Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3- Đệ Tử

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7959)
3- Đệ Tử

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Đệ Tử

ĐẠI Ý TOÀN PHẨM

Điểm chính của phẩm này là các đệ tử lớn của Phật như tôn giả Xá-lợi-phất, tôn giả Ca-diếp… trình bày câu chuyện đối đáp giữa các vị và ông Duy-ma-cật. Phật sai các vị đến thăm bệnh trưởng giả, nhưng tất cả đều từ chối không kham vì hầu hết đã bị chính trưởng giả thuyết pháp chinh phục trong từng trường hợp riêng. Có phải trưởng giả Duy-ma-cật là người tài giỏi cao ngạo? Và hàng Thanh văn đệ tử Phật được xem như yếu kém?

Ở đây chúng ta nên gác qua ý niệm hơn thua khi đọc phẩm này, vì đó chỉ là suy nghĩ thường tình thế gian. Phật pháp có một ý nghĩa cao rộng siêu việt. Mượn lời trưởng giả Duy-ma-cật để bổ túc cho vấn đề được nêu ra hoàn thiện hơn, để khai mở một khía cạnh phong phú mà từ trước chúng ta chỉ quen nhìn một chiều. Đây là tính cách đả phá để thành lập. Hai bên bổ túc cho nhau, hay nói đúng hơn đem quan điểm Đại thừa để đẩy mạnh con đường Thanh văn đến chỗ hoàn thiện đầy đủ, để khai phóng cách nhìn, không bị gò bó trong một ước lệ nào cả. 

1- Tôn giả Xá-lợi-phất

Tôn giả đang ngồi yên trong rừng, ngồi yên có thể là đang tĩnh tọa, hay đang nhập định. Duy-ma-cật trình bày một quan niệm khác về ý nghĩa ngồi yên: Không cần ngồi, và không hẳn ngồi đã là yên. Đó là điểm mới mẻ tuy khó thực hiện. Ở trong ba cõi mà tâm ý không dính trong ba cõi, không ra khỏi Diệt định vẫn cử động oai nghi cũng được xem như nhập định…

Chú trọng về tâm mà không lệ thuộc vào thân, nghĩa là giữ tâm không hướng ra hay hướng vào để tâm yên đó là ngồi yên. Đối với các chỗ thấy nghe không bị động, không bị lay chuyển - xem như đã xong đã vững - nhưng vẫn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo… Ngồi yên như thế là vượt qua hai bên, vượt cả động và tịnh, yên và không yên. Đó là ý của Duy-ma-cật hay là một ý khác của Đại thừa Phật giáo về tính ngồi yên.

2- Tôn giả Mục-kiền-liên

Ngài Mục-kiền-liên đang thuyết pháp cho cư sĩ, Duy-ma-cật đến biện biệt về ý nghĩa của chư pháp và cách nói pháp. Trước tiên nêu lên nguyên tắc “Phàm thuyết pháp nên như pháp mà thuyết”, nghĩa là nói pháp phải nói được chỗ pháp chân thật hay là tính tuyệt đối của pháp. Pháp lìa cả ngã, nhân chúng sanh, thọ mạng, pháp thường vắng lặng vì diệt các tướng, pháp lìa ngôn ngữ danh tự, pháp không hình tướng như hư không, pháp khôngtính cách sở hữu, vượt ra ngoài đối đãi. Pháp như thế là pháp tánh, là bản tánh chân thật thường nhiên, như thế làm sao nói bàn? Không người nói không người nghe, nếu có nói thì cũng như người huyễn nói cho người huyễn nghe. Đây là chỗ Duy-ma-cật muốn nhấn mạnh chỗ sở đắc của ngài Mục-kiền-liên là thần thông, thần thông ví như trò ảo thuật, Ngài sử dụng ảo thuật thì chẳng có gì thiệt. Đề cập đến chân lý tột cùng thì làm sao có pháp để nói.

3- Tôn giả Đại Ca-diếp

Ngài Đại Ca-diếp đi khất thực, nhân đó bị Duy-ma-cật chê Ngài lòng từ bi không trùm khắp, còn bỏ nhà giàu mà xin nhà nghèo. Ông nói về pháp bình đẳngtính cách cao siêu của việc khất thực. Khất thựcxin ăn để nuôi mạng sống, nhưng phải là không ăn không thọ, xem thân này như xóm làng vô chủ, gặp sáu trần mà không dính mắc mà thấy được lý đạo, biết rõ các pháp vốn không sanh không diệt. Khi tâm không dính mắc, không hạn cuộc vào chánh tà, bình đẳng không hai thì nên ăn, nên đi khất thực.

Chúng ta nghĩ ăn là việc bình thường, nhưng Duy-ma-cật nhân đó đưa việc ăn uống lên một phương diện tuyệt đối, nhắc đến một tính cách tha thiết “thấy các pháp bình đẳng”. Các pháp bình đẳng không hai tướng là chủ đích mà Duy-ma-cật dùng để biện luận với các hàng đệ tử Thanh văn của Phật.

4- Tôn giả Tu-bồ-đề

Ngài Ca-diếp chuyên đến nhà nghèo khất thực, bị Duy-ma-cật chận lại thuyết pháp. Đến phiên ngài Tu-bồ-đề, đến ngay nhà trưởng giả khất thực cũng được nghe nói về sự bình đẳng. Bình đẳng đối với tham sân si không lấy không bỏ, bình đẳng giữa vô minh và giải thoát… bình đẳng giữa đắc và không đắc, giữa thánh nhânphàm phu. Nếu được đến chỗ này nhìn tất cả với con mắt nhẹ nhàng. Tiến thêm một bậc nữa, nếâu tôn giả không theo Phật pháp mà theo ngoại đạo, tôn họ làm thầy, họ đọa tôn giả cũng đọa, Ngài luôn ở trong phiền não mà lìa pháp thanh tịnh. Người cúng dường tôn giả không gặp phước mà đọa ba đường dữ… Chỗ này mới thật là mang nhiên, ai lại có thể chọn một phương pháp trái nghịch như thế?

Tôn giả Tu-bồ-đề còn sợ không dám cầm bát cơm do Duy-ma-cật cúng. Nhưng trưởng giả đã nhắc: “Tất cả những điều tôi nói như người huyễn thuật nói, người biến hóa nói đâu có gì thật”. Tôn giả Tu-bồ-đề được Giải không đệ nhất mà đến chỗ này còn phải lúng túng. Thật ra đó là một cách trình bày về Tánh Không đệ nhất nghĩa.

5- Tôn giả Phú-lâu-na

Tôn giả được biệt danh là Thuyết pháp đệ nhất, khi thuyết pháp cho các tân Tỳ-kheo đã bị Duy-ma-cật nhắc nhở – phải quán sát tâm ý căn cơ người nghe, đừng đem pháp Tiểu thừa chỉ dạy giống như đem biển cả nhét vào dấu chân trâu… Và trưởng giả đã làm cho các Tỳ-kheo nhớ lại cội gốc căn lành và phát tâm Bồ-đề. Điều này hàng Thanh văn làm không được nên Phú-lâu-na tán thán.

6- Tôn giả Ca-chiên-diên

Tôn giả được gọi là Luận nghị đệ nhất, tức là người bàn giải về những lời Phật dạy rất thấu đáo, có thể giúp kẻ sơ cơ hiểu rõ hơn. Như thế, một hôm tôn giả diễn giải ý nghĩa của vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt thì gặp Duy-ma-cật đóng góp ý kiến.

Theo ý Duy-ma-cật, tôn giả chưa diễn đạt được thật tướng các pháp, nghĩa là chưa diễn đạt toàn thể mà chỉ nói được một phần thôi. Lật ngược lại ý nghĩa của vô thườngbất sanh bất diệt, sanh diệt chỉ là tướng vô thường nhưng pháp thể không hề sanh diệt, diễn bày được như thế mới thấu tận nguồn. Các ý nghĩa khác cũng thế. Các Tỳ-kheo nghe Duy-ma-cật nói xong đều được tâm giải thoát.

7- Tôn giả A-na-luật

Khi bàn về Thiên nhãn, tôn giả bị Duy-ma-cật vấn nạn là chỗ thấy của Thiên nhãnhình tướng tạo tác. Hình tướng tạo tác là do sự vận dụng của nhãn căn, vin theo tướng trạng sự vật thì có cái thấy bị sanh diệt. Còn nếu không phải tướng tạo tác thì nó thuộc phần vô vi, không hình tướng thì thấy bằng gì?

Chỉ có đức Phật mới thực hiện cái thấy chân thật không do tạo tác và chẳng tạo tác.

8- Tôn giả Ưu-ba-ly

Được mệnh danh là Trì luật đệ nhất. Tôn giả đang giải quyết vấn đề phạm tội của hai thầy Tỳ-kheo. Duy-ma-cật bảo Ngài giải quyết đúng theo luật là làm tăng tội cho họ, làm họ bất an thêm. Vì bản chất của tội không thật, tùy tâm mà phát sanh, nếu tâm ô nhiễm thì đắc tội, nếu tâm thanh tịnh, vô tư thì không tội. Nhìn về phương diện tâm như thế thì tất cả chúng sanh đều có phần không cấu nhiễm nên tùy trường hợp để kết tội. Tất cả pháp đều biến thiên, đều trôi qua như mộng, đều là hình bóng phản chiếu, nhìn như thế vọng tưởng sanh chỗ nào? Không vọng tưởng thì tội không phát sanh, đó gọi là Trì luật đệ nhất.

9- Tôn giả La-hầu-la

La-hầu-la nói về lợi ích xuất gia cho các trưởng giả trẻ tuổi. Duy-ma-cật bảo nói như thế không đúng. Phải thấy chỗ không lợi, không công đức mới là pháp xuất gia vô vi. Còn thấy lợi, thấy công đức là chỗ xuất gia hạn hẹp.

Xuất gia là vượt ra khỏi mọi giới hạn biên tế, hay nói đúng hơn là không còn kẹt vào nơi chốn nào, đó là xuất gia chân thật. Theo ý Duy-ma-cật, xuất gia không phải là chỉ rời bỏ một nơi chốn, mà thật sự là vượt qua năm đường, ra khỏi bùn lầy dính mắc, không thấy có ngã sở, có thọ nhận. Đó là khéo vượt, là lìa lỗi. Xuất gia cũng gọi là phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Ý nghĩa xuất gia ở đây không phải trên hình thức mà nằm ở chỗ nội tâm viễn ly, dù cư sĩ tại gia cũng làm được. Đó là chủ ý của kinh Duy Ma Cật

10- Tôn giả A-nan

A-nan làm thị giả Phật, mang bình bát đi xin sữa về cho Phật để trị bệnh. Bị Duy-ma-cật phản đối

Thân Phật là thân kim cang, các ác đã dứt, các điều lành đều hội họp, làm sao có bệnh? Chuyển Luân Thánh Vương có chút ít phước còn không bệnh huống gì Phật?

Câu chuyện giữa tôn giả A-nan và Duy-ma-cật là vấn đề thắc mắc muôn đời. Phật có bệnh thật hay không? Những lời dạy về thân là nguồn khổ, gốc bệnh, không loại trừ một hữu tình nào. Điều này vẫn đúng.

Nhưng trên hết là cái nhìn về lý tánh tuyệt đối. Nếu thân Phật là pháp thân thì không còn hạn cuộc ở sanh già bệnh chết, không nằm trong vòng hữu vi. Thân như thế đã siêu việt mọi ức tưởng, bệnh hay không bệnh chỉ là một cái nhìn.

Kết thúc của phẩm này qua câu chuyện của mười vị đệ tử lớn của Phật, ta thấy ý Kinh muốn trình bày một vấn đề lớn: Dùng con mắt pháp tánh để đi suốt một vấn đề. Những lời vấn nạn có khả năng giúp chúng ta vượt khỏi vướng mắc về ngôn ngữ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14643)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11696)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12643)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10184)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15159)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10952)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10396)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12351)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16283)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14140)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11650)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14649)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11910)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16692)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11480)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12629)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11243)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11935)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51772)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15337)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13865)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12667)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13110)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54048)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14285)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57634)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14357)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13623)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15291)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17366)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13220)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11828)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13380)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14559)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12369)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12051)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11963)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12415)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13234)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25384)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12101)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14421)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41949)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28177)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38585)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14619)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12593)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16117)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant