Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Giới Thiệu

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8642)
Lời Giới Thiệu

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Lời giới thiệu

Chúng sanh có bệnh nên tôi bệnh.

Câu nói rất nổi tiếng của cư sĩ Duy-ma-cật, biểu thị sự tương quan mật thiết giữa mình và người. Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo. Kinh “Những điều được nói từ Duy Ma Cật” (Duy Ma Cật Sở Thuyết) thật ra là một buổi hội thảo thú vị, trong đó các vị Bồ-tát, Thanh văn đã nêu lên ý kiến của mình về sự nghiệp xây dựng con người, xây dựng cõi nước. Lời kinh nghiêm túc, đôi lúc được phá nét bằng những thần thông hý lộng. Giữa đôi hàng chữ, chúng ta vẫn đọc ra được sự tha thiết cứu độ của các bậc giải thoát, đã vươn đến cái tột cùng nhưng không quên chúng sanh.

Khung cảnh pháp hội mở ra tại kinh thành Tỳ-da-ly (Vesali), một tiểu quốc Ấn Độ nổi tiếng có nền cai trị dân chủ sớm nhất thời ấy. Các vương tử thành Vesali, trang phục hào hoa và sáng rỡ như thiên thần, cũng từng là những đề tài nói chuyện của đức Phật. Nhưng ở đây chọn Vesali, một thành phố trẻ để mở hội, vì ý kinh nhắm đến những người trẻ tương lai, luôn luôn sẵn lòng, làm những mũi nhọn tiền phong để kiến tạo thế giới.

Chúng ta thấy sự có mặt của trưởng giả tử Bảo Tích và năm trăm bè bạn. Với các vị thanh niên giàu có thông minh hiểu sâu Phật pháp này, là mảnh đất tốt để gieo mầm Bồ-tát. Tuổi thanh niên mong làm một cái gì đó lợi ích cho đời, nên Bảo Tích đã hỏi đức Phật một câu quan trọng, đó cũng là câu khơi mào cho cả các phần kinh sau.

- Bạch Thế Tôn! Năm trăm trưởng giả tử này đều đã phát tâm giác ngộ lớn, mong được nghe Phật dạy về các điều kiện của một thế giới trong sáng an lạc.

Phải chăng trong tận cùng tâm tưởng mỗi người, ai cũng nghĩ đến làm cách nào cho cuộc đời này phát triển tốt đẹp hơn, sung sướng tiện nghi hơn? Danh từ kinh gọi là: Tịnh Phật quốc độ.

Hiện tại chung quanh chúng ta vẫn có các vị Bồ-tát, tùy theo năng lực của mình mà giúp ích đời. Những lớp học tình thương, bếp ăn từ thiện, chương trình y tế về nông thôn... Mọi người đồng hành trên mọi nẻo nhân gian, không nói ai là Bồ-tát, nhưng lý tưởng này đã được đặt ra từ thuở xưa. Chính đức Phật đã xác nhận “Tất cả chúng sanhcõi Phật của Bồ-tát”. Thiết lập sự tương quan mật thiết giữa chúng sanh (người được cứu độ) và Bồ-tát (người cứu độ) như một thực tế không thể chia cách. Làm an vui mọi ngườisự nghiệp của mình, ở đây làm sao nói đạo Phậttiêu cực, làm ngơ với cuộc đời?

Điều đáng chú ý, Phật không nói về thành phố, quốc gia xây dựng theo công nghiệp hiện đại, với những mô hình bề thế quy mô. Phật chỉ dạy xây dựng một cõi tâm, tùy theo tâm thế nào mà quốc gia hiện bóng dáng thế ấy. Giáo dục tâm linh với những đức tính hiền thiện, chất trực, siêng năng… là điều kiện hàng đầu để xây dựng thế giới bên ngoài. Chúng ta thấy qua bài học lịch sử, những triều đại khởi đầu khi tâm người lãnh đạo còn tinh khôi mạnh mẽ sáng trưng, và triều đại dần đi vào diệt vong khi tâm của một triều đình lúc ấy đã biến chất. Chính tâmnguyên nhân chủ yếu để xây dựng hay phá hủy. Tâm đưa con người đến đất nước bình an, nói theo kinh điển là: Trực tâmtịnh độ, chúng sanh nào tâm ngay thẳng sẽ được ở cõi nước ấy. Đức Phật đã dạy một số tâm cần thiết để tạo nên cuộc sống và cảnh giới đẹp, trang nghiêm tương ứng, rất khoa học, dù cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng không chứa một chút nào huyền hoặc, xa rời cuộc sống hiện tại. Một câu cũng rất nổi tiếng của đoạn này là lời kết của Phật: “Bảo Tích này, Bồ-tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm thanh tịnh; tùy chỗ tâm thanh tịnhcõi Phật được thanh tịnh”.

Những điều đức Phật dạy cho thanh niên con nhà giàu Bảo Tích được xem như tiền đề khai mạc đại hội. Tinh thần chủ đạo của phẩm mở đầu này rất quan trọng, chỉ vì tầm vóc của Duy-ma-cật quá lớn nên đôi lúc chúng ta không lưu tâm. Xưa nay, trong kinh văn Đại thừa, phẩm mở đầu là phẩm nói lên toát yếu của toàn bộ kinh.

Duy-ma-cật chưa xuất hiện, nhưng ông được giới thiệu như một nhân vật cực kỳ ưu việt. Kinh dành riêng một phẩm để nói về những đức tính, công hạnh, cuộc đời của ông, với danh xưng ca ngợi không thua một vị Bồ-tát nào. Như các đại Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền, Quan Âm được xưng tụng, ở đây một cư sĩ tại gia thế tục sống hòa mình trong cộng đồng, có gia quyến của cải thế lực kinh người, khi làm kinh tế hay khi giải trí vui chơi, đều có khả năng thu hút và giáo hóa. Ông sử dụng ảnh hưởng rộng lớn của mình như một phương tiện đi vào đời, gần gũi mọi tầng lớp từ đạo sĩ du tăng đến ca lâu kỹ viện, sống chung mà không nhiễm, tìm cách giáo hóa đưa về đường lành.

Một nhân vật như thế hẳn được nhiều người ái mộ. Để tạo cơ hội gặp gỡ hơn nữa, ông giả vờ bệnh, nhân đó mọi người lại đến thăm. Giữa tầng lớp quyền quý, trí thức, vô số người trong xã hội ấy, ông trình bày một cách quán sát thân thể, nhìn ngắm thân thể như một đối tượng nghiên cứu để thấy rõ thực chất. Còn chúng ta, ít khi có dịp thấy mình, hoặc có thấy cũng dưới lớp áo trang điểm che mất sự thật. Phá được cái vỏ chấp thân, tâm ta dễ hòa đồng với muôn người và phát triển nhiều đức tính tốt làm lợi ích rộng lớn. Con đường Bồ-tát bắt đầu từ chỗ phá ngã. Đó cũng là lý do Duy-ma-cật đưa vấn đề này ra mổ xẻ đầu tiên.

Mười vị đệ tử lớn nhất trong hàng Thanh văn và bốn vị trong hàng Bồ-tát lần lượt trình bày những lần gặp gỡ với Duy-ma-cật và bị ông “sửa lưng”. Thật ra đó là 14 đề tài nhỏ mà kinh muốn gởi đến chúng ta, qua hình thức trình bày như một kịch bản, có người tung hứng, các nhân vật có người được người thua. Người thắng luôn luôn là Duy-ma-cật, người thua là các đệ tử Phật. Có điều, người thua cuộc kể lại chuyện mình thuần túy chỉ là kể lại, không phàn nàn mà còn thán phục khen ngợi. Trong phần Bồ-tát Trì Thế, có sự góp mặt của chúa Ma và 12.000 thiên nữ. Ma là tượng trưng cho thế lực hắc ám, âm mưu bất chính. Bồ-tát vô tình chẳng biết trò dối gạt, ma định đưa hết 12.000 thiên nữ cho Bồ-tát làm người sai bảo. Duy-ma-cật xuất hiện phá vỡ ý đồ của ma, và vô hiệu hóa mọi thế lực tăm tối. Giáo hóa 12.000 cô tiên thành người tuyên truyền cho Phật pháp, gọi là pháp môn “Vô tận đăng”. Dầu ở cung ma mà thắp sáng đèn giác ngộ, Duy-ma-cật đã đẩy ngược thế chủ động, ma bỗng thành người hiền.

Chỉ nghe kể lại mà Duy-ma-cật đã có biện tàiuy lực như thế, huống chi gặp gỡ. Bồ-tát Văn-thù là người hướng dẫn phái đoàn đến nhà Duy-ma-cật. Cuộc gặp gỡ giữa hai cao thủ đã làm bùng vỡ nền triết lý thượng thừa, ngay từ đầu Duy-ma-cật đã chào Bồ-tát:

- Quý hóa thay, ngài Văn-thù-sư-lợi mới đến! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy!

Câu nói báo hiệu một chân trời khác lạ sẽ mở ra, những suy nghĩ thường tình, con mắt quen thấy những hình ảnh hạn hẹp theo tầm hiểu biết nông cạn cũ kỹ sẽ bị một phen bối rối, không thể hiểu. Bởi vì kinh này còn có tên là “Bất khả tư nghì giải thoát” (Tạm dịch: Sự rộng mở không thể suy nghĩ bàn luận). Chúng ta được đưa vào phương trời xa lạ, bát ngát mà chỉ có các bậc thượng nhân mới hiểu thấu. Có lẽ cũng nên một lần tham dự vào hội nghị này, để những thành kiến về ta người, nam nữ, không gian thời gian… không còn bó chặt tâm thức. Cũng như người quen sống trong căn phòng nhỏ, ngọn đèn vàng vọt, một hôm bỗng bước chân ra sân, một trời đầy ánh trăng ngập tràn, chung quanh là không gian rộng mở, lòng thấy nhẹ nhõm, vui sướng. Cởi mở rỗng rang, thành tựu được vô số đức tính tốt đẹp, làm một con người cao lớn tột cùng (bậc đại Bồ-tát) với tâm tư hạnh nguyện bao trùm muôn loài. Đó là những vấn đề trao đổi, bàn bạc, thực hiện của các đại sĩ, kể từ khi đến thăm Duy-ma-cật.

Tham dự thảo luận nhiều nhất là ở phần “Vào pháp môn không hai”. Duy-ma-cật đưa ra chủ đề: Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn không hai? Có 32 vị Bồ-tát đưa ra ý kiến chung quanh các vấn đề tội phước, sanh diệt, tốt xấu, chánh tà… để đến kết luận không thể phân chia tách rời. Sóng triều khi đầy khi vơi, không thể chọn một bỏ một. Thái độ chọn lựa, chia hai thường gây đau khổ, người mang tình thương vào đời phải có thái độ trung dung không phê phán, thiên lệch. Qua các cách trình bày chúng ta cũng thấy được chủ đích của kinh nhắm đến, và tự nhìn lại mình, vì còn bận bịu vướng mắc so đo, nên không thể nào vượt thoát tự tại. Có lẽ để hình tượng hóa vấn đề “pháp môn không hai” trước đó trong phẩm Bất Tư Nghì, Duy-ma-cật đã bưng 32.000 tòa ngồi của một thế giới xa xôi, về để trong phòng thất của mình. Nhà ông trùm chứa 32.000 chỗ ngồi vẫn không thấy hẹp, không ngăn ngại, cả khung thành Tỳ-da-ly không bị lấn đất, và thiên hạ chung quanh không thấy có gì thay đổi.

Đã làm được việc đem cái lớn bỏ vào cái nhỏ, không ngăn ngại giữa vật chất này và vật chất khác, nên khi bị hỏi về “pháp môn không hai”, Duy-ma-cật làm thinh. Ngài Văn-thù đã ngợi khen.

- Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai.

Một nhà du hành vũ trụ trở về trái đất, khi được hỏi cảnh giới ở tầng chân không ngoài quỹ đạo, sẽ không biết trả lời sao cho được. Ở một nơi không có trọng lực, mọi ý niệm về nặng nhẹ, dài ngắn, vuông tròn đều mất hết. Ở đó cũng chẳng có ngày đêm sáng tối, vì không phải là mặt đất để chịu sự chi phối của vòng quay quanh mặt trời. Thế là thời gian cũng chẳng biết nói sao. Hai ý niệm ràng buộc chúng ta nhiều như thời gian, không gian, kéo theo là kỷ niệm, mơ ước, ưu tư… đều mất điểm tựa. Mọi thứ diễn biến theo điều kiện khác, không có dòng sông trôi, ngày nay ngày mai, thi sĩ làm sao nói:

Tôi đứng bên này bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi

....

Với một người bình thường, cứ nghĩ đến việc leo lên máy bay rời mặt đất là đã thấy sợ, làm sao nói chuyện bước ra ngoài vũ trụ. Khoảng cách quá xa nên đối với vấn đề này chỉ im lặng.

Bản kinh Duy Ma Cật nằm trong chương trình giảng dạy cho trường Phật Học Cơ Bản Đồng Nai. Nhân khi soạn giáo án cho các ni sinh, tôi đã làm được một việc có lợi ích. Về sau bổ túc và viết thêm lời giới thiệu, chọn tập tranh của Hiểu Vân Sơn – Đài Loan làm phụ bản, cũng rất hứng thú. Tôi nghĩ mình ngôn từ hạn hẹp không thể diễn tả được hết ý thâm sâu của kinh, chỉ mong làm một món quà tặng các ni sinh của trường. 

Viên Chiếu, cuối năm 2003
Thích nữ Như Đức

Giới Thiệu Đại Cương

1- Nguyên nhân của Kinh

Duy-ma-cật (Vimalakirti) là đệ tử tại gia của đức Phật và là trưởng giả thành Tỳ-xá-ly (Vaisàli). Ông có khả năng thông hiểu Phật pháp, thân chứng cảnh giới “bất khả tư nghì” nên có nhiều đệ tử Phật không thể đối đáp với ông.

 Khi đức Phật đến thành Tỳ-xá-ly, các vị trưởng giả hào phú đến thăm Phật, vắng mặt Duy-ma-cật vì ông bệnh. Nhân đó Phật bảo một số đệ tử lỗi lạc đến thăm bệnh ông. Hầu hết các Ngài từ chối vì đã từng thua ông trong khi biện luận yếu nghĩa Phật pháp. Cuối cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dẫn đầu thánh chúng đến nhà trưởng giả Duy-ma-cật. Tại đây đã xảy ra vô số điều huyền nhiệm vượt ngoài khả năng suy tư thông thường. Hai vị Bồ-tát, một đại diện cho giới xuất gia, một đại diện cho giới tại gia đã thi triển biện tài khai mở tâm tư cho một số chúng về ý nghĩa tánh Không. Lời của các Ngài được xác chứng như lời kinh, nên kinh này còn có tên “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh”.

2- Tôn chỉ của Kinh

Kinh Duy-ma-cật nêu cao tôn chỉ Đại thừa, đặc biệt nhấn mạnh về Bồ-tát hạnh. Đứng trên lập trường tánh Không của Bát-nhã để thuyết minh thế giới vô biên, trong đó công hạnh của Bồ-tát cũng vô tận. Đó là một ước muốn thanh tịnh hóa nhân gian, việc làm không dành riêng cho giới xuất gia, mà cư sĩ cũng có bổn phận đảm trách.

Vì kinh có mục đích xiển dương Đại thừa, hướng tới sự cao rộng nên các hàng đệ tử Thanh văn của Phật trong kinh trở thành đối tượng yếu kém. Điều này không xúc phạm đến danh dự các Ngài, mà trái lại cho thấy sự thành tựu về “ngã không”. Hiểu được ngụ ý đó, đức của Thanh văn và đức của Bồ-tát đều được nêu cao.

3- Vị trí của Kinh

 Kinh Duy-ma-cật xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch, là một trong những bộ kinh Đại thừa thuộc hệ Bát-nhã . Theo Ngũ thời phán giáo của Đại sư Thiên Thai Trí Giả thì kinh này nằm vào thời thứ tư, đó là thời chuẩn bị đưa giáo lý của Phật đến chỗ viên mãn và đưa tư tưởng của đệ tử Phật thấu đạt chân lý tột cùng.

Tại Ấn Độ, kinh rất thịnh hành và thường được trích dẫn trong các bộ luận như luận Đại Trí Độ… Sang Trung Hoa, phù hợp với tinh thần nhập thế hoạt động nên càng được phổ thông lưu truyền.

4- Phiên dịch

a- Phạn – Hán

 Tương truyền có sáu bản, nhưng hiện chỉ có ba bản trong Đại tạng. Ba nhà dịch:

Ngài Chi Khiêm: Dịch vào các khoảng năm 222 - 253 TL nhằm đời Ngô Tôn Quyền.

Ngài La-thập: Dịch tại kinh đô Trường An, thời Dao Tần (thế kỷ V TL).

Ngài Huyền Trang: Dịch tại kinh đô Trường An, vào khoảng năm 650 TL, thời Đường.

b- Hán – Việt

Phần lớn các vị dịch giả Việt Nam chọn bản kinh ngài La-thập làm chuẩn. 

Các bản dịch:

1- Cư sĩ Đoàn Trung Còn

2- Hòa thượng Huệ Hưng

3- Hòa thượng Trí Quang

4- Sư trưởng Diệu Không

5- Hòa thượng Duy Lực

Các bản dịch và chú giải:

1- Hòa thượng Thanh Từ

2- Hòa thượng Trí Quảng

3- Thượng tọa Giới Hương

Đây chỉ là những bản dịch và chú giải được tìm thấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11947)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12553)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10762)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9943)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15359)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14835)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16568)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13105)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11630)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12762)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13621)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11464)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14148)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24604)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant