Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12- Thấy Phật A Súc

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7462)
12- Thấy Phật A Súc

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Thấy Phật A Súc

1- Pháp quán Phật thân

Tựa phẩm này là “Kiến A-súc Phật”, và toàn phẩm này hàm ngụ ý: Phải thấy Phật qua con mắt nào? Trước tiên, chữ A Súc (Axobya) nghĩa là Vô động, Bất động. Phải nhìn bằng cái không động, không động đây chẳng phải là cái Tĩnh đối với Động, mà là cái tịch nhiên vắng lặng vượt ngoài cả Động - Tĩnh.

Mở đầu, đức Phật hỏi Duy-ma-cật:

- Ông dùng cách gì để thấy Phật?

Duy-ma-cật đưa ra pháp quán Thật tướng của thân. Hỏi về Phật mà đưa thân mình làm đầu đề, có phải là một sự vô lễ? Để cho thấy tính cách bình đẳng giữa Phật và chúng sanh, cho nên nói: “Như quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy”. Đây cũng là khẳng định Phật hiển hiện qua mọi nơi, mọi lúc, không tự khi mình, thái độ của bậc Đại sĩ.

Quán Thật tướng như thế nào? Không đến, không đi, không trụ, không phải sắc, không phải không, không có dấu vết của sáu cửa ra vào (sáu cơ quan tiếp xúc sáu trần mà không để lại dấu vết, không lưu giữ hình ảnh). Không phải một tướng duy nhất, chẳng phải nhiều tướng khác nhau. Không phải bờ này, không phải bờ kia, chẳng ở giữa dòng…, chẳng tịnh chẳng uế…, chẳng tham chẳng thí…, không ra không vào…

Tất cả một đoạn kinh này đã nói lên ý nghĩa chữ “Vô Động”, tức là không kẹt trong bất cứ một ý niệm ngôn từ, không thể dùng một hình thái nào để gọi đó là Phật. Nhà Thiền cũng có một lời khuyên phù hợp: “Chỗ không Phật cứ đi qua, chỗ có Phật chẳng đứng lại”, giúp chúng ta cởi bỏ nốt cái chấp trước vào danh từ đẹp nhất là “Phật”. Khi không còn một ý niệm, không còn đối đãi dấy lên, đó chính là Phật A-súc hiện tiền.

Duy-ma-cật kết luận: Thân của Như Lai là như thế, quán như thế là Chánh quán, nếu quán khác gọi là Tà quán.

Kinh Kim Cang có câu:

Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo
Không thể thấy Như Lai.

2- Duy-ma-cật đến từ đâu?

Vào đầu đoạn này, Xá-lợi-phất hỏi một câu dường như tương phản với những điều đã trình bày ở trên:

- Ông chết ở đâu mà đến sanh đây?

Câu hỏi có chết sống, có nơi chốn rời bỏ đến và đi, Xá-lợi-phất cố ý không hiểu lời đối đáp của Duy-ma-cật với Phật ở trên chăng?

Thật ra đây chỉ là một cách giới thiệu khéo léo về đề tài “Vô Động”. Duy-ma-cật hỏi:

- Pháp mà Ngài đắc được (có nghĩa là chân lý) có chấm dứt và sanh ra chăng?

Đáp:

- Không.

Nếu các pháp không có tướng chết đi và tướng sanh ra thì tại sao hỏi tôi câu ấy? Thí như nhà ảo thuật biến ra người nam nữ, người do sức biến hóa có chết-sống chăng? Câu này ngụ ý nhắc chúng ta rằng thấy có chết đây sanh kia là thấy như huyễn, sống chết đều như huyễn, đều bất động trong cái vắng lặng, giống như thấy có bọt nước nổi chìm trong biển bao la. Bọt nước nổi chìm trăm ngàn lần cũng chỉ là trong cái tịch tịnh an nhiên của biển.

Phật giới thiệu Duy-ma-cật đến từ nước Diệu Hỷ, một cõi nước của Phật Vô Động. Đến từ chỗ Phật Vô Động thì cũng như không đến. Vậy mà Xá-lợi-phất ngạc nhiên: “Sao lại có người chịu bỏ cõi thanh tịnh để vui lòng sanh ở nước nhiều sân hận này?”

Vì cõi kia là cõi Diệu Hỷ, cõi này là cõi khổ đau. Nếu còn thấy có đây kia và có vui đối với khổ, là còn chưa hiểu hết ý “Vô Động”. Duy-ma-cật đáp bằng thí dụ: Mặt trời chiếu sáng chỗ tối, Bồ-tát đến chỗ khổ đau để giải trừ tối tăm phiền não cho chúng sanh. Ánh sáng chiếu soi chỗ bụi nhơ tăm tối nhưng ánh sáng không bị bụi nhơ, không bị tăm tối, Bồ-tát tuy sanh trong cõi nhơ uế nhưng không bị cấu nhiễm.

Đoạn này để khích lệ các vị phát tâm Bồ-tát, không sợ sanh tử, không sợ phiền não, đi khắp nơi chốn với một tâm an nhiên. Một tâm an nhiên bất động có thể ứng phó với mọi cái thô động. 

Thiền sư Đại Hàm đang đọc sách trong phòng, có một tên cướp cầm đao xông vào. Sư điềm nhiên hỏi:

- Ngươi cần đòi tiền hay cần đòi mạng?

- Cần tiền.

Sư thảy ra bọc tiền bảo cầm đi, tên cướp vừa quay lưng, Sư kêu:

- Hãy khoan! Khi ra ngoài nhớ đóng cửa cẩn thận.

Sau đó, tên này nói với đồng bọn:

- Ta từng trộm cướp nhiều mà chưa lần nào bị khiếp vía như lần đó.

Để thấy với bản tâm không động, ứng phó tự nhiên không trệ ngại mà xong tất cả.

3- Thấy Phật Vô Động

Bấy giờ đại chúng đều muốn thấy cõi nước Diệu Hỷ và Phật Vô Động. Phật bảo Duy-ma-cật hãy hiện cõi Diệu Hỷ cùng Phật - Bồ-tát - Thanh văn.

Tại sao đức Phật Thích-ca không đem cõi Diệu Hỷ đến mà bảo Duy-ma-cật hãy hiện cõi ấy? Có lẽ nếu chúng ta khôn ngoan một chút thì đã đảnh lễ đức Phật của chúng ta, vì cõi Phật và Phật đâu có xa xôi gì. Bảo hãy hiện cõi Phật, mà không bảo hãy đem cõi Phật đến, hoặc đưa chúng cõi này đi. Chúng ta thấy được sự thâm sâu ở đây: Mỗi người đều có thể hiện cõi Phật ngay tức thời, không cần phải đến đâu, đi đâu.

Một tướng quân đến hỏi thiền sư Bạch Ẩn:

- Thật sự có thiên đường, địa ngục không?

Thiền sư hỏi lại:

- Ông là ai?

- Tôi là một danh tướng.

Thiền sư cười to nhạo báng:

- Một kẻ ngu si như ông là một tướng quân à? Trông ông giống tên hàng thịt.

Tướng quân rút gươm ra. Thiền sư nói:

- Đó là địa ngục.

Tướng quân chợt nhận thấy và đút gươm vào vỏ, xin lỗi. Thiền sư nói:

- Cửa thiên đường mở rộng.

Như thế đã hiện đủ cảnh ngay nơi ta.

Duy-ma-cật lúc ấy bèn nghĩ rằng: “Ta không cần đứng dậy mà có thể cầm lấy cõi nước Diệu Hỷ cùng toàn bộ đất nước sông núi, bầu trời tinh tú, trời rồng quỷ thần, chúng Bồ-tát Thanh văn, thành phố làng xóm cùng nhân dân, đức Phật Vô Độngtoàn bộ chúng hội đang tu tập, cả cõi trời cao nhất là cõi Sắc cứu cánh cho đến Thủy luân thấp nhất, đều có thể đưa vào thế giới Ta-bà, như thợ gốm ngắt một khối đất nơi tay.”

quả thật, Duy-ma-cật đưa toàn bộ thế giới Diệu Hỷ đặt vào thế giới Ta-bà mà không làm lay động cả hai thế giới. Đây cũng là ý nghĩa dung thông tương nhiếp của Hoa Nghiêm. Như thế, thế giới Diệu Hỷ tức là thế giới Ta-bà và ngược lại, không có tăng giảm, không ngăn ngại. Chỉ khi tâm đổi khác thì Phật và Thánh chúng hiện tiền, không cần phải rộn ràng du lịch, đã là cõi Phật Vô Động thì tự nhiên đến cũng như đi. Một đoạn kinh này như trò chơi lý thú của bậc Bồ-tát, khiến chúng ta ngưỡng mộ thần thông của Duy-ma-cật. Nhưng đôi lúc người ở nước Mỹ, vẫn có thể đem cả làng mạc xóm giềng của Việt Nam chứa đầy ký ức, dù đi đến đâu cũng đem theo được. Với tâm vọng tưởng còn có thể làm như thế, huống chi tâm thanh tịnh, sự ảnh hiện trong suốt vô ngần.

Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: “Ông thấy thế giới Diệu Hỷ và Phật Vô Động rồi chứ?” Câu hỏi này vang vọng đến chúng ta. Xin nguyện cho mọi người đều được đất nước thanh tịnh như Phật Vô Động, được sức thần thông như Duy-ma-cật.

Sa-di Cao khi mới đến chỗ thiền sư Dược Sơn, Sư hỏi: 

- Ta nghe ở Trường An đất nước náo loạn, ngươi biết chăng?

Sa-di thưa:

- Nước con an ổn.

Sư hỏi:

- Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?

Thưa:

- Chẳng do xem kinh, cũng chẳng do thưa hỏi.

Nhận ra được cái an ổn nơi mình không phải từ bên ngoài, nên thiền sư Dược Sơn chấp nhận Sa-di này. Sư còn hỏi:

- Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?

- Chẳng phải họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận.

Ở những người không tu, vẫn có sẵn tính an ổn, chỉ vì họ không nhận ra. Đó là lời nhắc của nhà Thiền.

Lời cuối cùnglời khen ngợi của Xá-lợi-phất, cũng là chỗ tri kỷ nhận ra nhau. Ngài rất vui khi nhận ra Duy-ma-cật, để cùng bàn luận làm sáng tỏ chân lý bất động, để làm cho chúng sanh hiện tại chứng kiến được lợi ích, chúng sanh đời sau nghe nói về điều này, tìm hiểu thọ trì cũng được lợi ích.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12500)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11645)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17446)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53059)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14382)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20486)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18995)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19568)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12186)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12317)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15521)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17195)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20197)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18345)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11942)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11503)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant