tát và các vị đại đệ tử của Phật sẽ ngồi ở đâu. Trưởng gỉa Duy ma biết ý nghĩ ấy nên thưa với tôn giả Xá lợi phất, thế nào thưa ngài, ngài đến đây là vì chánh pháp hay vì chỗ ngồi? Tôn giả Xá lợi phất nói, tôi đến vì chánh pháp, không vì chỗ ngồi. Trưởng giả thưa: Dạ, kính bạch tôn giả, cầu chánh pháp thì thân mạng cũng không tiếc, huống chi chỗ ngồi. Cầu chánh pháp thì không phải cầu theo năm uẩn mười hai xứ hay mười tám giới, không phải cầu theo ba cõi. Dạ, kính bạch tôn giả, cầu chánh pháp thì không theo sự tham trước Phâểt tham trước Pháp hay tham trước Tăng. Cầu chánh pháp thì không cầu theo sự biết khổ đoạn tập chứng diệt tu đạo, tại sao, vì pháp khônghý luận; nếu nói tôi phải biết khổ đoạn tập chứng diệt tu đạo thì thế là hý luận, không phải cầu chánh pháp. Dạ, kính bạch tôn giả, pháp thì tịch diệt, đi theo sinh diệtcầu sinh diệt chứ không phải cầu chánh pháp. Pháp thì không nhiễm trước, nếu nhiễm theo các pháp thì dẫu đến niết bàn cũng là nhiễm trước, không phải cầu chánh pháp. Pháp không phải chỗ đi, đi theo các pháp là đi theo chỗ đi, không phải cầu chánh pháp. Pháp không lấy bỏ, lấy bỏ các pháp thì thế là lấy bỏ, không phải cầu chánh pháp. Pháp không nơi chỗ, vướng mắc nơi chỗ thì thế là vướng mắc, không phải cầu chánh pháp. Pháp thì vô tướng, nhận thức theo tướng thì thế là cầu tướng, không phải cầu chánh pháp. Pháp không trú ở, trú ở các pháp thì thế là trú ở, không phải cầu chánh pháp. Pháp không thể thấy nghe hay biết, đi theo thấy nghe hay biết thì thế là thấy nghe hay biết, không phải cầu chánh pháp. Pháp thì vô vi, đi theo hữu vi thì thế là hữu vi, không phải cầu chánh pháp. Do vậy, kính thưa tôn giả, cầu pháp là đối với các pháp không cầu gì cả. Khi trưởng giả Duy ma nói như trên đây thì có năm trăm thiên nhân đối với các pháp được mắt pháp trong sáng.

Trưởng giả Duy ma hỏi Văn thù Đại sĩ: kính thưa đại sĩ, ngài từng dạo đi vô số thế giới, vậy thế giới nào có những cái tòa sư tử tuyệt hảo nhất? Văn thù đại sĩ nói, trưởng giả, phía đông, vượt qua ba mươi sáu hằng sa thế giới, có thế giới tên Tu di tướng, đức Phật giáo chủ thế giới ấy hiệu là Tu di đăng vương, hiện còn tại thế. Thân Ngài cao tám mươi bốn ngàn do tuần, tòa sư tử của Ngài cũng cao với số ấy, đẹp đẽ bậc nhất. Trưởng giả Duy ma liền hiện thần lực. Tức thì ba mươi hai ngàn tòa sư tử cao lớn đẹp đẽ được đức Tu di đăng vương như lai cho đến phòng trưởng giả Duy ma. Các vị bồ tát, các vị đại đệ tử, Đế thích, Phạn vương, bốn Thiên vương, v/v, trước đấy chưa bao giờ được thấy. Phòng của trưởng giả bấy giờ rộng lớn, chứa ba mươi hai ngàn tòa sư tử ấy mà không chướng ngại gì cả. Cùng lúc, thành Tì da li, cả đại lục Diêm phù, và ba đại lục khác, cũng không bị dồn ép gì, ai cũng thấy như cũ. Bấy giờ trưởng giả Duy ma thưa với Văn thù đại sĩ, xin mời ngài đến ngồi trên tòa sư tử! Mời các bồ tát thượng nhân cùng ngồi! Xin các ngài tự biến thân mình cho xứng với tòa ấy. Các vị bồ tát được thần thông thì tự biến mình cao lớn bốn mươi hai ngàn do tuần, ngồi lên trên tòa sư tử. Các vị bồ tát mới phát tâm, các vị đại đệ tử, đều không lên ngồi được. Trưởng giả Duy ma thưa tôn giả Xá lợi phất, xin mời ngài lên ngồi trên tòa sư tử! Tôn giả nói, trưởng giả, tòa này cao lớn quá, tôi không lên được. Trưởng giả thưa: Dạ, kính bạch tôn giả, xin ngài đảnh lễ đức Tu di đăng vương như lai thì lên ngồi được. Các vị bồ tát mới phát tâm và các vị đại đệ tử cùng lạy đức Tu di đăng vương như lai, và tức thì cùng lên ngồi được trên tòa sư tử.

Tôn giả Xá lợi phất nói, trưởng giả, thật là chưa từng có! Cái phòng như vầy chứa được số tòa cao lớn như vầy, mà thành Tì da li không có gì trở ngại, thành thị thôn xóm toàn cõi Diêm phù, cùng với cung điện chư thiên, long vươngquỉ thần trong ba đại lục khác cũng không thấy dồn ép gì. Trưởng giả Duy ma thưa: Dạ, kính bạch tôn giả, chư Phật bồ tátsự giải thoát tên là Bất khả tư nghị. Vị bồ tát ở trong sự giải thoát này thì đem núi Tu di cao lớn nạp vào trong hạt cải mà không thêm không bớt gì. Núi Tu di vẫn nguyên trạng, bốn Thiên vương cùng chư thiên Đao lợi cũng không hay biết mình nạp vào đó, chỉ có người đáng được hóa độ bằng sự này mới thấy Tu di nạp vào hạt cải. Như thế gọi là pháp môn giải thoát Bất khả tư nghị. Lại đem bốn đại dương nạp vào một lỗ chân lông, vậy mà không náo động các loài thủy sản, bốn đại dương cũng vẫn nguyên trạng, long chúng, quỉ thần cùng với a tu la, v/v, cũng không hay biết mình được nạp vào đó, và họ cũng không bị quấy rối gì. Kính bạch tôn giả, vị bồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị ngắt lấy đại thiên thế giới rồi, như vòng tròn của người thợ gốm (24) để trong lòng bàn tay phải, ném quá hằng sa thế giới, vậy mà chúng sinh trong đó không hay biết mình đến đâu; rồi lấy đặt lại chỗ cũ, cũng không để cho chúng sinh hay biết mình trở lại, và đại thiên thế giới cũng vẫn nguyên trạng. Kính bạch tôn giả, có những người thích tồn tại lâu dài mới hóa độ được, thì bồ tát kéo dài bảy ngày đêm thành ra một kiếp, làm cho họ thấy đó là một kiếp; có những người không thích tồn tại lâu dài mới hóa độ được, thì bồ tát rút ngắn một kiếp thành ra bảy ngày đêm, làm cho họ thấy đó là bảy ngày đêm. Kính bạch tôn giả, vị bồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị đem mọi sự trang nghiêm của các quốc độ tập hợp lại nơi một quốc độ để chỉ cho chúng sinh, hoặc đem một quốc độ chúng sinh đặt trong lòng bàn tay phải, phi đến mười phương chỉ cho khắp cả, mà không biến động nguyên trạng. Kính bạch tôn giả, phẩm vật hiến cúng chư Phật của mười phương chúng sinh, bồ tát làm cho thấy cả nơi một lỗ chân lông; nhật nguyệt tinh tú của mười phương thế giới cũng làm cho thấy được nơi một lỗ chân lông. Kính bạch tôn giả, tất cả luồng gió của mười phương thế giới, bồ tát hút vào trong miệng mà thân thể không thương tổn, cây cối ở ngoài cũng không gãy. Mười phương thế giới khi lửa tận kiếp cháy lên, bồ tát nạp hết vào bụng, lửa vẫn nguyên trạng mà không hại gì cả. Ở thiên để, quá hằng sa thế giới, lấy một thế giới đặt lên thiên đỉnh, cũng quá hằng sa thế giới, mà chỉ như cầm mũi kim chích lấy đưa lên một lá táo, không náo động gì cả. Kính bạch tôn giả, vị bồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị thì sử dụng thần lực biến thể thân Phật, thân Duyên giác, thân Thanh văn, thân Đế thích, thân Phạn vương, thân Thế chúa, thân Luân vương. Trong mười phương thế giới có bao nhiêu âm thanh, cung bậc cao vừa thấp, đều có thể biến làm âm thanh của Phật, diễn tả vô thường khổ không vô ngã, những pháp mà mười phương chư Phật nói, cũng nghe được qua âm thanh ấy. Kính bạch tôn giả, ấy là con chỉ nói ước lược năng lực của sự giải thoát Bất khả tư nghị. Nếu nói phong phú thì trọn kiếp nói không hết.

Bấy giờ tôn giả Đại ca diếp nghe nói pháp môn giải thoát Bất khả tư nghị, thì tán dương chưa từng có, và nói với tôn giả Xá lợi phất, có ai biểu hiện hình sắc trước người mù, thì người mù vẫn không thể thấy được. Thanh văn mà nghe nói pháp môn giải thoát Bất khả tư nghị thì không thể hiểu được cũng y như vậy. Bậc có trí nghe pháp môn này thì ai mà không phát tâm vô thượng bồ đề. Tại sao chúng ta dứt tuyệt gốc rễ, đối với đại thừa như thế này chúng ta đã như là hạt giống hư nát. Thanh văn nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghị như thế này thì nên gào góc cho chấn động đại thiên thế giới, còn bồ tát thì nên cả mừng, đặt trên đỉnh đầu mà tiếp nhận pháp môn này. Bồ tát chỉ mới tin hiểu pháp môn giải thoát Bất khả tư nghị mà tất cả ma quân đã không biết làm thế nào. Khi tôn giả Đại ca diếp nói lời này thì ba mươi hai ngàn thiên nhân đều phát tâm vô thượng bồ đề.

Lúc ấy trưởng giả Duy ma thưa với tôn giả Đại ca diếp, bạch ngài, ma vương trong mười phương vô lượng thế giới đa sốbồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị, sử dụng phương tiện giáo hóa chúng sinh nên hiện làm ma vương. Lại nữa, kính bạch tôn giả Đại ca diếp, mười phương vô lượng bồ tát có ai đến xin tay chân, tai mũi, đầu mắt, tủy não, máu thịt, da xương, thôn xóm, thành thị, vợ con, tôi tớ, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu, kha bối, y phục, ẩm thực, thì người xin đa sốbồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị, sử dụng phương tiện mà đến thử nghiệm, làm cho họ bền chắc. Tại sao, vì bồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị thì có sức mạnh uy đức, hiện làm những việc thúc bách khó làm như vậy. Những kẻ phàm phu với những người thấp kém thì không có năng lực, không thể làm những sự thúc bách bồ tát như vậy. Rồng voi dẫm đạp thì không phải con lừa làm được (25) . Như thế đó gọi là bồ tát ở trong sự giải thoát Bất khả tư nghị.

 

Quan Sát Chúng Sinh

Văn thù đại sĩ hỏi trưởng giả Duy ma, bồ tát nhìn chúng sinh như thế nào? Trưởng giả Duy ma thưa, như nhà ảo thuật nhìn thấy nhân vật ảo thuật, bồ tát nhìn chúng sinh cũng vậy. Như người có trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như nước sóng nắng, như vang tiếng hô, như mây trong không, như đống bọt nước, như bong bóng nước, như cái chắc của cây chuối, như sự lâu của điện chớp, như cái đại thứ năm, như cái uẩn thứ sáu, như cái căn thứ bảy, như cái nhập thứ mười ba, như cái giới thứ mười chín: bồ tát nhìn chúng sinh như vậy. Như sắc của cõi Vô sắc, như mầm của hạt giống cháy, như chấp ngã của Tu đà hoàn, như đầu thai của A na hàm, như ba độc của A la hán, như tham sân phá giới của bồ tát được vô sinh nhẫn, như tập quán phiền não của Phật đà, như sự thấy hình sắc của người mù, như hơi thở ra vào của người nhập diệt tận định, như dấu chim bay trong không gian, như con của thạch nữ, như phiền não của người được biến hóa, như cảnh mộng lúc thức tỉnh, như sự thọ thân của người nhập niết bàn, như lửa không có hơi khói: bồ tát nhìn chúng sinh như vậy.

Văn thù đại sĩ hỏi: Bồ tát nhìn như vậy rồi làm sao thi hành đức từ? Trưởng giả Duy ma thưa: Bồ tát nhìn như vậy rồi nghĩ mình phải nói cho chúng sinh cái pháp như vậy, đó mới là đức từ chân thật. Bồ tát thi hành đức từ tịch diệt, vì không sinh ra nữa. Thi hành đức từ không nóng, vì không còn phiền não. Thi hành đức từ bình đẳng, vì ba thì gian đều bình đẳng. Thi hành đức từ không cãi, vì không còn sự nổi dậy. Thi hành đức từ bất nhị, vì trong ngoài không kết hợp. Thi hành đức từ không hỏng, vì tuyệt đối diệt tận. Thi hành đức từ kiên cố, vì tâm không bị phá hủy. Thi hành đức từ thanh tịnh, vì bản tánh các pháp là thanh tịnh. Thi hành đức từ vô biên, vì ví như không gian. Thi hành đức từ của La hán, vì phá tan đám giặc kiết sử. Thi hành đức từ của Bồ tát, vì đem yên vui lại cho chúng sinh. Thi hành đức từ của Như lai, vì chứng đắc chân như. Thi hành đức từ của Phật đà, vì thức tỉnh cho chúng sinh. Thi hành đức từ tự nhiên, vì không cần nhân tố thúc đẩy mà vẫn vận hành. Thi hành đức từ bồ đề, vì đồng đẳng nhất vị. Thi hành đức từ không ai sánh bằng, vì đoạn tuyệt mọi thứ tham ái. Thi hành đức từ đại bi, vì hướng dẫn bằng pháp đại thừa. Thi hành đức từ không chán, vì xét không, vô ngã. Thi hành đức từ pháp thí, vì không tiếc để gì cả. Thi hành đức từ giữ giới, vì hoán cải những người phạm giới. Thi hành đức từ nhẫn nhục, vì hộ trì cho người và cho mình. Thi hành đức từ tinh tiến, vì gánh vác chúng sinh. Thi hành đức từ thiền định, vì không hưởng thụ mùi vị năm dục. Thi hành đức từ trí tuệ, vì không có cái lúc không biết. Thi hành đức từ phương tiện, vì biểu hiện tất cả. Thi hành đức từ không bí ẩn, vì tâm ngay thẳng rất trong sáng. Thi hành đức từ tâm sâu xa, vì không làm tạp nhạp. Thi hành đức từ không dối trá, vì không có sự trống rỗng, giả tạo. Thi hành đức từ yên vui, vì làm cho chúng sinh được sự yên vui của Phật. Đức từ của bồ tát đến như vậy. Văn thù đại sĩ lại hỏi, còn đức bi là thế nào? Trưởng giả Duy ma thưa, là bồ tát tạo tác công đức thì tất cả đều cho chúng sinh. Hỏi: đức hỷ là thế nào? Đáp: làm được lợi ích gì cho chúng sinh thì hoan hỷ, không hối hận. Hỏi: đức xả là thế nào? Đáp: làm được sự che chở nào cũng không hy vọng đáp trả.

Văn thù đại sĩ hỏi, ở trong sinh tử mà có sự sợ hãi thì bồ tát nương tựa vào đâu? Trưởng giả Duy ma thưa, nương tựa vào sức mạnh công đức của đức Thế tôn. Hỏi: bồ tát muốn được nương tựa sức mạnh công đức của đức Thế tôn thì nên đứng vào chỗ nào? Đáp: đứng vào chỗ muốn giải thoát chúng sinh. Hỏi: muốn giải thoát chúng sinh thì phải giải trừ cái gì? Đáp: giải trừ phiền não cho họ. Hỏi: muốn giải trừ phiền não cho họ thì phải đi theo cái gì? Đáp: phải đi theo chánh niệm. Hỏi: đi theo chánh niệm như thế nào? Đáp: đi theo sự bất sinh bất diệt. Hỏi: cái gì bất sinh? cái gì bất diệt? Đáp: ác thì bất sinh, thiện thì bất diệt. Hỏi: thiện với ác do cái gì làm gốc? Đáp: do thân làm gốc. Hỏi: thân do cái gì làm gốc? Đáp: do tham dục làm gốc. Hỏi: tham dục do cái gì làm gốc? Đáp: do phân biệt không chính xác làm gốc. Hỏi: phân biệt không chính xác do cái gì làm gốc? Đáp: do ý tưởng thác loạn. Hỏi: ý tưởng thác loạn do cái gì làm gốc. Đáp: do sự không trú ở làm gốc. Hỏi: sự không trú ở do cái gì làm gốc? Đáp: không trú ở thì không có gốc gác, và từ sự không trú ở mà thiết lập các pháp.

Bấy giờ trong phòng trưởng giả Duy ma có một thiên nữ, thấy các bậc thượng nhân và nghe các ngài nói, liền biểu hiện thân mình, đem thiên hoa rải trên các vị bồ tát và các vị đại đệ tử. Hoa đến các vị bồ tát thì rơi rớt, đến các vị đại đệ tử thì dính mắc. Các vị đại đệ tử dùng thần lực phủi bỏ mà không phủi bỏ được. Thiên nữ hỏi tôn giả Xá lợi phất, tại sao phải phủi bỏ hoa này? Ngài nói, hoa này không đúng phép nên phải phủi bỏ. Thiên nữ thưa, xin ngài đừng nói hoa này không đúng phép, tại sao, vì hoa này không có phân biệt. Phân biệt là ngài tự có. Xuất gia trong Phật pháp, có phân biệt là không đúng phép, không phân biệt mới là đúng phép. Ngài hãy nhìn các vị bồ tát: hoa không dính mắc là vì đã đoạn tuyệt phân biệt. Con người khi sợ thì ma quỉ được dịp. Các ngài cũng vậy, sợ sinh tử nên năm dục được dịp. Không sợ thì năm dục không làm gì được. Tập quán kiết sử chưa hết thì hoa dính mắc vào mình, tập quán kiết sử hết rồi thì hoa không thể dính mắc.

Tôn giả Xá lợi phất hỏi, thiên nữ ở trong phòng này đã bao lâu? Thiên nữ thưa, con ở trong phòng này bằng thì gian ngài giải thoát. Hỏi: ở lâu đến như vậy sao? Đáp: ngài giải thoát đã bao lâu? Tôn giả lặng thinh, không trả lời. Thiên nữ hỏi, tại sao bậc đại trí kỳ cựu mà lặng thinh? Ngài nói, vì giải thoát siêu việt ngôn ngữ, nên tôi không biết nói thế nào. Thiên nữ thưa, ngôn ngữ văn tự cũng là giải thoát, vì sao, vì giải thoát không trong không ngoài không giữa, ngôn ngữ văn tự cũng không trong không ngoài không giữa. Do vậy, kính bạch ngài, đừng rời văn tự mà nói giải thoát, tại sao, vì các pháp toànthực thể giải thoát. Hỏi: chứ không phải xa rời dâm nộ si là giải thoát? Đáp: Phật vì người tăng thượng mạn mà nói dâm nộ sigiải thoát, người không tăng thượng mạn thì Phật nói bản thể dâm nô si là giải thoát. Tôn giả khen, hay lắm thiên nữ, hay lắm; thiên nữ được cái gì chứng cái gì mà biện luận đến như vậy? Thiên nữ thưa, con không được, không chứng, biện luận mới như vậy. Bởi vì nếu có được có chứng thì đó là kẻ tăng thượng mạn trong Phật pháp.

Tôn giả Xá lợi phất hỏi, thiên nữ, trong ba thừa, chí nguyện thiên nữ cầu thừa nào? Thiên nữ thưa, đem pháp thanh văngiáo hóa chúng sinh thì con là thanh văn, đem pháp duyên khởigiáo hóa chúng sinh thì con là duyên giác, đem pháp đại bigiáo hóa chúng sinh thì con là đại thừa. Nay, như vào rừng chiêm bặc thì chỉ ngửi hơi thơm hoa ấy mà không ngửi hơi thơm gì khác; vào phòng này cũng vậy, chỉ ngửi hơi thơm công đức của Phật mà không thích nghe hơi thơm công đức của thanh văn duyên giác. Kính bạch ngài, Đế thích, Phạn vương, bốn Thiên vương, chư thiên long quỉ thần mà vào phòng này, nghe thượng nhân chủ phòng luận thuyết chánh pháp, thì ai cũng thích hơi thơm công đức của Phật, phát tâm vô thượng bồ đề mà ra. Kính bạch ngài, con ở trong phòng này đã 12 năm, từ đầu đến giờ không nghe nói về pháp thanh văn, pháp duyên giác, mà chỉ nghe nói về pháp bồ tátđại từ đại bi và những sự bất khả tư nghị của Phật. Kính bạch ngài, phòng này thường có tám sự hiếm có khó được. Những gì là tám sự? Phòng này, ngày cũng như đêm, thường chiếu soi bằng ánh sáng màu hoàng kim, không dùng ánh sáng mặt trời mặt trăng, đó là sự hiếm có khó được thứ nhất. Vào phòng này thì không bị mọi sự dơ bẩn quấy rối, đó là sự hiếm có khó được thứ hai. Phòng này thường có Đế thích, Phạn vương, bốn Thiên vương, và các vị bồ tátthế giới khác, tới tụ hội luôn, đó là sự hiếm có khó được thứ ba. Phòng này thường nói sáu ba la mật, các pháp bất thoái, đó là sự hiếm có khó được thứ tư. Phòng này thường tấu âm nhạc bậc nhất của chư thiên, xuất ra vô lượng âm thanh pháp hóa, đó là sự hiếm có khó được thứ năm. Phòng này có bốn kho tàng lớn, chứa đầy bảo vật, chu cấp nghèo thiếu, cầu thì được vô tận, đó là sự hiếm có khó được thứ sáu. Phòng này có đức Thích ca, đức Di đà, đức A súc, đức Bảo đức, đức Bảo viêm, đức Bảo nguyệt, đức Bảo nghiêm, đức Nan thắng, đức Sư tử hướng, đức Nhất thế lợi thành, mười phương vô lượng chư Phật như vậy, thượng nhân chủ phòng nghĩ đến là các Ngài đến cho, nói rộng kho tàng bí yếu của chư Phật, nói rồi trở về, đó là sự hiếm có khó được thứ bảy. Phòng này hiện lên cung điện của chư thiêntịnh độ của chư Phật, đó là sự hiếm có khó được thứ tám. Kính bạch ngài, phòng này thường thể hiện tám sự hiếm có khó được như vậy. Có ai nghe thấy những sự bất khả tư nghị như vậy mà còn thích pháp thanh văn.

Tôn giả Xá lợi phất hỏi, tại sao thiên nữ không chuyển nữ thân? Thiên nữ thưa, 12 năm nay con tìm tướng nữ nhân không được, thì chuyển cái gì. Như nhà ảo thuật làm ra nữ nhân huyễn ảo, có người hỏi nữ nhân ấy sao không chuyển nữ thân đi, thì hỏi như vậy đúng không? Không, tôn giả trả lời, huyễn ảo không có định tướng thì chuyển cái gì. Thiên nữ thưa, các pháp toàn là như vậy, không có định tướng, sao ngài lại hỏi con không chuyển nữ thân. Thiên nữ tức thì dùng thần lực biến tôn giả Xá lợi phất y như thiên nữ, còn thiên nữ tự biến y như tôn giả Xá lợi phất, rồi hỏi sao ngài không chuyển nữ thân? Tôn giả, bằng hình dáng thiên nữ, nói, tôi không biết chuyển sao mà thành nữ thân! Thiên nữ thưa, nếu ngài chuyển được nữ thân này thì mọi nữ nhân cũng chuyển được. Ngài không phải nữ nhânbiến thể nữ thân, thì mọi nữ nhân cũng vậy, biến thể nữ thân mà không phải nữ nhân. Do vậy mà Phật đã nói các pháp phi nam phi nữ. Tức thì thiên nữ thu lại thần lực, thân tôn giả Xá lợi phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi, sắc tướng nữ thân bây giờ ở đâu? Tôn giả nói, sắc tướng nữ thân không phải ở đâu, không phải không ở đâu. Thiên nữ thưa, thì các pháp cũng vậy, không phải ở đâu, không phải không ở đâu. Không phải ở đâu, không phải không ở đâu, đó là điều Phật đã nói.

Tôn giả Xá lợi phất hỏi, thiên nữ chết ở đây thì sinh ở đâu? Thiên nữ thưa, người do Phật biến hóa sinh ở đâu thì con sinh ở đó. Tôn giả nói, người biến hóa thì không chết và sinh. Thiên nữ thưa, chúng sinh cũng vậy, không chết và sinh. Tôn giả hỏi, thiên nữ bao lâu nữa thì được vô thượng bồ đề? Thiên nữ thưa, bao lâu ngài trở lại làm phàm phu thì con sẽ được vô thượng bồ đề. Tôn giả nói, tôi mà trở lại làm phàm phu thì vô lý. Thiên nữ thưa, con mà được bồ đề cũng là vô lý. Tại sao, vì bồ đề thì không có chỗ ở, và vì vậy mà không có ai thành được. Tôn giả nói, nếu vậy, chư Phật đang được đã được sẽ được bồ đề, số lượng bằng hằng sa, thì nói là gì? Thiên nữ thưa, ấy toàn là lấy lời chữ phổ thông mà nói ba thì gian, không phải bồ đề có thì gian tính. Bạch ngài, ngài được đạo quả a la hán chăng? Tôn giả nói, ấy là vì không được mà được. Thiên nữ nói, chư Phật bồ tát cũng vậy, vì không được mà được.

Bấy giờ trưởng giả Duy ma thưa với tôn giả Xá lợi phất, vị thiên nữ này đã hiến cúng chín mươi hai ức đức Phật, đã du hóa bằng thần thông bồ tát, chí nguyện đã đủ, đã được vô sinh pháp nhẫn, trú ở địa vị bất thoái, và do bản nguyện mà biểu hiện tùy ý để giáo hóa chúng sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32593)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12582)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34448)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16075)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16115)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant