Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8- Phật Đạo

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7697)
8- Phật Đạo

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Phật Đạo

1- Bồ-tát thực hành Phật đạo

Nếu nói rằng Bồ-tát thực hành con đường đến quả vị Phật bằng các đức tính từ bi, trí tuệ, nhẫn nhục… thì rất dễ hiểu. Ở đây Duy-ma-cật nói về vấn đề này với vô số chiêu thức trái ngược như: Bồ-tát thực hành năm tội vô gián nhưng không phiền não, vào địa ngục mà không tội, vào loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn… cho đến ở trong tham dục mà lìa nhiễm trước, thị hiện sân giận mà đối với chúng sanh không có giận chướng, thị hiện bỏn xẻn mà luôn xả bỏ, thị hiện phá hủy giới mà luôn an trụ tịnh giới… Đó là Bồ-tát thị hiện sáu tệ mà không trái sáu độ. Bồ-tát vào chúng sanh ma mà vẫn thuận với trí tuệ Phật. Thị hiện vào chỗ bần cùng, mà có tay báu bố thí không cùng tận… Thị hiện vào chỗ thân hình tàn tật mà đầy đủ tướng hảo… Cho đến vào khắp các đường để mà đoạn dứt nhân duyên của các đường.

Duy-ma-cật đã nêu ra các vấn đề cho vị Bồ-tát hành Phật đạo. Đây là một quan niệm mới lạ, cũng là một chân trời mới cho người thực hành Bồ-tát đạo. Nói tóm kết, khi làm những việc trái đạo, nghịch lý, ở chỗ tột cùng đau khổvẫn có đầy đủ tính cách giải thoát, có nghĩa tính cách của Phật tâm bao trùm khắp, không chừa một con đường nào, dù đường đó xấu xa. Hành phi đạo có nghĩa là đã vượt quá phi đạo, dùng phương tiện phi đạo để đến gần với chúng sanh. Chúng sanh ở những nẻo khổ thì nhiều hơn chúng sanh ở đường lành, Bồ-tát chỉ ở nơi trang nghiêm tốt đẹp thì không đủ phương tiện độ sanh nên phải hành phi đạo. Và người đã vào đường tà nẻo khổ không còn sợ tà ma khổ nạn, có nghĩa là các thứ phi đạo không đủ sức ngăn trở Bồ-tát, không làm đắm nhiễm Bồ-tát.

Có vị thiền khách hỏi thiền sư

- Sau khi chết Sư đi đâu?

Sư đáp: 

- Vào địa ngục

Khách ngạc nhiên

- Người như Sư mà vào địa ngục? 

Sư cười: 

- Nếu ta không vào đó thì ai độ ông?

Câu chuyện này cũng mang tính chất của Duy-ma-cật. Một câu chuyện khác của ngài Triệu Châu cho thấy ý nghĩa phi thường

Bà già hỏi Triệu Châu

- Làm sao để chuyển thân nữ? 

Ngài đáp: 

- Bà nên nguyện cho mọi người hãy chuyển thân nữ. Còn riêng bà tình nguyện làm người nữ. 

Một lời nguyện như thế tỏ tính cách đại hùng, đại trượng phu, là đã chuyển rồi. Câu cuối cùng của Duy-ma-cật là một câu đáng lưu ý: “Hiện khắp vào các đường mà dứt nhân duyên của các đường”. Có nghĩa là đi đủ chỗ khắp nơi, là để dứt trừ cái nguyên nhân tiếp nối sanh tử, là để các đường tự thanh thản, bình an. Ý nghĩa của đoạn này rất mạnh, rất hùng tráng. Con đường hành phi đạo mới thông đạt Phật đạocon đường các Phật tử phải lặn lội trong ấy với tất cả hùng lực của mình.

2- Những gì là hạt giống Phật

Bấy giờ, Duy-ma-cật hỏi lại Bồ-tát Văn Thù

- Những gì là hạt giống Như Lai? (Hà đẳng vi Như Lai chủng?). Hạt giống Phật nằm ở đâu? Phải tìm nơi nào? Tương tự như con đường làm Phậtcon đường nào, câu hỏi này để bổ túc cho những điều Duy-ma-cật đã trình bày ở trên. Hai vị Đại sĩ đã thay phiên nhau làm sáng tỏ vấn đề, một vấn đề tu học tưởng chừng như dễ nhưng thực sự rất khó hành.

Bồ-tát Văn-thù đáp: 

- Thân trong ba cõihạt giống Phật. 

Vô minh, tham ái, sân nhuếhạt giống. Bốn điên đảo (vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh, khổ cho là lạc), năm cái, sáu nhập, bảy thức, tám pháp tà, chín não (chín phiền não ràng buộc chúng sanh: ái, nhuế, mạn, vô minh, kiến, thủ, nghi, tật, xan), mười điều bất thiện. Tóm lại 62 kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật (nhất thiết phiền não giai thị Phật chủng). Chủng tử Phật, hạt giống giác ngộ giải thoát nằm ở ngay trong trần lao phiền não. Vì sao? Có đau khổ cùng cực mới phát tâm cầu giải thoát

Thế nên Bồ-tát Văn-thù nói tiếp: 

- Nếu người trụ trong cõi vô vi (vô vi là cõi không còn sanh diệt đau khổ), người ấy không thể phát tâm cầu đạo Giác ngộ

Như hoa sen không thể mọc ở trên cao nguyên, như trồng cây giữa trời không có kết quả. Trong bùn lầy phiền não là chỗ chúng sanh khởi lên hạt giống Phật pháp. Phiền não tà mê là nhân tố để hạt giống Phật nẩy nở. Khi khổ đau chúng ta khởi ý niệm muốn thoát khổ, đó là mầm Phật xuất hiện. Trong đời đau khổ chúng ta có dịp tạo việc lành để cứu khổ, đó là lớp đất màu bồi dưỡng nhân Phật. Chỉ cần chính chúng ta thức tỉnh, ngay nơi vị trí mình đang sống, không lầm mê không cho mình là đã an lạc giải thoát, như thế đã phát tâm cầu Phật đạo. Trong đau khổ người ta dễ thông cảm, dễ nảy sanh từ tâm hơn ở những chỗ an nhàn. “Không vào biển lớn không được châu báu vô giá, không vào biển lớn phiền não không được hạt ngọc Nhất thiết trí”. Câu nói này một lần nữa khuyến khích hàng Bồ-tát sơ phát tâm, những người cần tu trong đời phát tâm tìm cho ra viên ngọc Phật ở ngay chính giữa lòng cuộc sống.

Khi nghe những đoạn đối đáp này, ngài Ca-diếp khởi lên lời ca ngợi: “Lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đúng như lời Ngài nói, trần lao phiền nãohạt giống Như Lai”. Tôn giả Ca-diếp có vẻ như chê trách hàng Thanh văn trong câu nói: “Hạng tạo tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, còn như chúng tôi vĩnh viễn không thể phát tâm”. Ngôn ngữ trong kinh Duy-Ma là ngôn ngữ nghịch lý, câu nói ngài Ca-diếp làm tăng thêm giá trị cho chúng sanh, và khuyến khích hàng Thanh văn rời bỏ Niết-bàn hóa thành mà phấn phát lên quả vị Phật. Bởi vì các vị Thanh văn rất sợ trần lao, sợ sanh tử, sợ con đường khổ, không dám bước vào cuộc chơi, e ngại lên đường. Trong cái nhìn Bồ-tát thì ở đâu mà không có Phật, mọi e ngại đều xóa tan thì đi và đến tự do, khứ lai không sợ.

Ra đi hẹn với xuân đầu

Buổi hồi nguyên lại phai màu bình minh.

(Bùi Giáng)

3- Thân quyến của một vị Bồ-tát

Bấy giờ trong hội có vị Bồ-tát tên Phổ Hiện Sắc Thân. Chúng ta lưu ý tên của Bồ-tát này cũng là ý chính của đoạn kinh này. Phổ Hiện Sắc Thân là thân hiện khắp nơi, thân có mặt mọi chỗ mọi lúc, lúc đó là năng lực hóa đạo, năng lực cứu giúp chúng sanh, năng lực hòa nhập của Bồ-tát. Thế nên Ngài mới hỏi Duy-ma-cật về thân bằng quyến thuộc, người cộng sự, những phương tiện xe ngựa, tóm lại là những gì một vị Bồ-tát có được. Duy-ma-cật đã dùng kệ trả lời, đại ý cho thấy một vị Bồ-tát sử dụng tất cả, hóa thân tất cả chỗ để làm lợi ích chúng sanh. Bồ-tát có mẹ là trí, cha là phương tiện, thầy là chúng tăng. Kinh Pháp Hoa nói chư Phật dùng trí tuệphương tiện giáo hóa, chúng ta nương đó mà thành tựu pháp thân như con ngườicha mẹ mới có thân mình. Pháp hỷ là vợ, lòng từ là con gái, lòng lành là con trai, rốt ráo không tịch là nhà, còn những trần laođệ tử.

Bồ-tát có thân quyến từ bi thiện lành nên độ hết các phiền não nhiều như bụi. Bồ-tát dùng lục độ làm bạn, luôn luôn đi chung, còn tứ nhiếp pháp là kỹ nữ ca xướng vui tai. Bồ-tát dùng các pháp tổng trì làm vườn hoa, các pháp vô lậu nhiều như rừng cây, các pháp giác chi làm bông hoa, và trái cây là giải thoát trí huệ. Bồ-tát mặc y phục tàm quý, đeo tràng hoa thâm tâm (tâm sâu kín), ngồi xe Đại thừa được kéo bằng voi ngựa ngũ thông, dùng cam lộ làm món ăn và nước giải thoát làm thức uống, tắm rửa nước tịnh tâm, xoa ướp hương giới phẩm. Trong những điều kiện đặc biệt như thế, Bồ-tát thành tựu được vô số công đức: Tiêu diệt giặc phiền não, chiến thắng bốn loại ma. Đây là lợi ích đầu tiên và phải có của một vị Bồ-tát. Sau đó là những lợi ích vì người:

Chứng ngộ không sanh diệt

Thị hiện nên thọ sanh

Hiện khắp mọi thế giới

Như mặt trời hiện khắp.

Bồ-tát tuy biết không có sanh diệt, bản thể lúc nào cũng tự như, nhưng thị hiện khắp nơi chốn (phổ hiện sắc thân) để độ sanh.

Thế giớichúng sanh

Tuy biết đều là không

Nhưng thường tu tịnh độ

Giáo hóa cho quần sanh.

Bao nhiêu loài chúng sanh

Thân hình, ngữ âm, động tác

Bồ-tát sức vô úy

Một lúc đều hiện cả.

Đây là nối kết ý của Bồ-tát hành phi đạo, vào tất cả loài, hiện tất cả thân. Biết hết các việc ma mà thị hiện tùy theo chúng, dùng phương tiện trí đều hiện đủ nơi các ma. Hoặc thị hiện già bệnh chết để dạy cho chúng sanh biết đời ảo hóa mỏng manh.

Bồ-tát còn có khả năng hiện nhiều thân cùng một lúc, nếu có vô số ức chúng sanh đồng đến thỉnh Bồ-tát, Ngài đều đến nhà họ cùng một lúc giáo hóa. Bồ-tát biết rành nghề nghiệp, văn thơ thế gian, đều đi khắp hết các đạo giáo để giải trừ sai lầm không cho rơi vào tà kiến. Thời kỳ dịch bệnh, Bồ-tát thị hiện các dược liệu trị lành, thời kỳ đói khát, thị hiện các thức ăn uống làm cho hết đói khát rồi mới nói Phật pháp, thời kỳ chiến tranh thì khởi lòng từ dạy họ đến chỗ không tranh chấp, nếu có đại chiến thì khiến hai bên đồng sức nhau và hiện oai thế hàng phục cho hòa giải. Trong tất cả địa ngục, đến đó cứu khổ, trong loài súc sanh cũng hiện sanh vào để làm lợi ích, thị hiện thọ ngũ dục mà hành thiền.

Trong lửa sanh hoa sen

Mới đáng gọi hiếm có

Tu thiền trong dục lạc

Cũng hiếm có như thế 

Hoặc hiện làm dâm nữ

Dẫn dụ kẻ háo sắc

Trước dùng dục lôi kéo

Sau khiến vào trí Phật.

Bồ-tát không những có thể hóa làm vua trời, vua người, làm tiên trưởng, đại thần… mà cũng làm người nô lệ cho người sai khiến vui lòng rồi sau khiến phát tâm. Con đường Phật đạo hay Bồ-tát đạo rộng lớn không cùng, làm việc không ngừng, tất cả vì chúng sanh.

Phẩm Phật Đạo này khai triển mục đích chính của kinh Duy Ma Cật rất đầy đủ, kể rõ việc làm của hàng Bồ-tát và khuyến khích chúng sanh noi theo. Sống vì người, đó là lý tưởng tối hậu, với lý tưởng này đi vào thế giới nào cũng được yêu chuộng, ở nơi đâu cũng được ngợi khen. Tuy mới vào đề dùng lối nói ngược để chúng ta ngạc nhiên, nhưng ý sâu xa đã hiện rõ nơi phần kệ tụng. Chúng ta đọc suốt văn kinh này, cảm độngviệc làm của Bồ-tát, đồng thời nhen nhúm nơi tâm mình một ý nguyện hành động. Đó là mục đích mà ngài Duy-ma-cật nhắm tới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19613)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23879)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41108)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19622)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23887)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21672)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23216)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27419)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26468)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29219)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33060)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20126)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25680)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20834)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31178)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38426)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21350)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44149)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29745)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42041)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22073)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45595)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32018)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23866)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24261)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29146)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33820)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27601)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32030)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20967)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28791)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21480)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27930)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 21987)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21356)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19430)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19370)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19759)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19168)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29060)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20547)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28196)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23551)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33063)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31750)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21322)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39527)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21481)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19301)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26226)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24731)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21695)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22308)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29052)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22487)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20418)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23413)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21158)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35178)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24482)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant