Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1- Phật Quốc

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7540)
1- Phật Quốc

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Phật Quốc

1- Giới thiệu hội chúng

Phật ở tại nước Tỳ-da-ly, vườn Am-la. Chúng Tỳ-kheo tám ngàn người, chúng Bồ-tát ba vạn hai ngàn. Trong phần Giới thiệu hội chúng, đặc biệt có đoạn mô tả các đặc tính của chư Bồ-tát. Cho thấy rằng kinh Duy Ma Cật đặc biệt chú trọng đến những người dự hội phải có những đức tính như thế. Đó là những đức tính gì? Về tự thân các Ngài đã thành tựu trí tuệhạnh nguyện, vĩnh viễn xa lìa phiền não (triền cái), tâm thường an trú trong vô ngại giải thoát, đầy đủ lục độ, thân tướng trang nghiêm, danh tiếng vang xa. Về phần lợi tha, các Ngài nguyện làm người bạn không mời thỉnh cho chúng sanh, hàng phục ma oán để Tam bảo thạnh hành. Vì lợi ích chúng sanhthuyết pháp như sư tử hống, ngôn âm vi diệu, rưới mưa pháp cam lồ khiến chúng sanh thấu lý duyên khởi, đoạn dứt tà kiến. Biết rõ căn cơ và tâm tư chúng sanh mà làm người dẫn đường qua biển sanh tử. Biết bệnh chúng sanh mà làm bậc y vương, tùy bệnh cho thuốc. Với đầy đủ công đức như thế, các Ngài thật cần thiết cho chúng sanh, cho thế giới

Phần nói về công đức của các vị Bồ-tát cũng chính là nêu đại ý của Kinh. Toàn bộ Kinh đều nhắm đến sự thành tựu, khuyến khích sự thành tựu công hạnh lợi tha. Đưa ra một mẫu người hoàn thiện tự thân và cũng làm cho người khác hoàn thiện. Đó cũng chính là lý tưởng Đại thừa, sống một đời sống lợi ích an lạc hòa hợp giải thoát. Dù đang còn là phàm phu, hết thảy chúng ta đều ngưỡng mộ các phẩm cách được nêu trong Kinh. Từ trong ý thức ngưỡng mộ sẽ dẫn đến ý nguyện muốn mình được như thế. Đó là tiền đề mà Kinh nêu ra.

2- Cúng dường, tán thán

Trưởng giả tử Bảo Tích cùng năm trăm bằng hữu, mỗi người cầm một cây lọng quý dâng cúng lên đức Phật. Do oai thần của Phật, tất cả lọng báu hợp lại thành một cái lọng lớn, che khắp ba ngàn thế giới. Hết thảy ảnh tượng của thế giới bao la đều hiện trong lọng, núi sông trời đất đền đài, cả mười phương cõi Phật cũng đều hiện trong một cái lọng ấy.

Đoạn này ngụ ý chúng sanh dùng trăm ngàn thứ sai khác đến với Phật, khi gặp Phật thì trăm ngàn thứ sai khác đều trở nên một, “Đồng qui nhi thù đồ”, họp cái nhiều thành cái một, họp tất cả cái riêng thành cái chung, trong cái chung ấy dung thông cả mọi quốc độ, hàm chứa tất cả mà không ngăn ngại nhau. Đó cũng là biểu thị uy lực của Tâm, của sức dung chứa nhiệm mầu của Như Lai Tạng, bao trùm che phủ và phát khởi mọi hiện tượng, mọi hiện tượng không ra ngoài Tâm. 

Trong lời kệ tán Phật, ca ngợi Phật và Phật pháp. Trong Phật pháp nói về chủ đề Ly nhị biên: có - không, thiện - ác… các pháp do nhân duyên sanh, không người, không tạo tác, không người thọ, nhưng nghiệp thiện ác không mất.

Thuyết pháp bất hữu diệc bất vô

nhân duyên cố chư pháp sanh

Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả

Thiện ác chi nghiệp diệc bất vong.

Lòng từ bình đẳng của Phật không đối riêng ai, Phật dùng một ngôn âm thuyết pháp mà mọi loài đều nghe đều nhận hiểu riêng.

3- Tịnh Phật quốc độ

Bảo Tích thưa hỏi, xin muốn được nghe về quốc độ thanh tịnh của Phật, về công hạnh làm nên tịnh độ của chư Bồ-tát.

Đây cũng là điểm chính mà kinh Duy-ma muốn đề cập, là vấn đề thiết yếu cho các vị Bồ-tát đương lai học hỏi.

Phật dạy: Các loài chúng sanhcõi Phật của Bồ-tát. Bồ-tát tùy theo chúng sanh được hóa độ, tùy theo chúng sanh được điều phục, tùy theo chúng sanh thích hợp cõi nước thế nào để được vào trí tuệ Phật… Như thế Bồ-tát thành lập tịnh độ là vì căn cơ và nhu cầu của chúng sanh chớ không phải riêng mình.

“Bồ-tát thủ ư tịnh quốc, giai vi nhiêu ích chúng sanh”. Đó là ý thứ nhất: Bồ-tát lấy chúng sanh làm công hạnh, không rời bỏ chúng sanh, mà thành tựu được chúng sanhthành tựu được cõi nước tịnh độ, tức nhiên chú trọng về nhân cách của người.

Ý thứ hai: Tùy theo chúng sanh nhưng sợ e chúng ta nhầm lẫn, rồi tùy theo luôn những tật xấu của chúng, nên ở đây nêu ra một số điều kiện: Trực tâmtịnh độ, thâm tâm, Bồ-đề tâm… cho đến sáu độ, bốn vô lượng tâm, bốn nhiếp pháp, ba mươi bảy phẩm trợ đạo… Có nghĩa là tịnh độ ấy hoàn toàn đúng chánh pháp.

Hội nhập lại thì giáo hóa chúng sanh đầy đủ các điều kiện trên, đó gọi là thành tựu tịnh độ. Thuật ngữ thông dụng của đoạn này là “tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. Hễ tâm ấy thanh tịnh thì Phật độ thanh tịnh. Một lần nữa nêu lên sự quan trọng của tâm.

Ngài Xá-lợi-phất nghe dạy xong chợt nghi: Nếu như thế, chẳng lẽ khi Thế Tôn còn là Bồ-tát tâm Ngài không được thanh tịnh nên bây giờ cõi nước của Ngài bất tịnh thế này? Đoạn này cũng là một cách diễn tả sự biến chuyển của tâm rất thú vị, hứng khởi. Phật để cho Loa Kế Phạm Vương trả lời. Trong con mắt của Phạm Vương thì cõi nước này hoàn toàn thanh tịnh, nhưng trong con mắt của Xá-lợi-phất thì cõi nước không thanh tịnh. Đó là “Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra”.

Phật hiện thần lực, ấn ngón chân xuống đất, lập tức cõi nước này biến thành thất bảo trang nghiêm, đại chúng đều hoan hỉ tán thán.

Một phẩm này cũng đủ tóm thâu toàn bộ ý chỉ của Kinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13971)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10740)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10405)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11869)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13527)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33513)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11251)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11526)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17771)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11320)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11747)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11405)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12461)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11217)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15624)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11610)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12631)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13862)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12833)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13200)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12652)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11653)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12233)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19688)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11877)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16730)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15981)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12763)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11802)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13143)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11070)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11180)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9951)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11656)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant