Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8- Phật Đạo

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7701)
8- Phật Đạo

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Phật Đạo

1- Bồ-tát thực hành Phật đạo

Nếu nói rằng Bồ-tát thực hành con đường đến quả vị Phật bằng các đức tính từ bi, trí tuệ, nhẫn nhục… thì rất dễ hiểu. Ở đây Duy-ma-cật nói về vấn đề này với vô số chiêu thức trái ngược như: Bồ-tát thực hành năm tội vô gián nhưng không phiền não, vào địa ngục mà không tội, vào loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn… cho đến ở trong tham dục mà lìa nhiễm trước, thị hiện sân giận mà đối với chúng sanh không có giận chướng, thị hiện bỏn xẻn mà luôn xả bỏ, thị hiện phá hủy giới mà luôn an trụ tịnh giới… Đó là Bồ-tát thị hiện sáu tệ mà không trái sáu độ. Bồ-tát vào chúng sanh ma mà vẫn thuận với trí tuệ Phật. Thị hiện vào chỗ bần cùng, mà có tay báu bố thí không cùng tận… Thị hiện vào chỗ thân hình tàn tật mà đầy đủ tướng hảo… Cho đến vào khắp các đường để mà đoạn dứt nhân duyên của các đường.

Duy-ma-cật đã nêu ra các vấn đề cho vị Bồ-tát hành Phật đạo. Đây là một quan niệm mới lạ, cũng là một chân trời mới cho người thực hành Bồ-tát đạo. Nói tóm kết, khi làm những việc trái đạo, nghịch lý, ở chỗ tột cùng đau khổvẫn có đầy đủ tính cách giải thoát, có nghĩa tính cách của Phật tâm bao trùm khắp, không chừa một con đường nào, dù đường đó xấu xa. Hành phi đạo có nghĩa là đã vượt quá phi đạo, dùng phương tiện phi đạo để đến gần với chúng sanh. Chúng sanh ở những nẻo khổ thì nhiều hơn chúng sanh ở đường lành, Bồ-tát chỉ ở nơi trang nghiêm tốt đẹp thì không đủ phương tiện độ sanh nên phải hành phi đạo. Và người đã vào đường tà nẻo khổ không còn sợ tà ma khổ nạn, có nghĩa là các thứ phi đạo không đủ sức ngăn trở Bồ-tát, không làm đắm nhiễm Bồ-tát.

Có vị thiền khách hỏi thiền sư

- Sau khi chết Sư đi đâu?

Sư đáp: 

- Vào địa ngục

Khách ngạc nhiên

- Người như Sư mà vào địa ngục? 

Sư cười: 

- Nếu ta không vào đó thì ai độ ông?

Câu chuyện này cũng mang tính chất của Duy-ma-cật. Một câu chuyện khác của ngài Triệu Châu cho thấy ý nghĩa phi thường

Bà già hỏi Triệu Châu

- Làm sao để chuyển thân nữ? 

Ngài đáp: 

- Bà nên nguyện cho mọi người hãy chuyển thân nữ. Còn riêng bà tình nguyện làm người nữ. 

Một lời nguyện như thế tỏ tính cách đại hùng, đại trượng phu, là đã chuyển rồi. Câu cuối cùng của Duy-ma-cật là một câu đáng lưu ý: “Hiện khắp vào các đường mà dứt nhân duyên của các đường”. Có nghĩa là đi đủ chỗ khắp nơi, là để dứt trừ cái nguyên nhân tiếp nối sanh tử, là để các đường tự thanh thản, bình an. Ý nghĩa của đoạn này rất mạnh, rất hùng tráng. Con đường hành phi đạo mới thông đạt Phật đạocon đường các Phật tử phải lặn lội trong ấy với tất cả hùng lực của mình.

2- Những gì là hạt giống Phật

Bấy giờ, Duy-ma-cật hỏi lại Bồ-tát Văn Thù

- Những gì là hạt giống Như Lai? (Hà đẳng vi Như Lai chủng?). Hạt giống Phật nằm ở đâu? Phải tìm nơi nào? Tương tự như con đường làm Phậtcon đường nào, câu hỏi này để bổ túc cho những điều Duy-ma-cật đã trình bày ở trên. Hai vị Đại sĩ đã thay phiên nhau làm sáng tỏ vấn đề, một vấn đề tu học tưởng chừng như dễ nhưng thực sự rất khó hành.

Bồ-tát Văn-thù đáp: 

- Thân trong ba cõihạt giống Phật. 

Vô minh, tham ái, sân nhuếhạt giống. Bốn điên đảo (vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh, khổ cho là lạc), năm cái, sáu nhập, bảy thức, tám pháp tà, chín não (chín phiền não ràng buộc chúng sanh: ái, nhuế, mạn, vô minh, kiến, thủ, nghi, tật, xan), mười điều bất thiện. Tóm lại 62 kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật (nhất thiết phiền não giai thị Phật chủng). Chủng tử Phật, hạt giống giác ngộ giải thoát nằm ở ngay trong trần lao phiền não. Vì sao? Có đau khổ cùng cực mới phát tâm cầu giải thoát

Thế nên Bồ-tát Văn-thù nói tiếp: 

- Nếu người trụ trong cõi vô vi (vô vi là cõi không còn sanh diệt đau khổ), người ấy không thể phát tâm cầu đạo Giác ngộ

Như hoa sen không thể mọc ở trên cao nguyên, như trồng cây giữa trời không có kết quả. Trong bùn lầy phiền não là chỗ chúng sanh khởi lên hạt giống Phật pháp. Phiền não tà mê là nhân tố để hạt giống Phật nẩy nở. Khi khổ đau chúng ta khởi ý niệm muốn thoát khổ, đó là mầm Phật xuất hiện. Trong đời đau khổ chúng ta có dịp tạo việc lành để cứu khổ, đó là lớp đất màu bồi dưỡng nhân Phật. Chỉ cần chính chúng ta thức tỉnh, ngay nơi vị trí mình đang sống, không lầm mê không cho mình là đã an lạc giải thoát, như thế đã phát tâm cầu Phật đạo. Trong đau khổ người ta dễ thông cảm, dễ nảy sanh từ tâm hơn ở những chỗ an nhàn. “Không vào biển lớn không được châu báu vô giá, không vào biển lớn phiền não không được hạt ngọc Nhất thiết trí”. Câu nói này một lần nữa khuyến khích hàng Bồ-tát sơ phát tâm, những người cần tu trong đời phát tâm tìm cho ra viên ngọc Phật ở ngay chính giữa lòng cuộc sống.

Khi nghe những đoạn đối đáp này, ngài Ca-diếp khởi lên lời ca ngợi: “Lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đúng như lời Ngài nói, trần lao phiền nãohạt giống Như Lai”. Tôn giả Ca-diếp có vẻ như chê trách hàng Thanh văn trong câu nói: “Hạng tạo tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, còn như chúng tôi vĩnh viễn không thể phát tâm”. Ngôn ngữ trong kinh Duy-Ma là ngôn ngữ nghịch lý, câu nói ngài Ca-diếp làm tăng thêm giá trị cho chúng sanh, và khuyến khích hàng Thanh văn rời bỏ Niết-bàn hóa thành mà phấn phát lên quả vị Phật. Bởi vì các vị Thanh văn rất sợ trần lao, sợ sanh tử, sợ con đường khổ, không dám bước vào cuộc chơi, e ngại lên đường. Trong cái nhìn Bồ-tát thì ở đâu mà không có Phật, mọi e ngại đều xóa tan thì đi và đến tự do, khứ lai không sợ.

Ra đi hẹn với xuân đầu

Buổi hồi nguyên lại phai màu bình minh.

(Bùi Giáng)

3- Thân quyến của một vị Bồ-tát

Bấy giờ trong hội có vị Bồ-tát tên Phổ Hiện Sắc Thân. Chúng ta lưu ý tên của Bồ-tát này cũng là ý chính của đoạn kinh này. Phổ Hiện Sắc Thân là thân hiện khắp nơi, thân có mặt mọi chỗ mọi lúc, lúc đó là năng lực hóa đạo, năng lực cứu giúp chúng sanh, năng lực hòa nhập của Bồ-tát. Thế nên Ngài mới hỏi Duy-ma-cật về thân bằng quyến thuộc, người cộng sự, những phương tiện xe ngựa, tóm lại là những gì một vị Bồ-tát có được. Duy-ma-cật đã dùng kệ trả lời, đại ý cho thấy một vị Bồ-tát sử dụng tất cả, hóa thân tất cả chỗ để làm lợi ích chúng sanh. Bồ-tát có mẹ là trí, cha là phương tiện, thầy là chúng tăng. Kinh Pháp Hoa nói chư Phật dùng trí tuệphương tiện giáo hóa, chúng ta nương đó mà thành tựu pháp thân như con ngườicha mẹ mới có thân mình. Pháp hỷ là vợ, lòng từ là con gái, lòng lành là con trai, rốt ráo không tịch là nhà, còn những trần laođệ tử.

Bồ-tát có thân quyến từ bi thiện lành nên độ hết các phiền não nhiều như bụi. Bồ-tát dùng lục độ làm bạn, luôn luôn đi chung, còn tứ nhiếp pháp là kỹ nữ ca xướng vui tai. Bồ-tát dùng các pháp tổng trì làm vườn hoa, các pháp vô lậu nhiều như rừng cây, các pháp giác chi làm bông hoa, và trái cây là giải thoát trí huệ. Bồ-tát mặc y phục tàm quý, đeo tràng hoa thâm tâm (tâm sâu kín), ngồi xe Đại thừa được kéo bằng voi ngựa ngũ thông, dùng cam lộ làm món ăn và nước giải thoát làm thức uống, tắm rửa nước tịnh tâm, xoa ướp hương giới phẩm. Trong những điều kiện đặc biệt như thế, Bồ-tát thành tựu được vô số công đức: Tiêu diệt giặc phiền não, chiến thắng bốn loại ma. Đây là lợi ích đầu tiên và phải có của một vị Bồ-tát. Sau đó là những lợi ích vì người:

Chứng ngộ không sanh diệt

Thị hiện nên thọ sanh

Hiện khắp mọi thế giới

Như mặt trời hiện khắp.

Bồ-tát tuy biết không có sanh diệt, bản thể lúc nào cũng tự như, nhưng thị hiện khắp nơi chốn (phổ hiện sắc thân) để độ sanh.

Thế giớichúng sanh

Tuy biết đều là không

Nhưng thường tu tịnh độ

Giáo hóa cho quần sanh.

Bao nhiêu loài chúng sanh

Thân hình, ngữ âm, động tác

Bồ-tát sức vô úy

Một lúc đều hiện cả.

Đây là nối kết ý của Bồ-tát hành phi đạo, vào tất cả loài, hiện tất cả thân. Biết hết các việc ma mà thị hiện tùy theo chúng, dùng phương tiện trí đều hiện đủ nơi các ma. Hoặc thị hiện già bệnh chết để dạy cho chúng sanh biết đời ảo hóa mỏng manh.

Bồ-tát còn có khả năng hiện nhiều thân cùng một lúc, nếu có vô số ức chúng sanh đồng đến thỉnh Bồ-tát, Ngài đều đến nhà họ cùng một lúc giáo hóa. Bồ-tát biết rành nghề nghiệp, văn thơ thế gian, đều đi khắp hết các đạo giáo để giải trừ sai lầm không cho rơi vào tà kiến. Thời kỳ dịch bệnh, Bồ-tát thị hiện các dược liệu trị lành, thời kỳ đói khát, thị hiện các thức ăn uống làm cho hết đói khát rồi mới nói Phật pháp, thời kỳ chiến tranh thì khởi lòng từ dạy họ đến chỗ không tranh chấp, nếu có đại chiến thì khiến hai bên đồng sức nhau và hiện oai thế hàng phục cho hòa giải. Trong tất cả địa ngục, đến đó cứu khổ, trong loài súc sanh cũng hiện sanh vào để làm lợi ích, thị hiện thọ ngũ dục mà hành thiền.

Trong lửa sanh hoa sen

Mới đáng gọi hiếm có

Tu thiền trong dục lạc

Cũng hiếm có như thế 

Hoặc hiện làm dâm nữ

Dẫn dụ kẻ háo sắc

Trước dùng dục lôi kéo

Sau khiến vào trí Phật.

Bồ-tát không những có thể hóa làm vua trời, vua người, làm tiên trưởng, đại thần… mà cũng làm người nô lệ cho người sai khiến vui lòng rồi sau khiến phát tâm. Con đường Phật đạo hay Bồ-tát đạo rộng lớn không cùng, làm việc không ngừng, tất cả vì chúng sanh.

Phẩm Phật Đạo này khai triển mục đích chính của kinh Duy Ma Cật rất đầy đủ, kể rõ việc làm của hàng Bồ-tát và khuyến khích chúng sanh noi theo. Sống vì người, đó là lý tưởng tối hậu, với lý tưởng này đi vào thế giới nào cũng được yêu chuộng, ở nơi đâu cũng được ngợi khen. Tuy mới vào đề dùng lối nói ngược để chúng ta ngạc nhiên, nhưng ý sâu xa đã hiện rõ nơi phần kệ tụng. Chúng ta đọc suốt văn kinh này, cảm độngviệc làm của Bồ-tát, đồng thời nhen nhúm nơi tâm mình một ý nguyện hành động. Đó là mục đích mà ngài Duy-ma-cật nhắm tới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11780)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12736)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10308)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12031)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15250)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11044)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10483)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12435)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16387)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14269)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11739)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14763)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11996)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16788)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12706)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11314)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52042)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15431)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13943)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11411)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13141)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12751)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13188)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17870)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12421)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12619)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54166)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14395)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9900)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13795)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57907)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14462)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20092)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13745)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15370)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17466)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13294)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11887)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13467)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14632)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12455)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12136)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12044)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13265)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12508)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13644)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13305)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25524)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12164)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14512)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11822)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42032)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28282)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38749)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14701)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12675)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16227)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant