Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7- Quán Chúng Sanh

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7034)
7- Quán Chúng Sanh

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Quán Chúng Sanh

1- Bồ-tát vào đời

Phẩm Quán Chúng Sanh tiếp theo sau phẩm Bất Tư Nghì, có nghĩa là Bồ-tát khi đã được pháp môn Giải thoát bất tư nghì, đã thành tựu khả năng giải thoát cho mình cùng tất cả khả năng biến hiện tự tại, không phải để thọ hưởng những phép lạ ấy, mà sử dụng chúng như phương tiện đi vào cuộc đời, tiếp cận với chúng sanh, làm người bạn giúp đỡ, người cần thiết cho chúng sanh. Bồ-tát phải từ bỏ cảnh giới Giải thoát mà ở trong cảnh giới khổ đau, ở với tất cả chúng sanh đang bị vướng bị kẹt, giúp họ đạt giải thoát như mình. Cảnh giới của chúng sanh đa dạng, nên Bồ-tát phải có con mắt và phương cách làm việc đúng đạo lý.

a- Mắt trí tuệ

Bồ-tát Văn-thù hỏi Duy-ma-cật:

- Bồ-tát quán chúng sanh như thế nào? Tức là hỏi về cách nhìn chúng sanh, không phải nhìn theo cái thấy thông thường, mà là quán, quán là nhìn có kèm theo trí tuệ nhận biết

Duy-ma-cật trả lời:

- Như nhà ảo thuật thấy các vật do mình biến hiện. Các vật biến hiện không có thật, không thể làm lầm chính người biến hóa ra nó. Như họa sĩ vẽ môït người đẹp, không thể nào đắm mến người đẹp trong tranh. Hết thảy các vật đều do tâm mình tạo, nên biết mà không kẹt.

Như người trí thấy trăng dưới nước, như bóng trong gương. Đó chỉ là sự phản chiếu của sự vật trên gương tâm. 

Như sóng nắng, như tiếng vang, như mây giữa trời, như bọt nước, như sấm chớp… Những thí dụ này nói lên tính cách mong manh không bền chắc, chỉ thoáng có trong phút chốc. Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: “Phàm thánh trời người như điện chớp”, ngay cả hình tượng Thánh nhân cũng chỉ như bóng chớp ngang trời, ngắn ngủi, mau chóng. Không thể níu giữ, không thể toan tính một thứ gì lâu dài, không thể khóc than khi nhìn một bọt nước tan biến. Cứ biết rằng nó đang tan biến. Đó là cách nhìn của người khôn ngoan.

Như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như tình thức thứ bảy… như sắc tướng của cõi trời Vô sắc, như hạt giống cháy, như chứng Tu-đà-hoàn còn thân kiến… như dấu vết chim bay trên không, như con của thạch nữ… những chuyện kể trên là chuyện không thể có, không thể xảy ra. Quán sát chúng sanh như thế để thấy rõ bản chất không thật của chúng. Quán là nhìn về phía bản chất, không nhìn trên hình tướng. Ngoài những cách nói trên không có cách nào đúng hơn để diễn tả về chúng sanh.

b- Phương cách hoạt động

Chúng sanh tuy như vậy, vẫn hiện hữu, vẫn là hiện tượng không thể bỏ qua. Tuy chúng phù du nhưng lại nối tiếp không thể tính kể, Bồ-tát đối với chúng sanh nhìn như ảo mộng, phải thực hành các pháp từ, bi, hỷ, xả như thế nào? Duy-ma-cật giới thiệu phương pháp thực hiện lòng Từ chơn thật bằng cách vì chúng sanh nói pháp như trên, nghĩa là đánh thức cách nhìn của họ, chỉ ra bản chất thật để mọi người không lầm, đó là tình thương thật sự, vì thương mà đem đến sức giải thoát cho chúng sanh. Khi mọi người không lầm nữa thì tất cả đều tỉnh thức, đạt được giác ngộ là an vui tối thượng.

Thực hành lòng từ tịch diệt vì không chỗ sanh khởi, thực hành lòng từ không nóng giận vì chẳng có phiền não, thực hành lòng từ bình đẳngba đời đều như nhau, thực hành lòng từ không tranh cãi vì không chỗ khởi lên để tranh chấp… thực hành lòng từ kiên cốtâm không hủy hoại, thực hành lòng từ thanh tịnh vì các pháp tánh thanh tịnh, thực hành lòng từ vô biên vì như hư không… thực hành lòng từ của A-la-hán, của Bồ-tát, của Phật, tùy theo từng địa vị để phù hợp với căn cơ… cho đến thực hành lòng từ theo lục độ… tất cả đều đem đến cho chúng sanh sự vui vẻ an lạc, mà Bồ-tát vẫn đạt được pháp lạc. Có nghĩa là vì chúng sanh mà làm việc, phần mình không bị thiếu tính chất Giác ngộ, vẫn đầy đủ phẩm hạnh và các đức tính cao đẹp. Như thế gọi là Bồ-tát vì chúng sanh vào đời làm việc, không bị chúng sanh mê hoặc.

Văn-thù-sư-lợi lại hỏi:

- Thế nào gọi là Bi?

Duy-ma-cật đáp:

- Bồ-tát có làm bao nhiêu công đức đều cho chúng sanh đồng hưởng.

- Thế nào là Hỷ ?

- Bồ-tát có những việc nhiêu ích đều hoan hỷ không hối hận.

- Thế nào là Xả?

- Bồ-tát có những phước đức đều không hy vọng

Ba đặc tính sau này nói lên sự buông bỏ của Bồ-tát, dù làm được những lợi ích lớn cho chúng sanh mà coi như đó là việc chung, không giữ riêng cho mình, không ân hận vì mình đã bị làm quá sức, bị hy sinh, không mong sự đền trả của người chịu ơn. Đó là vì Bồ-tát đã thâm nhập tính cách chúng sanh như huyễn, mình như huyễn, tất cả không thật thì có gì trong ấy mà mong cầu. Không mong cầu nhưng vẫn tích cực làm việc và chia sẻ hết tất cả công đức cho chúng sanh cùng hưởng.

c- Căn bản của các pháp

Đầy đủ bốn đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả là có thể làm việc với chúng sanh. Chúng sanh thì ở trong sanh tử, Bồ-tát cũng phải ở luôn trong sanh tử

Văn-thù-sư-lợi hỏi tiếp: 

- Sanh tử đáng sợ, Bồ-tát phải nương nơi đâu?.

 Duy-ma-cật đáp: 

- Bồ-tát ở trong chỗ sanh tử đáng sợ phải nương vào sức Như Lai công đức

Bồ-tát dù tình nguyện vào sanh tử, cũng phải có sức vững vàng, sức đó gọi là công đức Như Lai, sức mạnh được cung cấp từ các việc làm tốt đẹp tạo nên ảnh hưởng phước lực lớn.

Hỏi tiếp: 

- Muốn nương sức Như Lai công đức phải trụ vào đâu?

- Phải trụ vào chỗ độ thoát tất cả chúng sanh

Dường như ở đây có một cái vòng khép kín, vì muốn độ chúng sanh thì phải ở trong sanh tử, muốn ở trong sanh tử vững vàng phải nhờ sức của Phật, mà sức của Phật bắt nguồn từ việc độ chúng sanh. Có nghĩa là không phải nương tựa ở đâu xa, ở vật nào khác mà phải lập cước trên bản vị độ sanh.

Những câu hỏi - đáp tiếp theo dẫn dắt chúng ta đi đến cuối đường ngôn luận. Muốn độ chúng sanh phải trừ dẹp điều gì? Phải trừ dẹp phiền não của mình. Muốn trừ dẹp phiền não phải làm gì? Phải hành Chánh niệm. Hành chánh niệm tức là vô niệm, là hành pháp bất sanh bất diệt, chỗ không sanh không diệt đó được gọi là pháp Thiện, nghĩa là chỗ thiện tột cùng không có sự sanh khởi, khi không có sanh khởi cũng không có gì diệt mất, chỉ có một tâm y nhiên từ trước đến giờ, đó là chỗ bất diệt. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ dạy: “Đó là bản lai diện mục”. Cái xưa nay không từng khởi diệt là chỗ mình phải y theo đó thực hành Chánh niệm. Đi ngược lại thì khi có chánh niệm thì không có phiền não, không có phiền não gọi là độ thoát chúng sanh, hay là độ tất cả khổ ách sanh tử.

Hỏi tiếp về gốc của pháp thiệnbất thiện. Nghĩa là thiện và bất thiện bắt nguồn từ đâu, để đi đến chỗ pháp thiện không diệt, pháp thiện y nhiên một mực trước sau? Dẫn đầu từ thân, thân bắt nguồn từ dục tham, dục tham có ra từ các phân biệt hư dối, phân biệt hư dối sinh khởi từ vọng tưởng điên đảo, vọng tưởng điên đảo được thành lập từ “vô trụ”. Vô trụ lấy gì làm gốc? Vô trụ thì không có gốc (vô trụ tắc vô bổn). Không có một cái căn bản thứ nhất để làm chỗ sinh khởi vô trụ, vì bản chất vô trụ là không đứng ở đâu, không dựa vào đâu thì làm sao có được nền tảng chắc thật. Như thế vô trụ là điểm đầu tiên, cái then chốt sinh thành tất cả pháp (Tùng vô trụ bổn, lập nhất thiết pháp). Chúng ta tưởng như có một pháp thật, có một điểm khởi đầu chắc thật để tạo nên các pháp, và cũng từ các pháp đó mình vin vào để thành lập công đức, nhưng điểm khởi đầu này thì không tung tích, không có chỗ khởi thì các pháp cũng chỉ như ảnh hiện, chợt có chợt mất. Trở lại với cách quán chúng sanh ở đoạn đầu phẩm này, như huyễn sư nhìn vật huyễn, có công đức tạo ra cũng như trong mộng nói mộng, nhìn như thế là nhìn đúng chánh pháp.

2- Thanh văn học tập

Bồ-tát thấy các pháp như huyễn nên an nhiên. Thanh văn chưa thấy được gốc vô trụ của các pháp nên phải lần lượt học tập.

a- Năm dục như huyễn

Trong thất Duy-ma-cật có một thiên nữ tung hoa cúng dường hội chúng, hoa ấy đến các vị Bồ-tát đều rơi xuống, đến bên các vị Đại đệ tử đều dính vào. Các vị dùng hết thần lực để phủi, hoa cũng không rơi.

Các vị Thanh văn giữ giới nghiêm minh, hoa là tượng trưng vật phi pháp nên các Ngài rất sợ dính. Lúc ấy thiên nữ bèn hỏi ngài Xá-lợi-phất: Vì sao phủi hoa? Quả thật, các Ngài xem hoa là vật phi pháp, là tượng trưng vật chất thế gian, không phải là kinh pháp, nên không ưa gần gũi. Trong thất Duy-ma-cật vốn không có gì, nay thiên nữ và hoa chỉ là vật biến hiện, không phải thật pháp. Dùng hình thức nữ nhân đối đáp cũng là điều úy kị của các Ngài, đoạn kinh này dường như đẩy ngài Xá-lợi-phất vào chỗ phải thấy tất cả hiện tượng đang xảy ra đều như huyễn.

b- Giải thoát ở tất cả chỗ nơi

Sau khi nghe thiên nữ biện luận về tính cách của hoa, ngài Xá-lợi-phất hỏi, cô ở trong thất này bao lâu. Thiên nữ nói, bằng thời gian giải thoát của bậc trưởng lão kỳ túc. Thật ra giải thoát không có thời gian, cũng không có tướng mạo, nên đoạn kế tiếp thiên nữ luận rằng, ngôn thuyết văn tự cũng là tướng Giải thoát, tướng Giải thoát không có ở trong ở ngoài, tất cả tướng đều là tướng giải thoát. Nhìn ở khía cạnh rốt ráo không phân biệt thì chẳng có tướng nào là tướng ràng buộc, vì không thấy ràng buộc nên chẳng cần tìm giải thoát ở đâu. Cũng trong tinh thần này, khi Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ chứng đắc được điều gì (một cách gài bẫy) thì thiên nữ lẹ làng đáp chỗ vô chứng vô đắc.

c- Tám việc chưa từng có

 Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ cầu chứng thừa nào trong tam thừa? Thiên nữ trả lời tùy phương tiện giáo hóathực hiện Thanh văn thừa hay Duyên giác thừa. Nhưng mục đích chính là Phật thừa, như người vào thất này chỉ thích mùi hương công đức của Phật, không thích hương công đức của Thanh vănBích chi Phật.

Thiên nữ kể tiếp về tám việc đặc biệt trong thất Duy-ma-cật: 

1- Thất này thường có ánh sáng sắc vàng chiếu soi, không cần ánh sáng mặt trời mặt trăng.

2- Người vào thất này không bị các cấu uế quấy nhiễu.

3- Thất này được các vị trời Đế thích, Phạm vương… các vị Bồ-tát phương khác đến hội họp không ngớt.

4- Thất này thường nói sáu ba-la-mật, pháp bất thối chuyển

5- Thất này thường trỗi nhạc bậc nhất, phát ra vô lượng âm thanh pháp.

6- Trong thất có bốn kho tàng lớn cứu giúp khắp các kẻ nghèo thiếu.

7- Các đức Phật như Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật A-di-đà…, mỗi khi Duy-ma-cật khởi niệm liền hiện đến thuyết pháp.

8- Tất cả cung điện trang nghiêm của chư thiên, các cõi tịnh độ của chư Phật đều hiện trong thất này.

d- Thân tướng như huyễn

Thất của Duy-ma-cật tượng trưng cho Như Lai tạng nên có các việc đặc biệt như thế, không phải là điều khó hiểu. Nhưng thiên nữ ở trong đây, tại sao không chuyển thân nữ, ý ngài Xá-lợi-phất cho là đã ở trong cái nhà vi diệu này mà còn mang thân nữ là dở lắm.

Đến đây là một màn hí lộng, thiên nữ nói tướng huyễn hóa không nhất định, và dùng thần lực khiến ngài Xá-lợi-phất thành thân nữ, để thấy thân tướng nữ nam chỉ như biến hóa, và tất cả tướng nữ nhân đều chẳng phải là tướng nữ thật. Khi ngài Xá-lợi-phất trở lại tướng cũ thì tướng nữ vừa rồi ở đâu? Cũng chẳng ở đâu. Thế nên biết tất cả pháp không ở đâu mà có mặt ở tất cả chỗ (Nhất thiết chư pháp vô tại vô bất tại), đó là ý nghĩa của pháp vô trụ đã nói ở trên.

e- Quả chứng như huyễn

Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ

- Bao lâu sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Thiên nữ đáp: 

- Như Xá-lợi-phất trở lại thành phàm phu, tôi sẽ chứng quả.

Điều này không thể xảy ra, thì thiên nữ cũng không chứng quả. Vì sao? Vì Bồ-đề, Giác ngộ không có chỗ trụ nên không chỗ đắc. Nếu cho là có chứng đắc là trái ngược với tinh thần vô trụ ở trên. Tuy thế, chư Phật vẫn từng đắc quả trong tinh thần Vô sở đắc.

Thiên nữ này vốn đã là vị Bồ-tát có thần thông du hý, mượn chuyện vấn đáp với ngài Xá-lợi-phất để giáo hóa, để nâng đỡ tinh thần của hàng Thanh văn thấu ý chí của Đại thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15760)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11062)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53625)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12970)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16520)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15394)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19155)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19923)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15550)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15343)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15142)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20327)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23941)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15488)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13027)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20101)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13270)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29018)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11700)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18278)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13229)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12797)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13246)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12967)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13001)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13540)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11710)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17721)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22583)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13440)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14326)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105738)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14600)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38415)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15520)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34670)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16052)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11327)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15644)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14021)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13701)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12492)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19371)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27006)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13110)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13466)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21590)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17966)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21872)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14206)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16138)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19098)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24773)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant