Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Iii

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6919)
Phần Iii

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

3

Đường Đi Của Phật

Hội Nhập Bất Nhị

Đức Phật Hương Tích

Việc Làm Bồ Tát

 


Đường Đi Của Phật (26)

Bấy giờ Văn thù đại sĩ hỏi trưởng giả Duy ma, bồ tát làm sao thông suốt đường đi của Phật? Trưởng giả Duy ma thưa, bồ tát đi theo những đường không phải nên đi thì gọi là thông suốt đường đi của Phật. Hỏi: bồ tát đi theo những đường không phải nên đi là thế nào? Đáp: là làm năm tội vô gián mà lại không quấy phá tức giận. Đến địa ngục mà lại không có dơ bẩn của tội ác. Đến súc sinh mà lại không có ngu muội. (Đến tu la mà lại không có) kiêu ngạo. Đến ngạ quỉ mà lại hoàn thiện công đức. Đi theo đường đi cõi Sắc và Vô sắc mà lại không cho là siêu việt. Thị hiện tham dục mà lại xa rời nhiễm trước. Thị hiện sân hận mà lại không tức giận chúng sinh. Thị hiện ngu si mà lại thuần hóa tâm tính bằng trí tuệ. Thị hiện tham lẫn mà lại xả bỏ của trong của ngoài, tính mạng cũng không tiếc. Thị hiện phạm giới mà lại đứng yên trong tịnh giới, đến nỗi lỗi nhỏ cũng sợ lớn. Thị hiện giận dữ mà lại thường từ bi, ẩn nhẫn. Thị hiện biếng nhác mà lại nỗ lực tu tập công đức. Thị hiện loạn động mà lại thường xuyên chánh niệm, chánh định. Thị hiện ngu si mà lại thông suốt trí tuệ thế gian xuất thế. Thị hiện dua nịnh dối trá mà lại khéo léo phương tiện, tùy theo ý nghĩa trong kinh. Thị hiện kiêu ngạo mà lại đối với chúng sinh thì in như cầu đường. Thị hiện phiền não mà lại tâm thường thanh tịnh. Thị hiện ma quân mà lại thuận với trí tuệ của Phật, không theo sự chỉ dạy của người khác. Thị hiện thanh văn mà lại nói cho chúng sinh những pháp chưa nghe. Thị hiện duyên giác mà lại thành tựu đại bi, giáo hóa chúng sinh. Thị hiện bần cùng mà lại có bàn tay ngọc, công đức vô tận. Thị hiện thân hình tồi tàn mà lại đủ các tướng hảo để tự trang nghiêm. Thị hiện thấp hèn mà lại sinh trong dòng giống của Phật (27) , đủ mọi công đức. Thị hiện ốm yếu xấu xí mà lại được thân na la diên, chúng sinh ai cũng thích nhìn. Thị hiện già bịnh mà lại vĩnh viễn chặt đứt gốc rễ bịnh tật, vượt khỏi sự sợ hãi về chết. Thị hiệntài sản mà lại thường xét vô thường, thật sự không ham gì cả. Thị hiện có vợ, có thiếp, có thể nữ, mà lại thường rời xa bùn lầy năm dục. Thị hiện đần độn mà lại thành tựu hùng biện, nhớ hết không quên. Thị hiện sự cứu vớt theo tà pháp mà lại cứu vớt chúng sinh bằng chánh pháp. Thị hiện nhập vào sinh tử (28) mà lại cắt đứt nhân tố sinh tử. Thị hiện nhập vào niết bàn mà lại không cắt đứt sinh tử. Kính bạch Văn thù đại sĩ, bồ tátnăng lực đi theo những đường không phải nên đi như vậy là thông suốt đường đi của Phật.

Lúc ấy trưởng giả Duy ma hỏi Văn thù đại sĩ, thế nào là hạt giống của Phật? Văn thù đại sĩ nói, thân thể hiện hữu là giống của Phật, vô minh với ái là giống của Phật, tham sân si là giống của Phật, bốn thứ thác loạn là giống của Phật, năm sự che phủ là giống của Phật, sáu nhập là giống của Phật, bảy thức xứ là giống của Phật, tám tà là giống của Phật, chín não là giống của Phật, mười ác nghiệp là giống của Phật. Nói tổng quát thì sáu mươi hai kiến chấp và hết thảy phiền não là giống của Phật. Hỏi: đại sĩ nói như vậy là thế nào? Đáp: là nếu thấy vô vi, nhập chính vị, thì không còn phát tâm vô thượng bồ đề được nữa. Đất liền vùng cao không thể mọc lên hoa sen, bùn lầy thấp ướt mới mọc hoa ấy; như vậy thấy vô vi, nhập chính vị, thì không bao giờ còn sinh ra những phẩm chất của Phật, mà trong bùn lầy phiền não mới sinh khởi những phẩm chất ấy. Gieo giống trong không thì không bao giờ mọc cây, gieo vào đất bẩn mới mọc tốt tươi; thấy vô vi, nhập chính vị, thì không sinh ra những phẩm chất của Phật, mà ngã chấp như núi tu di đi nữa cũng vẫn phát được tâm vô thượng bồ đề, sinh ra những phẩm chất ấy. Do vậy, mọi phiền não là giống của Như lai. Không vào biển cả thì không được ngọc vô giá, không vào biển cả phiền não thì không được ngọc Nhất thế trí.

Tôn giả Đại ca diếp tán dương, rằng tốt lắm, tốt lắm, Văn thù đại sĩ nói lời ấy thật là thú vị. Đúng như ngài nói, phiền não là giống của Như lai. Chúng tôi ngày nay không kham phát tâm vô thượng bồ đề. Đến nỗi kẻ làm năm tội vô gián mà vẫn còn có thể phát tâm vô thượng bồ đề và sinh ra những phẩm chất của Phật, nhưng chúng tôi thì vĩnh viễn không thể. Kẻ giác quan bại liệt thì không còn được hưởng gì về năm dục; thanh văn đoạn tuyệt kiết sử thì trong Phật pháp không còn ích gì: vĩnh viễn không có chí nguyện gì nữa. Do vậy, kính bạch Văn thù đại sĩ, phàm phubáo đáp được ơn Phật, còn thanh văn thì không thể. Tại sao, vì phàm phu nghe nói những phẩm chất của Phật thì phát tâm vô thượng bồ đề, làm cho Tam bảo không bị đứt mất. Còn thanh văn thì dẫu trọn đời nghe những phẩm chất của Phật như lực, vô úy, v/v, cũng vĩnh viễn không thể phát tâm vô thượng bồ đề.

Bấy giờ trong đại hội có vị bồ tát danh hiệu Phổ hiện sắc thân, hỏi trưởng giả Duy ma, rằng thưa trưởng giả, ai là cha mẹ vợ con, bà con thân thích, người giúp việc, kẻ quen biết của trưởng giả? Tôi tớ gia nhân, voi ngựa xe cộ của trưởng giả đâu cả? Trưởng giả Duy ma trả lời bằng chỉnh cú sau đây.

1. Trí độ : mẹ bồ tát,

phương tiện ấy là cha,

những vị thầy của người

đều do đó mà sinh.

2. Pháp lạc thì là vợ,

từ bi là con gái,

chân thành (29) là con trai,

nhà là tuyệt đối không.

3. Phiền nãođệ tử,

tùy ýchuyển hóa,

giác phần: thiện tri thức,

do đó thành chánh giác.

4. Sáu độ: bạn đồng hành,

bốn nhiếp là kyՠnữ,

ca tụng các pháp ngôn,

thì lấy làm âm nhạc.

5. Tổng trìhoa viên,

pháp vô lậu: cây rừng,

giác chi là bông hoa, trái:

giải thoát, trí tuệ.

6. Tám giải thoát: ao hồ,

nước định trong và đầy,

rải bảy thứ tịnh hoa,

tắm cho người không bẩn (30) .

7. Voi ngựa là năm thông,

đại thừa là xe cộ,

điều khiển: tâm bồ đề (31) ,

dạo đi đường bát chánh.

8. Tướng thì làm đẹp người,

hảo thì làm đẹp dáng,

hổ thẹn là thượng phục,

tâm sâu xa (32) : vòng hoa.

9. Bảy thánh tài: vàng ngọc,

dạy bảo để lời thêm,

làm như nói, hồi hướng,

thì lấy làm lợi lớn.

10. Bốn thiền là giường ghế

sống trong sạch mà có (33) ,

đa văn với trí tuệ

là tiếng tự đánh thức.

11. Ăn cơm pháp cam lộ,

Uống nước mùi giải thoát,

tắm rửa bằng tịnh tâm

xoa mình bằng giới pháp.

12. Tiêu diệt giặc phiền não

dũng mãnh không ai bằng,

chiến thắng bốn ma quân

thượng cờ bồ đề tràng.

13. Chứng ngộ không sinh diệt,

thị hiện nên thọ sinh,

hiện khắp mọi thế giới

như mặt trời khắp soi.

14. Hiến cúng khắp mười phương

vô số ức Như lai,

nhưng thân mình thân Phật

không có ý phân biệt.

15. Thế giới với chúng sinh

tuy biết toàn là không,

nhưng thường tu tịnh độ

giáo hóa cho quần sinh.

16. Sắc thanhcử động

của bao loại chúng sinh,

bồ tát vô úy lực

một lúc hiện đủ cả.

17. Biết đó là việc ma

vẫn thị hiện làm cả,

trí phương tiện khéo léo

tùy ý hiện được hết.

18. Hoặc hiện già bịnh chết

tác thành cho chúng sinh,

biết toàn như huyễn ảo

nên không e ngại gì.

19. Hiện lửa cháy tận kiếp

trời đất đều đỏ rực,

vì người tưởng thường còn

hiện cho biết vô thường.

20. Vô số vạn ức người

cùng đến mời bồ tát,

bồ tát cùng đến cả

làm cho hướng Phật tuệ.

21. Lý thuyết cùng chú thuật

công nghệ với kyՠthuật,

thị hiện làm tất cả

lợi ích cho quần sinh.

22. Các đạo giáo thế gian,

đều đi tu trong đó,

để giải trừ sai lầm,

không phải sa tà kiến.

23. Thị hiện thần thái dương,

cùng với thần thái âm,

lại thị hiện Phạn vương

tự xưng chúa thế giới,

hoặc hiện đất với nước

cũng hiện gió với lửa.

24. Thời kỳ bịnh truyền nhiễm

thì hiện các dược liệu,

ai dùng dược liệu ấy

hết bịnh hết độc tố.

25. Thời kỳ bị đói khát,

hiện làm ẩm thực phẩm,

trước hết cứu đói khát,

rồi nói cho Phật pháp.

26. Thời kỳ có chinh chiến

thì nổi dậy lòng từ

giáo hóa cho chúng sinh

đừng có tranh chấp nhau (34) .

27. Khi đại chiến xảy ra

thì làm cho cân sức,

và hiện oai thế lớn

hòa giải cho hòa bình.

28. Trong tất cả thế giới

chỗ nào có địa ngục,

thì đi ngay đến đó

cứu vớt mọi khổ não.

29. Trong tất cả thế giới

súc vật nhai nuốt nhau,

cũng hiện đến nơi ấy

ích lợi cho chúng.

30. Thị hiện hưởng năm dục

nhưng cũng hiện tu thiền,

làm ma vương bối rối,

không rình được cơ hội.

31. Trong lửa sinh hoa sen

mới đáng gọi hiếm có,

tu thiền trong dục lạc

cũng hiếm có như thế.

32. Hoặc hiện làm dâm nữ

dẫn dụ kẻ háo sắc,

trước móc kéo bằng dục

sau dắt vào đường Phật.

33. Hoặc làm chủ thị thành,

hoặc cầm đầu thương mãi,

làm quốc sư, đại thần,

để che chở cho người.

34. Với bao người khốn cùng

thì hiện kho vô tận,

nhân đó mà khuyên bảo

cho phát tâm bồ đề.

35. Với những kẻ ngã mạn

thì hiện đại lực sĩ,

trừ khử sự cao ngạo

đem vào đạo tối thượng.

36. Ai lâm cảnh sợ hãi,

đến trước họ an ủi,

trước cho sự không sợ

sau làm cho phát tâm.

37. Hoặc hiện xa dâm dục

làm tiên nhân ngũ thông,

mở mắtdẫn đường

cho vô số quần sinh

được sống trong tịnh giới

nhẫn nhụctừ bi.

38. Thấy ai cần cung phụng,

thị hiện làm tôi tớ,

cho họ đẹp dạ rồi

sau làm cho phát tâm.

39. Ai cần dùng những gì

để được nhập Phật đạo,

thì đem phương tiện lực

cung cấp đủ cả.

40. Đường đi này vô tận,

đi đến không bến bờ,

trí tuệ thật vô biên

độ thoát vô số người.

41. Giả sử vô số Phật

trải qua vô lượng kiếp,

khen phẩm chất đường này

còn không thể cùng tận!

42. Ai nghe đường đi này

không phát bồ đề tâm?

trừ kẻ không xứng đáng

tối tăm không trí tuệ!

Hội Nhập Bất Nhị

Bấy giờ trưởng giả Duy ma thưa với các vị bồ tát, kính bạch các ngài, bồ tát nhập vào pháp môn bất nhị như thế nào, xin các ngài tùy thích mà nói ra. Trong đại hội

(1) Pháp tự tại bồ tát nói, sinh với diệt là hai, pháp vốn không sinh thì nay không diệt, được vô sinh pháp nhẫn như vậy, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(2) Đức thủ bồ tát nói, ngã với ngã sở là hai, nhưng có ngã thì có ngã sở, không ngã thì không ngã sở, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(3) Bất tuấn bồ tát nói, cảm thụ với không cảm thụ là hai, nhưng nếu pháp không cảm thụ thì không thủ đắc, vì không thủ đắc nên không lấy không bỏ, không làm không đi, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(4) Đức đỉnh bồ tát nói, dơ với sạch là hai, nhưng thấy được thật tánh của sự dơ thì cũng không có sự sạch, tùy thuận với sự diệt, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(5) Thiện tú bồ tát nói, động với nghĩ là hai, nhưng không động thì không nghĩ, không nghĩ thì không phân biệt, thông suốt như vậy ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(6) Thiện nhãn bồ tát nói, một tướng với không tướng là hai, nhưng nếu biết một tướng là không tướng, cũng không chấp thủ không tướng, thể nhập bình đẳng, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(7) Diệu tý bồ tát nói, tâm bồ tát với tâm thanh văn là hai, nhưng xét thật tánh của tâm là không, in như ảo hóa, thì không tâm bồ tát không tâm thanh văn, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(8) Phất sa bồ tát nói, thiện với ác là hai, nhưng không nổi dậy thiện ác, thể nhập vô tướngthông suốt, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(9) Sư tử bồ tát nói, tội với phước là hai, nhưng nếu đạt được thật tánh của tội thì thấy không khác phước, đem kim cương tuệ mà xác quyết trạng thái này, không buộc không mở, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(10) Sư tử ý bồ tát nói, hữu lậu với vô lậu là hai, nhưng nếu thấy được các pháp bình đẳng thì không nổi lên ý tưởng hữu lậu vô lậu, không vướng mắc nơi tướng, cũng không trú ở nơi vô tướng, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(11) Tịnh giải bồ tát nói, hữu vi với vô vi là hai, nhưng nếu tách rời số lượng (35) thì tâm như hư không, trí tuệ thanh tịnh không có trở ngại, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(12) Na la diên bồ tát nói, thế gian với xuất thế là hai, nhưng thế gian tánh không tức là xuất thế, trong đó không vào không ra, không đầy tràn không tản mạn, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(13) Thiện ý bồ tát nói, sinh tử với niết bàn là hai, nhưng thấy được thật tánh sinh tử thì không sinh không tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như vậy ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(14) Hiện kiến bồ tát nói, tận với bất tận là hai, nhưng cứu cánh của các pháp thì tận với bất tận toàn là vô tận, vô tận là không, không thì không có tận với bất tận, ngộ nhập như vậy ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(15) Thiện thủ bồ tát nói, ngã với vô ngã là hai, nhưng ngã còn không thể thủ đắc, vô ngã làm sao thủ đắc, thấy thật tánh của ngã thì không còn nổi lên ý niệm nhị biên, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(16) Lôi thiên bồ tát nói, minh với vô minh là hai, nhưng thật tánh của vô minh chính là minh, minh cũng không thể nắm lấy, siêu việt số lượng, ở đây bình đẳng bất nhị, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(17) Hỷ kiến bồ tát nói, sắc với sắc không là hai, nhưng sắc là không, không phải sắc diệt mới không, mà là sắc tánh tự không, như vậy thọ tưởng hành thức, thức với thức không là hai, thức là không, không phải thức diệt mới không, mà là thức tánh tự không, trong đây thông suốt, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(18) Minh tướng bồ tát nói, bốn đại với không là hai, nhưng thật tánh của bốn đại tức là thật tánh của không: tối sơ và tối hậu đã không thì trung gian cũng không; biết thật tánh của đại và không là như vậy ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(19) Diệu ý bồ tát nói, nhãn với sắc là hai, nhưng nếu biết nhãn đối với sắc không tham sân si, đó là tịch diệt, như vậy nhĩ với thanh, tyՠvới hương, thiệt với vị, thân với xúc, ý với pháp là hai, nếu biết ý đối với pháp không tham sân si, đó là tịch diệt, sống trong đó ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(20) Vô tận ý bồ tát nói, bố thí với hồi hướng nhất thế trí là hai, nhưng thật tánh bố thíthật tánh hồi hướng nhất thế trí, như vậy trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ với hồi hướng nhất thế trí là hai, thật tánh trí tuệthật tánh hồi hướng nhất thế trí, trong đó nhập vào sự đồng nhất, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(21) Thâm tuệ bồ tát nói, không vô tướng vô tác là hai, nhưng không là vô tướng, vô tướngvô tác, nếu không vô tướng vô tác thì không tâm ý thức, một cửa giải thoátba cửa giải thoát, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(22) Tịch căn bồ tát nói, Phật Pháp Tăng là hai, nhưng Phật là Pháp, Pháp là Tăng, Tam bảo như vậy toàn là vô vi, đồng đẳng không gian, tất cả các pháp cũng là như vậy, và thuận hành như vậy ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(23) Tâm vô ngại bồ tát nói, thân với thân diệt là hai, nhưng thân là thân diệt, tại sao, vì thấy thật tánh của thân thì không nổi lên sự thấy thân và sự thấy thân diệt, thân với thân diệt là bất nhị, bất phân biệt, trong đó không kinh không sợ, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(24) Thượng thiện bồ tát nói, thân khẩu ý nghiệp là hai, nhưng ba nghiệp toàn là thật tánh vô tác, thân vô tác là khẩu vô tác, khẩu vô tác là ý vô tác, ba nghiệp vô tác là các pháp vô tác, tùy thuận trí tuệ vô tác như vậy ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(25) Phước điền bồ tát nói, phước hành tội hành bất động hành là hai, nhưng ba hành ấy thật tánh là không, không thì không phước hành, không tội hành, không bất động hành, ba hành mà không còn nổi dậy, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(26) Hoa nghiêm bồ tát nói, từ ngã mà nổi lên nhị biên là hai, nhưng thấy thật tánh của ngã thì không nổi lên nhị biên, không nổi lên nhị biên thì không nhận thức: không nhận thức ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(27) Đức tạng bồ tát nói, có thủ đắc là hai, nhưng không đủ đắc thì không lấy không bỏ, không lấy không bỏ ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(28) Nguyệt thượng bồ tát nói, tối với sáng là hai, nhưng không tối không sáng thì không có nhị biên, tại sao, vì như nhập diệt tận định thì không tối không sáng, thật tánh các pháp cũng là như vậy, trong đó bình đẳng hội nhập, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(29) Bảo ấn thủ bồ tát nói, thích niết bàn với chán thế gian là hai, không thích niết bàn, không chán thế gian, thế là bất nhị, tại sao, vì có buộc thì có mở, nếu vốn không buộc thì ai cầu mở, mà không buộc không mở thì không thích không chán, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(30) Châu đỉnh vương bồ tát nói, đường chính với đường tà là hai, nhưng sống theo đường chính thì không phân biệt đây là tà đây là chính, thoát ly nhị biên ấy, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

(31) Lạc thật bồ tát nói, thật với không thật là hai, nhưng thật còn không thấy là thật, huống chi không thật, tại sao, vì đó không phải mắt thịt thấy mà là mắt tuệ thấy, nhưng mắt tuệ thì không thấy không không thấy, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.

Các vị bồ tát mỗi người nói rồi, hỏi Văn thù đại sĩ, thế nào là bồ tát nhập vào pháp môn bất nhị? Văn thù đại sĩ nói, theo ý tôi thì đối với các pháp không nói không rằng, không chỉ không biết, siêu việt vấn đáp, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị. Văn thù đại sĩ hỏi trưởng giả Duy ma, chúng tôi đã nói cả rồi, trưởng giả cũng nên nói, thế nào là bồ tát nhập vào pháp môn bất nhị? Trưởng giả lặng thinh, không nói gì cả. Văn thù đại sĩ khen, tốt lắm, tốt lắm, đến nỗi không cả văn tự ngôn ngữ, mới thật là nhập vào pháp môn bất nhị.

Khi nói về phẩm Nhập vào pháp môn bất nhị này thì trong đại hội có năm ngàn vị bồ tát nhập vào pháp môn bất nhị, thực hiện vô sinh pháp nhẫn.

 

Đức Phật Hương Tích

Bấy giờ tôn giả Xá lợi phất trong tâm suy nghĩ, sắp đến đứng bóng, các vị bồ tát này sẽ thọ thực ở đâu? Trưởng giả Duy ma biết ý nghĩ ấy nên thưa rằng, Phật dạy tám pháp giải thoát, tôn giả thực hành, vậy có thể chen sự ăn vào sự nghe pháp chăng? Tuy nhiên, tôn giả nghĩ đến sự ăn thì xin chờ chốc lát, con sẽ làm cho tôn giả được thực phẩm rất hiếm có. Trưởng giả Duy ma tức thì nhập vào chánh định, dùng thần thông lựcthị hiện cho đại hội thấy khu vức thiên đỉnh, quá bốn mươi hai hằng sa thế giới, có thế giới tên là Chúng hương, đức Phật giáo chủ hiệu là Hương tích, hiện đang tồn tại. Hơi thơm của thế giới này là bậc nhất so với hương liệu của nhân loạichư thiên trong mười phương thế giới. Thế giới này không có đến cả cái tên thanh văn duyên giác, chỉ có chúng đại bồ tát thanh tịnh, và được Phật Hương tích thuyết pháp cho. Thế giới này toàn dùng hương thơm mà làm lầu đài. Kinh hành trên đất thơm. Hoa viên toàn là hương thơm. Hơi thơm thực phẩm của thế giới này thì tràn cả mười phương vô lượng thế giới. Bấy giờ là lúc Phật với chúng bồ tát của thế giới ấy đang cùng thọ thực. Có các thiên nhân cùng tên Hương nghiêm, cùng phát tâm vô thượng bồ đề, đang hiến cúng Phật và chúng bồ tát của thế giới ấy. Đại hội ở đây không ai không nhìn thấy như vậy.

Trưởng giả Duy ma hỏi các vị bồ tát, thưa các ngài, ai có thể đến lấy cơm của đức Phật Hương tích? Do thần lực của Văn thù đại sĩ, ai cũng lặng thinh. Trưởng giả Duy ma thưa Văn thù đại sĩ, rằng đại chúng này thật đáng xấu hổ. Văn thù đại sĩ nói, như Phật đã dạy, đừng khinh những người tu học chưa thấu đáo. Trưởng giả Duy ma tức thì không rời chỗ ngồi mà hóa hiện một vị bồ tát trước mặt đại hội, với tướng hảo, ánh sáng và uy đức đều siêu việt, làm mờ cả đại hội, và bảo rằng ông hãy đến khu vức thiên đỉnh, quá bốn mươi hai hằng sa thế giới, có thế giới tên Chúng hương, đức Phật giáo chủ hiệu là Hương tích, đang thọ thực với chúng đại bồ tát của thế giới ấy. Ông đến đó, tác bạch đúng như lời tôi, rằng Duy ma kính lạy dưới chân Thế tôn, tôn kính vô lượng, hỏi thăm Ngài sinh hoạt bình thường, ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng? Xin được phần thừa của thực phẩm đức Thế tôn để về làm việc Phật ở thế giới Sa bà, là làm cho những người ưa thích pháp nhỏ đều được đạo lớn, cũng để làm cho danh tiếng Thế tôn được nghe đến ở đây. Vị bồ tát hóa thân tức thì ở trước đại hội mà thăng lên thiên đỉnh, cả đại hội đều thấy. Lên đến thế giới Chúng hương, vị bồ tát hóa thân kính lạy dưới chân đức Phật Hương tích, và cả đại hội đều nghe lời nói của vị bồ tát ấy, rằng Duy ma kính lạy dưới chân Thế tôn, tôn kính vô lượng, hỏi thăm Ngài sinh hoạt bình thường, ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng? Xin được phần thừa của thực phẩm đức Thế tôn để về làm việc Phật ở thế giới Sa bà, là làm cho những người ưa thích pháp nhỏ đều được đạo lớn, cũng để làm cho danh tiếng Thế tôn được nghe đến ở đây.

Các vị đại sĩthế giới Chúng hương thấy vị bồ tát hóa thân thì khen là hiếm có, và rằng vị thượng nhân này từ đâu đến đây? Thế giới Sa bà ở đâu? Thế nào gọi là người ưa thích pháp nhỏ? Họ hỏi đức Phật Hương tích. Ngài nói, ở thiên để, cách đây bốn mươi hai hằng sa thế giới, có thế giới tên Sa bà, đức Phật giáo chủ hiệu Thích ca mâu ni, hiện đang tồn tại. Ngài ở trong giai đoạn dữ dội, đầy cả năm thứ dơ bẩn, phu diễn chánh pháp cho những người ưa thích chánh pháp thấp nhỏ. Thế giới Sa bà có vị bồ tát tên Duy ma, sống trong sự giải thoát Bất khả tư nghị, thuyết pháp cho các vị bồ tát, nên phái hóa thân lên đây, tán dương danh hiệuthế giới của Như lai để làm cho các vị bồ tátthế giới ấy tăng tiến công đức. Các vị bồ tát thế giới Chúng hương nói, bồ tát Duy ma là người như thế nào mà hóa thân được như vầy? công đức, năng lựcthần thông đến như thế nào? Đức Phật Hương tích nói rất lớn, mười phương ở đâu bồ tát Duy ma cũng sai hóa thân đến đó để thi hành việc Phật, lợi ích chúng sinh. Đức Phật Hương tích liền lấy bát thơm đựng đầy cơm thơm, đưa cho bồ tát hóa thân. Lúc ấy chín trăm vạn bồ tát thế giới Chúng hương cùng nói, chúng con muốn đến thế giới Sa bà để hiến cúng đức Thích ca thế tôn, và hội kiến với Duy ma đại sĩ, với các vị bồ tát. Đức Phật Hương tích nói nên đi đi. Nhưng phải thu hơi thơm thân thể của các người, đừng để người thế giới Sa bà nổi lên mê hoặc, tham trước. Lại nên bỏ hình cũ của các người, đừng để những người cầu bồ tát đạothế giới Sa bà tự khinh, xấu hổ. Các người cũng đừng khinh thế giới Sa bàchướng ngại cho mình, tại sao, vì mười phương thế giới toàn như hư không, với lại chư Phật hóa độ cho những người ưa thích chánh pháp thấp nhỏ thì không để hiện hết ra tịnh độ của mình. Vị bồ tát hóa thân lãnh nhận bát cơm rồi cùng chín trăm vạn bồ tát thế giới Chúng hương, nhờ thần lực của đức Phật Hương tích và của trưởng giả Duy ma mà bỗng chốc biến mất khỏi thế giới Chúng hương và đến phòng trưởng giả Duy ma. Trưởng giả biến hóa chín trăm vạn tòa sư tử đẹp như những tòa sư tử đã có. Các vị bồ tát thế giới Chúng hương đều ngồi trên đó. Vị bồ tát hóa thân đưa bát cơm thơm cho trưởng giả Duy ma, hương thơm khắp cả thành Tì da liđại thiên thế giới.

Bấy giờ trong thành Tì da li, bà la môn, cư sĩ, v/v, nghe hơi thơm ấy thì cả thân và tâm đều thích thú, ai cũng tán dương là chưa hề có. Chủ trưởng giảtrưởng giả Nguyệt cái, và tám mươi bốn ngàn người, cùng đến phòng trưởng giả Duy ma, thấy trong phòng bồ tát rất nhiều, các tòa sư tử rất đẹp, thì ai cũng đại hoan hỷ, lạy các vị bồ tát và các vị đại đệ tử của Phật, rồi đứng qua một phía. Các vị địa thần, hư không thần, chư thiên cõi Dục và cõi Sắc, nghe hơi thơm thì ai cũng đến phòng trưởng giả Duy ma.

Trưởng giả Duy ma thưa với tôn giả Xá lợi phất và các vị đại thanh văn, rằng xin các ngài thọ thực. Cơm vị cam lộ này của Như lai là do đại bi xông ướp, vậy xin đừng đem cái ý thức hữu hạn mà thọ thực, làm cho không tiêu được. Có vị thanh văn nghĩ cơm này ít thế, làm sao cả đại chúng ai cũng thọ thực. Vị bồ tát hóa thân thưa rằng xin ngài đừng đem cái đức nhỏ và cái trí nhỏ mà ước lượng cái đức vô lượng và cái tuệ vô lượng của đức Như lai. Bốn biển có thể khô hết mà cơm này vẫn vô tận. Giả sử có ai ăn mỗi vắt bằng núi Tu di thì ăn đến một kiếp cũng không hết được. Tại sao, vì thực phẩm dư ra của đấng giới vô tận, định vô tận, tuệ vô tận, giải thoát vô tận, và giải thoát tri kiến vô tận, thì không bao giờ cùng tận. Thế rồi cơm trong bát ấy làm no đủ cả đại hội mà vẫn không hết. Các vị bồ tát, thanh văn, chư thiên, nhân loại, ai ăn cơm ấy thân cũng khoái lạc tựa như chư vị bồ tátthế giới Nhất thế lạc trang nghiêm. Những lỗ chân lông của họ cũng xuất ra hơi thơm tinh tế, tựa như hơi thơm các thứ cây của thế giới Chúng hương.

Lúc ấy trưởng giả Duy ma hỏi các vị bồ tát Chúng hương, rằng đức Hương tích như lai thuyết pháp bằng gì? Các vị bồ tát ấy nói, đức Như lai của thế giới chúng tôi không nói bằng lời chữ, chỉ dùng hương thơm mà làm cho chư thiên nhân loại đều nhập vào chánh pháp. Các vị bồ tátthế giới chúng tôi cùng ngồi dưới cây hương thơm, nghe hương thơm tinh tế ấy thì thể hiện chánh định Nhất thế đức tạng. Thể hiện chánh định này thì bao nhiêu phẩm chất của bồ tát đều hoàn hảo cả.

Các vị bồ tát Chúng hương hỏi trưởng giả Duy ma, rằng đức Thích ca thế tôn thuyết pháp bằng gì? Trưởng giả Duy ma nói, thế giới này chúng sinh ngoan cố, khó hóa cải, nên đức Phật ở đây phải dùng lời nói cứng cỏi mà thuần hóa cho họ. Rằng đây là địa ngục, đây là súc sinh, đây là ngạ quỉ, đây là những chỗ tai nạn, đây là chỗ người ngu sinh đến; đây là tà hành của thân, đây là quả báo tà hành của thân, đây là tà hành của miêểng, đây là quả báo tà hành của miệng, đây là tà hành của ý, đây là quả báo tà hành của ý; đây là sát sinh, đây là quả báo sát sinh, đây là trộm cắp, đây là quả báo trộm cắp, đây là tà dâm, đây là quả báo tà dâm, đây là vọng ngữ, đây là quả báo vọng ngữ, đây là lưỡng thiệt, đây là quả báo lưỡng thiệt, đây là ác khẩu, đây là quả báo ác khẩu, đây là ỷ ngữ, đây là quả báo ỷ ngữ, đây là tham lam, đây là quả báo tham lam, đây là sân hận, đây là quả báo sân hận, đây là tà kiến, đây là quả báo tà kiến; đây là keo kiết, đây là quả báo keo kiết, đây là phá giới, đây là quả báo phá giới, đây là giận dữ, đây là quả báo giận dữ, đây là biếng nhác, đây là quả báo biếng nhác, đây là loạn ý, đây là quả báo loạn ý, đây là ngu si, đây là quả báo ngu si; đây là kiết giới, đây là giữ giới, đây là phạm giới, đây là đáng làm, đây là không đáng làm, đây là chướng ngại, đây là không chướng ngại, đây là bị tội, đây là rời tội, đây là sạch, đây là bẩn, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là tà đạo, đây là chánh đạo, đây là hữu vi, đây là vô vi, đây là thế gian, đây là niết bàn. Người khó hóa cải thì tâm họ như vượn như khỉ, nên phải áp dụng bao nhiêu cách nói ấy mới chế ngự mà làm cho tâm họ thuần hóa. Voi ngựa hung hăng thì phải làm đau đến xương cốt, sau đó mới thuần. Chúng sinh ngoan cố, khó hóa cải, nên phải dùng mọi lời nói đắng cay đau đớn mới làm cho họ nhập vào chánh pháp. Các vị bồ tát thế giới Chúng hương nghe nói như vậy thì than rằng thật là hiếm có. Như đức Thích ca thế tôn mà phải ẩn đi vô lượng năng lực tự tại, đem cái pháp người nghèo hèn ưa thíchhóa độ cho họ. Các vị bồ tátthế giới này cũng lao nhọc, khiêm tốn, sinh trong thế giới này bằng tâm đại bi vô lượng.

Trưởng giả ma Duy ma nói, thế giới này các vị bồ tát đối với chúng sinh lòng đại bi thật kiên cố, đúng như các ngài đã nói. Nhưng các vị bồ tátthế giới này lợi ích chúng sinh một đời cũng hơn cả trăm ngàn đời của thế giới các ngài. Tại sao, vì thế giới Sa bà này có mười thiện pháp mà các thế giới thanh tịnh khác không có. Mười thiện pháp ấy là gì? Là đem bố thíthu phục nghèo nàn, đem tịnh giớithu phục phạm giới, đem nhẫn nhụcthu phục sân hận, đem tinh tiếnthu phục biếng nhác, đem thiền địnhthu phục loạn ý, đem trí tuệthu phục ngu si, nói các pháp trừ khử tai nạn để cứu vớt những kẻ bị tám nạn, đem pháp đại thừa cứu độ những kẻ ưa thích pháp nhỏ, đem thiện căn cứu vớt những kẻ vô phước, đem bốn nhiếp pháp tác thành chúng sinh. Đó là mười thiện pháp. Các vị bồ tát thế giới Chúng hương nói, bồ tát thành đạt mấy pháp thì sống trong thế giới này một cách không thương tổn mà sinh các tịnh độ? Trưởng giả Duy ma nói, thành tựu tám pháp thì bồ tát sống trong thế giới này không thương tổn mà sinh các tịnh độ. Tám pháp ấy là gì? Là (một), lợi ích chúng sinh mà không trông mong báo đáp; (hai), thay chúng sinh mà chịu mọi khổ não, công đức làm ra đem cho chúng sinh cả; (ba), tâm lý bình đẳng đối với chúng sinh, khiêm tốn vô ngại; (bốn), coi các vị bồ tát khác như Phật; (năm), kinh pháp chưa nghe thì nghe mà không hoài nghi; (sáu), không chống đối các vị thanh văn, không ganh ghét sự được hiến cúng của người khác và không tự cao về lợi lộc của mình; (bảy), thuần hóa tâm mình, thường xét lỗi mình mà không kiện cáo khuyết điểm của người; (tám), thường xuyên nhất tâm mà cầu công đức. Đó là tám pháp (36) .

Trong đại hội, khi trưởng giả Duy maVăn thù đại sĩ nói pháp này thì có trăm ngàn thiên nhân phát tâm vô thượng bồ đề, mười ngàn bồ tát được vô sinh pháp nhẫn.

Việc Làm Bồ Tát

Khi ấy đức Thế tôn thuyết pháp ở lâm viên Yêm ma la. Vườn này bỗng nhiên rộng ra, đẹp lên, toàn thể đại hội đều thành màu sắc hoàng kim. Tôn giả A nan thưa với Phật, bạch đức Thế tôn, vì lý do nào mà có hiện tượng tốt lành như vầy, là vườn này bỗng nhiên rộng ra và đẹp lên, tất cả đại hội đều thành màu sắc hoàng kim? Đức Thế tôn bảo tôn giả A nan, ấy là trưởng giả Duy maVăn thù đại sĩ, cùng đại chúng cung kính bao quanh, ý muốn đến đây, nên trước hết hiện ra điềm lành như vầy.

Trưởng giả Duy ma thưa với Văn thù đại sĩ, hãy cùng nhau đến yết kiến đức Thế tôn, cùng chư bồ tát lễ bái hiến cúng. Văn thù đại sĩ nói, tốt lắm, hãy đi đi. Bây giờ là lúc thích hợp. Trưởng giả Duy ma tức thì vận dụng thần lực, nâng cả đại hội, cùng với các tòa sư tử, đặt trong bàn tay phải, đi đến chỗ đức Thế tôn. Đến rồi, quì gối sát đất, kính lạy ngang chân Ngài, đi quanh Ngài bảy vòng, chuyên chú, chắp tay, đứng về một phía. Các vị bồ tát cũng đều rời khỏi tòa sư tử, lạy ngang chân Phật, rồi cũng đi quanh Ngài bảy vòng, và đứng về một phía. Các vị đại đệ tử, Đế thích, Phạn vương, bốn Thiên vương, v/v, cũng đều rời khỏi tòa sư tử, lạy ngang chân Phật, đứng về một phía. Đức Thế tôn đúng phép an ủi hỏi han các vị bồ tát rồi, bảo ngồi lại như cũ. Tất cả đều vâng lời. Đại chúng ngồi yên rồi, đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi phất, tôn giả đã thấy việc làm của thần lực tự tại của bồ tát đại sĩ chưa? Bạch đức Thế tôn, con đã thấy. Vậy ý tôn giả nghĩ thế nào? Bạch đức Thế tôn, con thấy thật là bất khả tư nghị, ý không ngờ tới, trí không lường nổi.

Lúc ấy tôn giả A nan thưa với Phật, bạch đức Thế tôn, con nghe có hơi thơm mà trước đây chưa có, hương thơm ấy là gì? Đức Thế tôn dạy tôn giả A nan, đó là hơi thơm xuất ra từ những lỗ chân lông của các vị bồ tát. Tôn giả Xá lợi phất nói với tôn giả A nan, những lỗ chân lông của chúng tôi cũng xuất ra hơi thơm ấy. Tôn giả A nan nói, hơi thơm ấy từ đâu mà có? Tôn giả Xá lợi phất nói, ấy là trưởng giả Duy ma xin cơm thừa của đức Phậtthế giới Chúng hương mà mời ăn mọi người đến phòng trưởng giả, nên lỗ chân lông của ai cũng xuất ra hơi thơm như vậy. Tôn giả A nan hỏi trưởng giả Duy ma, hơi thơm này tồn tại bao lâu? Trưởng giả thưa, tồn tại đến khi cơm tiêu hết. Cơm này tồn tại bao lâu? Cơm này tồn tại đến bảy ngày mới tiêu. Lại nữa, thưa tôn giả A nan, thanh văn chưa nhập chính vị, ăn cơm này thì nhập chính vị mới tiêu. Nhập chính vị rồi, ăn cơm này thì tâm giải thoát mới tiêu. Chưa phát tâm đại thừa, ăn cơm này thì phát tâm ấy mới tiêu. Phát tâm ấy rồi, ăn cơm này thì được vô sinh pháp nhẫn mới tiêu. Được vô sinh pháp nhẫn rồi, ăn cơm này thì được địa vị một đời nữa làm Phật mới tiêu. Tựa như có thần dược tên là Thượng vị, ai dùng thì độc chất trong người tiêu hết thần dược ấy mới tiêu. Cơm này cũng vậy, trừ hết độc chất phiền não mới tiêu.

Tôn giả A nan thưa với Phật, thật là chưa từng có, bạch đức Thế tôn; cơm này mà làm được việc Phật làm như vậy. Phật dạy tôn giả A nan, đúng như vậy, A nan. Có thế giới lấy ánh sáng của Phật mà làm việc Phật. Có thế giới lấy bồ tát mà làm việc Phật. Có thế giới lấy người Phật hóa ra mà làm việc Phật. Có thế giới lấy cây bồ đề mà làm việc Phật. Có thế giới lấy y phục hay đồ nằm của Phật mà làm việc Phật. Có thế giới lấy cơm ăn mà làm việc Phật. Có thế giới lấy vườn rừng lầu đài mà làm việc Phật. Có thế giới lấy ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp mà làm việc Phật. Có thế giới lấy thân Phật mà làm việc Phật. Có thế giới lấy sự trống không mà làm việc Phật. Chúng sinh thích ứng với những duyên tố trên đây mà được vào chánh pháp. Có thế giới lấy chiêm bao, ảo thuật, hình ảnh, tiếng vang, bóng trong gương, trăng dưới nước, sóng nắng, những sự ví dụ như vậy mà làm việc Phật. Có thế giới lấy âm thanh ngôn ngữ văn tự mà làm việc Phật. Có thế giới trong sạch lấy sự vắng lặng, không nói năng, không chỉ bảo và không thi vi mà làm việc Phật. Như thế ấy, A nan, chư Phật cử động tới ngừng, mọi việc toàn là việc Phật. A nan, ma quân có bốn loại, phiền não có tám mươi bốn ngàn thứ, chúng sinh vì thế mà khốn đốn, còn chư Phật thì lấy chính những thứ ấy mà làm việc Phật.

Và như thế đó gọi là nhập được pháp môn của Phật. Bồ tát nhập được pháp môn này thì thấy mọi thế giới trong sáng không mừng, không ham, không tự cao, thấy mọi thế giới dơ bẩn không lo, không ngại, không thoái lui. Đối với chư Phật, hãy sinh tâm thanh tịnh, hoan hỷ, tôn kính, thấy rất hiếm có. Chư Phật thì phẩm chất bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng sinhhiện ra thế giới khác nhau. A nan, tôn giả thấy đó, thế giới chư Phật đất có giới hạnhư không đâu có giới hạn, sắc thân chư Phật cũng vậy, sắc thân ấy có giới hạntuệ giác vô ngại đâu có giới hạn. A nan, tất cả những gì của chư Phật, như sắc thân, uy đức, tướng hảo, chủng tộc, giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lực, vô úy, bất cọng, đại từ, đại bi, uy nghi, việc làm, đời sống, thuyết pháp, giáo hóa, làm nên chúng sinh, làm sạch thế giới, tất cả phẩm chất Phật toàn hảo như vậy đồng đẳng hết thảy, nên tôn xưng là đấng Chánh biến tri, đấng Như lai, đấng Giác giả. A nan, nếu Như lai nói rộng rãi về ba đức hiệu ấy, thì tôn giả đem sự sống lâu cả một kiếp cũng không thể tiếp nhận trọn vẹn. Giả sử chúng sinh cả đại thiên thế giới này đều như tôn giả, đa văn bậc nhất, được tổng trì về ký ức, chúng sinh như vậy đem sự sống lâu cả một kiếp cũng không thể tiếp nhận cho hết. A nan, tuệ giác của Phật không có giới hạn, hùng biện của Phật không thể nghĩ bàn.

Tôn giả A nan thưa với Phật, từ nay sắp đi, con không dám tự gọi là đa văn nữa. Phật dạy, tôn giả đừng có cái ý thức thoái lui ấy. Tại sao, vì Như lai nói tôn giả đa văn hơn hết trong hàng thanh văn, đâu có nói trong hàng bồ tát. Thôi, hãy ngừng lại ở đây, A nan; những người có trí thì không nên có một nhận thức giới hạn nào về các vị bồ tát. Đại dương sâu thẳm còn có thể ước lượng được, còn thiền định, trí tuệ, tổng trì, hùng biêển, tất cả phẩm chất này của bồ tát thì không thể lường nổi. A nan, các người hãy gác lại việc làm của bồ tát. Bởi vì trưởng giả Duy ma nhất thời thị hiện thần lựcthanh văn duyên giác tận lực biến hóa trong trăm ngàn kiếp cũng không thể làm được.

Lúc ấy các vị bồ tát đến từ thế giới Chúng hương, chắp tay thưa Phật, bạch đức Thế tôn, chúng con mới thấy thế giới này thì cho là thấp kém, bây giờ tự hối, khử bỏ tư tưởng ấy. Tại sao, vì phương tiện của chư Phật thật là bất khả tư nghị, để độ chúng sinh nên hiện ra thế giới thích ứng khác nhau. Dạ, kính bạch đức Thế tôn, xin Ngài ban cho chúng con chút ít huấn dụ, để khi về thế giới của mình chúng con nhớ mãi về đức Thế tôn. Đức Thế tôn dạy, bồ tát có một pháp môn giải thoát tên là Hết và không hết, các vị nên tu học. Hết là hữu vi. Không hết là vô vi. Mà bồ tát thì không hết hữu vi, không ở vô vi.

Không hết hữu vi là thế nào? Là không rời đại từ. Không bỏ đại bi. Phát khởi sâu xa cái tâm cầu nhất thế trí mà không bao giờ bỗng chốc quên mất. Giáo hóa chúng sinh không bao giờ mỏi mệt. Thường nhớ và làm theo bốn thứ nhiếp pháp. Không tiếc tính mạnggiữ gìn chánh pháp. Không biết chán mệt trong việc gieo trồng các gốc rễ thiện pháp. Chí nguyện thường ở trong sự phương tiện hồi hướng. Cầu pháp không nhác. Thuyết pháp không lẫn. Nỗ lực phụng sự chư Phật. Vào trong sinh tử mà không sợ. Vinh nhục không làm cho mừng lo. Không khinh những người tu học chưa thấu đáo. Kính trọng những người tu học như kính trọng Phật. Ai sa vào phiền não thì làm cho họ có chánh niệm. Không quí trọng cái vui viễn ly. Không ham cái vui của mình. Vui mừng cái vui của người. Ở trong thiền định thấy như ở trong địa ngục (37) . Ở trong sinh tử thấy như du ngoạn hoa viên. Thấy ai đến cầu xin thì coi như bậc thầy tốt. Xả bỏ tất cả, vì có đủ ý tưởng về nhất thế trí. Thấy người phạm giới thì sinh tâm cứu vớt, giữ gìn. Đối với sáu độ thì có ý tưởng cha mẹ. Đối với giác phần thì có ý tưởng bà con. Thật hành thiện pháp khônggiới hạn nào cả. Đem những sự trang nghiêm của các tịnh độ mà làm thành quốc độ của mình. Thật hành bố thí vô hạn. Tướng hảo hoàn bị. Tẩy trừ điều ác, làm sạch thân miệng ý. Sống chết vô số kiếp mà ý chí vẫn dũng liệt. Nghe nói công đức vô lượng của Phật mà chí nguyện không mệt mỏi. Dẹp giặc phiền não bằng kiếm báu trí tuệ. Siêu thoát uẩn xứ giới. Gánh vác chúng sinh, vĩnh viễn làm cho họ giải thoát. Đàn áp ma quân bằng sự đại tinh tiến. Thường cầu sự không phân biệt, trí tuệ hội nhập thật tướng. Thật hành ít ham muốn và biết vừa đủ mà không xả bỏ việc đời. Không thiếu sót uy nghitùy thuận việc đời. Sử dụng tuệ giác thần lực mà dẫn dắt chúng sinh. Được tổng trì về ký ức. Nghe thì không quên. Khéo biết trình độ, loại bỏ hoài nghi cho chúng sinh. Đem tài hùng biện mà thuyết pháp vô ngại. Làm sạch mười thiện nghiệpchấp nhận phước báo trongchư thiên nhân loại. Thực hành bốn tâm vô lượng mà mở đường Phạn thiên. Khuyến thỉnh thuyết pháp, tùy hỷ tán dương, được âm thanh của Phật. Thân miệng ý hoàn thiện, được uy nghi của Phật. Tu hành sâu xa các loại thiện pháp. Tu hành chuyển tới hơn lên. Đem giáo lý đại thừatác thành cho bồ tát tăng. Tâm không phóng dật, không mất thiện pháp. Hành trì như vậy thì gọi là bồ tát không hết hữu vi.

Không ở vô vi là thế nào? Là tu học về không mà không lấy không làm chứng đắc. Tu học về vô tướngvô tác mà không lấy vô tướngvô tác làm chứng đắc. Tu học sự không phát khởi mà không lấy sự không phát khởi làm chứng đắc. Quan sát sự vô thường mà không chán điều thiện. Quan sát sự đau khổ mà không ác cảm sinh tử. Quan sát sự vô ngã mà huấn dụ cho người không mệt. Quan sát sự dứt bặt mà không vĩnh viễn dứt bặt. Quan sát sự viễn ly mà cả thân và tâm đều làm điều thiện. Quan sát sự không qui túc mà qui túc về thiện pháp. Quan sát sự vô sinh mà đem sự sinh gánh vác chúng sinh. Quan sát sự vô lậu mà không đoạn tuyệt các lậu. Quan sát sự không làm mà làm theo các pháp giáo hóa chúng sinh. Quan sát về Không mà không bỏ đại bi. Quan sát chính vị mà không tùy theo tiểu thừa. Quan sát các pháp dối trá, không chắc, không sinh thể, không chủ thể, không khái niệm, vậy mà bản nguyện chưa viên mãn thì chắc thật đối với phước đức, thiền định, trí tuệ. Hành trì như vậy thì gọi là bồ tát không ở vô vi.

Thêm nữa, đủ phước đức thì không ở vô vi, đủ trí tuệ thì không hết hữu vi. Từ bi vĩ đại nên không ở vô vi, bản nguyện viên mãn nên không hết hữu vi. Tập hợp dược phẩm chánh pháp nên không ở vô vi, tùy bịnh mà cho dược phẩm ấy nên không hết hữu vi. Biết bịnh chúng sinh nên không ở vô vi, diệt bịnh chúng sinh nên không hết hữu vi. Các vị bồ tát chánh sĩ hành trì như vậy, không hết hữu vi, không ở vô vi, thì gọi là pháp môn giải thoát Hết và không hết. Các vị hãy tu học pháp môn giải thoát ấy.

Lúc bấy giờ các vị bồ tát thế giới Chúng hương nghe được pháp môn này thì đại hoan hỷ cả. Các vị đem hoa quí với bao nhiêu màu sắc và hương thơm mà rải khắp đại thiên thế giới, hiến cúng đức Thế tôn, hiến cúng kinh này, và hiến cúng các vị bồ tát. Xong rồi, các vị ấy lạy ngang chân đức Thế tôn, than rằng thật chưa từng có, nói đức Thích ca thế tôn làm được phương tiện khéo léo như vậy, tại thế giới này. Nói rồi biến mất, trở về thế giới Chúng hương của các vị ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29774)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 26990)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21651)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22075)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23506)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20276)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 19930)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21829)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24630)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18873)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24576)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30847)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23854)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27658)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26396)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21163)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23104)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 37950)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18708)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18335)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19826)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 18906)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23027)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23739)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22672)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22816)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29443)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20500)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18603)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15741)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18725)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19530)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20036)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19823)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18006)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22746)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34031)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16310)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16820)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 38966)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25873)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 19993)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18680)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 23937)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 28972)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22811)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30780)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20895)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26701)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20543)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26122)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23206)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19703)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24524)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29860)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20094)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20300)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15043)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15723)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23734)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant