Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6- Bất Tư Nghì

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7610)
6- Bất Tư Nghì

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Bất Tư Nghì

1- Cầu pháp chẳng cầu tòa

Cái thất không của Duy-ma-cật để tượng trưng cho chỗ “ưng vô sở trụ” vì thế không có chỗ để ngồi. Còn có chỗ để ngồi là còn có vị trí, có vị trí sẽ có cao thấp, mất tính cách bình đẳng. Tìm tòa ngồi cũng như mình tu mà mong đạt một quả vị, một chỗ nào đó trong thứ bậc của Phật pháp. Đó là đại ý những lời biện luận của Duy-ma-cật đối với ngài Xá-lợi-phất.

Nhân giả vì pháp mà đến hay vì ghế ngồi mà đến?

Nếu là người vì pháp thì không nghĩ đến thân mạng, vì nghĩ đến thân thì mới cầu một vị trí khả xứng, không quý thân nên chẳng cầu chỗ đứng ngồi. Ở đâu cũng là trong pháp tánh cả, đôi khi vì vị trí mà quên mất pháp tánh. Thế nên các bậc Đại Hòa thượng đôi lúc đi làm kẻ ăn xin, từ bỏ ngôi vị tôn quý trong chùa để ở dưới gầm cầu…

Pháp là thể Chơn như, là lý tánh tuyệt đối không phải là pháp của năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới… chẳng phải là pháp hạn cuộc trong ba cõi, vượt ra khỏi hình thức đối đãi nên người cầu pháp chớ kẹt trong tình lượng.

Người cầu pháp không bị kẹt vào Phật, Pháp và Tăng vì đó chỉ là sự thể hiện của lý tánh. Đắm vào Phật thì dính vào hình ảnh, danh từ chưa thể gỡ bỏ được. Kinh Kim Cang, Phật dạy:

“Nhược dĩ sắc kiến ngã

âm thanh cầu ngã

Thị nhân hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai”.

Người cầu pháp cũng không đi theo đường Tứ đế dù cho đó là chân lý do đức Phật nói ra. Không cần phải thấy khổ, dứt tập, tu đạo, chứng diệt vì đó cũng chỉ là vị trí tạm thời của Thanh văn.

Tóm lại pháp là tịch diệt, vắng lặng vượt ngôn ngữ tư duy và mọi hình thức, có tâm cầu là còn khởi ý niệm tư duy, không sống được với pháp thể. Pháp không nhiễm trước cho rằng có Niết-bàn là vị trí tối cao cũng là hình thức nhiễm trước không phù hợp với pháp. Pháp không có chỗ thực hành, nếu cho rằng có pháp môn để thực hành, cũng không đúng với ý nghĩa cầu pháp. Từ pháp môn này so với pháp môn kia, sanh kỳ thị hơn kém, thế gọi là kẹt ở chỗ thực hành, không thấu được pháp thể. Pháp không có nắm giữ hay buông bỏ, pháp không có chỗ nơi, pháp không hình tướng… pháp không thể dùng kiến văn giác tri để nắm bắt. Pháp là Vô vi, tất cả những hành động nắm buông, nhìn ngó… đều là Hữu vi không thể nào nắm được Chơn pháp.

Ở trong chỗ không thể cầu mà khởi một niệm - như ngài Xá-lợi-phất khởi niệm tìm ghế ngồi - là đã không thấy được pháp thể, cho nên Duy-ma-cật nhân đó đưa ra nguyên tắc “Đối với tất cả pháp nên không có chỗ cầu”.

Nếu không một niệm mới thật tìm,

Còn có tâm tìm toàn chẳng biết.

Chỗ thật pháp không dung một niệm, phải buông hết tất cả mới tương ưng.

2- Tòa Sư tử

Biện luận trên lý thể, nếu không bày tỏ sức thần thông diệu dụng dễ rơi vào chỗ cực đoan, chỉ nói suông mà không cho thấy hùng lực của thật pháp. Vì thế đến đây Duy-ma-cật trở lại việc tìm tòa ngồi. Ông hỏi Bồ-tát Văn-thù cõi nước nào có tòa ngồi tốt đẹp bậc nhất. Được trả lời rằng ở cõi nước Tu Di Tướng có tòa sư tử cao lớn trang nghiêm, ông vận thần thông khiến ba vạn hai ngàn tòa sư tử đều hiện ở trong thất mình, như thế không thấy chật và cả cõi nước, đô thành cũng không cảm thấy bị ép ngặt. Cái thất của Duy-ma-cật chỉ rộng khoảng 4m2 mà dung chứa mấy trăm ngàn trời người, rồi thêm mấy chục ngàn tòa ngồi, tòa nào cũng cao lớn đến bốn muôn hai ngàn do tuần (42.000 do tuần # 84.000 cây số), vẫn thấy thong thả. Duy-ma-cật chẳng phải ra sức vận chuyển hay trang hoàng, tòa ngồi tự có. Những việc này đều chỉ do sức diệu dụng, hoạt dụng tự nhiên khi đạt đến chỗ thấu suốt lý tánh, sống với tâm ấy thì mọi sự có đủ, như ta vốn sẵn đủ từ xưa nay.

Vô nhất vật trung vô tận tạng 

Hữu hoa hữu nguyệt hữu lâu đài.

Chỗ “bản lai vô nhất vật” mà Lục Tổ nói đến, trong đó có cả kho tàng vô tận có hoa, có trăng và chứa đựng cả đền đài lầu các. Một đoạn kinh này cũng mô tả ý ấy.

Tòa ngồi cao rộng, Duy-ma-cật mời các đại Bồ-tát hiện thân cao bằng tòa rồi mới ngồi. Tòa và thân tương ưng nhau, tâm và cảnh xứng hợp, cảnh to lớn thì tâm cũng bao trùm. Xá-lợi-phất và các hàng bậc trung vì tâm chưa đạt mức viên dung vô ngại nên không thể lên tòa cao, cần phải đảnh lễ đức Phật Tu Di Đăng Vương. Đảnh lễquy mạng hướng về tức đem tâm nhỏ hẹp hướng về nơi cao rộng, tức có thể ngồi tòa này.

3- Bất tư nghì giải thoát

Nhân Xá-lợi-phất khen ngợi việc chưa từng có, Duy-ma-cật bèn giới thiệu sức giải thoát bất tư nghì của chư Phật và Bồ-tát. Chúng ta không giải thoát vì còn vướng mắc vào hình tướng, vào sự phân chia, vào thời gian không gian…

Ở đoạn kinh này giới thiệu sức giải thoát vượt ra khỏi hạn cuộc của hình tướng, của mọi ý niệm phân chia… bằng các ví dụ sau: Đem núi lớn nhét vào trong hạt cải, một vật thật nhỏ mà dung chứa cả ngọn núi trong lòng, không thấy bức bách. Đưa bốn biển lớn vào trong một lỗ chân lông mà nước biển không giảm sút. Lớn thật lớn, nhỏ thật nhỏ, chỉ là hình thức đối đãi, các vật chất đều phô bày hình tướng của chúng khác nhau. Nếu không kẹt vào tướng ấy, chúng ta có sức giải thoát, nên kinh mới cho đem vật lớn vào vật nhỏ. Ngày nay, một hạt nguyên tử có sức nổ lớn, khoa học có thể chứng minh điều đó. 

Bồ-tát được sức giải thoát, có thể ngắt lấy tam thiên đại thiên thế giới như người thợ gốm nắm một cục đất sét. Thế giới của chúng ta thấy là to rộng, nhưng nhìn trong thế giới loài kiến, mối thì chúng cũng thấy thế giới của chúng là tam thiên đại thiên. Vậy thì phân biệt không có lý do tồn tại, không gian tùy quan niệm của đương sự. 

Tiếp đến là giải thoát về thời gian. Dài hay ngắn, bảy ngày làm một kiếp, một kiếp rút lại làm bảy ngày là khả năng của Bồ-tát. Thật ra thời gian dài ngắn cũng là tương đối, tùy môi trường ánh sáng, tùy vòng quay của hành tinh. Thấu rõ những điều kiện này, chúng ta vượt qua giới hạn của thời gian.

Khả năng tập trung và khả năng phân bố, khả năng tự tại với sức gió sức lửa, khả năng tung hoành trong tất cả các phương sở nơi chốn, khả năng hiện các thân hình, biến các âm thanh… Những điều này nói về sức giải thoát đối với tứ đại, với các khoảng cách xa gần, với tất cả số nhiều không thể tính kể, đều là sự diệu dụng. Người thông đạt bản chất các pháp như nhà nghiên cứu nắm một số bí quyết kỹ thuật, có thể làm tất cả những gì mình muốn. Trong phạm vi vật chất còn tạo được vô số thần thông, huống chi trên tâm thể không ngăn ngại, tâm thể rộng lớn không bờ mé thì tất cả biến hiện chỉ là bọt nổi.

Hiểu được ý này nên ngài Đại Ca-diếp hết lời khen ngợi pháp giải thoát bất tư nghì và khuyến khích đại chúng hướng về tâm Bồ-đề Vô thượng. Thanh văn nghe pháp này nên khóc rống lên, Bồ-tát nên hoan hỷ vui mừng, vì Thanh văn không hiểu được ý vi diệu, còn Bồ-tát thì thấu hiểu sức đại tự tại của chính mình.

Duy-ma-cật nói thêm, người trụ sức giải thoát bất tư nghì thường hiện làm Ma vương để thử thách, vì có thế lực mạnh nên hiện các sự bức bách khiến cho tâm hành giả thêm kiên cố. Nếu vượt qua được thử thách này thì mới trụ vào sức giải thoát bất tư nghì. Vì giải thoát này không phải là giải thoát bình thường mà là một sự chấn động lớn, sức giải thoát vi diệu cởi toang mọi ràng buộc rối rắm từ vô minh, từ tận trong hang sâu thẳm của mê mờ. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12500)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11645)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17446)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53059)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14382)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20486)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18995)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19568)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12186)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12316)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17195)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20197)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18345)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11942)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11503)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant