Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tán Duyên Khởi

16 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6505)
Tán Duyên Khởi

TỨ PHẦN LUẬT 四分律
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. 

Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng

Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng 

TÁN DUYÊN KHỞI[1]

Cúi đầu lễ chư Phật,
Tôn Pháp, Tăng tỳ-kheo.
Nay diễn pháp Tì-ni
Để Chánh pháp trường tồn.
Ưu-ba-li đứng đầu,[2]
Và các Thân chứng[3] khác,
Nay nói yếu nghĩa giới
Các hiền đều cùng nghe.
Nay muốn nói thâm giới
Cho người ưa trì giới,
Cho người hay phúng tụng;
Lợi ích các trưởng lão.
Nay nói mười cú nghĩa
Giới pháp của chư Phật:[4]
Khiến Tăng hỷ, an lạc,[5]
Và để nhiếp thủ Tăng,[6]
Người không tín sẽ tín,
Người đã tín tăng trưởng,
Dứt trừ kẻ phá giới,
Đưa tà đạo vào chánh,[7]
Người tàm quý an ổn,
Phật pháp được lâu dài.[8]
Vì vậy, Đấng Tối Thắng
Diễn nói Kinh Cấm giới.[9]
Các núi, Tu-di hơn;
Các sông, biển là nhất;
Các Kinh trăm ngàn ức,
Giới kinh là bậc nhất.
Muốn cầu điều tối thượng
Đời này và đời sau,
Phải trì giới cấm này
Trọn đời đừng hủy phạm.
Trừ kết, không chướng ngại,
Trói buộc do đây mở.
Dùng giới tự quán sát,
Như gương soi diện mạo.
Muốn tạo các pháp lành,
Đầy đủ ba món nghiệp.
Nên xét kỹ ý mình
Như kinh La-vân nói.[10]
Sở dĩ lập ngôi Vua,
Bởi do đời tranh tụng.
Nhân dân suy cử lên,
Pháp thường đời thượng cổ.[11]
Người phạm tội biết pháp,
Thuận theo pháp thành tựu.
Giới luật cũng như vậy;
Như Vua chánh pháp trị;
Như thầy thuốc xét bệnh,
Chữa trị tuỳ theo chứng.
Trị được thì cho thuốc;
Không thể trị thì buông.
Như sách thuốc đã nói:
Bốn chứng không thể trị,
Mười ba có thể cứu.
Ngoài ra chẳng cần cứu.
Ví như có thây chết,
Biển cả không dung chứa,
Bị gió mạnh trôi dạt
Đưa nó lên trên bờ.
Các người làm ác hạnh
Cũng như thây chết kia
Đại chúng không dung chứa;
Do vậy nên trì giới.
Như giữ cửa kiên cố,
Khỏi lo mất của cải.
Nếu tường bị khoét, đổ;
Có của sẽ phải lo.
Giới Phật không khuyết, thủng;
Người phụng trì không lo.
Cấm giới không kiên cố
Người hủy phạm lo âu.
Chiếc bát sành lủng chảy,
Thợ gốm lòng sầu lo.
Nếu dụng cụ hoàn bị,
Quyến thuộc đều hoan hỉ.
Trì giới có khuyết, thủng;
Người làm ác thường lo.
Kẻ không hủy cấm giới
Tâm thường được hoan hỉ.
Như đốm lửa tuy bé;
Đừng khinh nó là nhỏ.
Nếu gặp cỏ, cây khô
Nó đốt cháy không sót.
Ác ta làm tuy nhỏ,
Cẩn thận chó xem thường.
Như rách y-la diệp[12],
Thường sinh làm thân rồng.
Như sư tử rống gầm,
Người say không biết sợ.
Thú nhỏ tiếng tuy bé,
Người tỉnh nghe vẫn sợ.
Người ba cấu[13] cũng vậy,
Tất cả ác không sợ.
Người trí việc ác nhỏ,
Thường ôm lòng lo sợ.
Như khi bào chế thuốc,
Loại bỏ thứ không tốt;
Người bệnh uống được lành,
Thân khỏe được an lạc.
Người tu giới cũng vậy;
Hay tránh các ác hành
Trừ các hoạn kết sử,
An ổn vào Niết-bàn.
Nếu muốn đi đường xa,
Phải tự bảo vệ chân.
Nếu chân bị thương tổn
Không thể đi xa được.
Cầu cõi trời, Niết-bàn;
Phương tiện thủ hộ giới.
Không hủy hoại như vậy,
Ắt vượt khỏi đường hiểm.
Như người muốn qua sông,
Dùng tay và phao nổi;
Nước sâu không sợ chìm,
Có thể đến bờ kia.
Đệ tử Phật cũng vậy,
Tu hành gốc cấm giới,
Không bị cuốn dòng tà,
Đắm chìm biển sanh tử.
Ví như cung Đế Thích[14]
Các báu khắc chạm thành,
Thềm bậc bằng thất bảo
Chỗ đi[15] của người, trời.
Điện chánh pháp[16] cũng vậy;
Bảy giác ý[17] trang nghiêm,
Cấm giới làm thềm bậc;
Chỗ đi của thánh hiền.
Như khéo học hết thảy
Các kỹ nghệ thế gian,
Sẽ được Vua sủng ái;
Do vậy được sung sướng.
Người khéo hay tu học
Cấm giới do Phật nói,
Trọn không đọa ác thú,
Thường được nơi an ổn.
Như binh mình đủ mạnh
Mới phá được binh người.
Chúng hiền thánh kiên cố
Sau đó phá quân ma.
Chúng Thánh nếu hòa hợp,
Được Thế tôn khen ngợi.
Do chúng hòa hợp vậy
Phật pháp được lậu dài.
Như sữa mẹ từ ái
Nuôi dưỡng, giữ gìn con;
Tất cả nạn nước, lửa,
Bảo vệ không xâm hại.
Cấm giới như từ mẫu
Giữ gìn người hành giả
Trọn không đọa súc sanh,
Ngạ quỷ hay địa ngục.
Như có tướng dũng mãnh
Khéo tập pháp chiến đấu,
Hàng phục kẻ địch kia,
Tử chiến không tiếc thân.
Con Phật cũng như vậy,
Khéo học các cấm giới;
Khi năm ấm tan hoại,
Trọn không sợ mạng hết.
Sinh ra từ giới Phật, 
Mới là con chân thật.
Cũng như Ương-quật-ma,[18]
Được Như lai ký biệt.
Nếu có người xả giới,
Đối Phật pháp là chết.
Trì giới như hộ mạng,
Giữ gìn không để mất.
Ví như được ấn Vua,
Đến đâu không trở ngại.
Khuyết thì bị cật vấn;
Mất hết thì bị trói.
Người toàn đủ giới-ấn
Đến đâu không trở ngại.
Hủy ít thì bất định;
Hủy nhiều vào ba ác.
Vì tất cả mọi người
Hàng phục các ma quỷ,
Nên Tiên nhân ngũ thông[19]
Sáng tác các chú thuật.
Vì người tàm quý kia
Nhiếp người không tàm quý,
Nên Như lai chế giới,
Nửa tháng thuyết một lần.
Đã thuyết ích lợi giới,
Cúi đầu lễ chư Phật.

(Đoạn kệ tụng này không phải được sáng tác khi Ca-diệp cùng Thánh chúng nghìn vị kết tập Luật. Đây căn cứ theo sở truyền riêng của mỗi bộ trong năm bộ phân trương về sau. Tức được thuyết bởi vị đứng đầu của mỗi chúng. Nay vì muốn phân biệt giải thích Luật tướng, cho nên trước tiên đọc kệ tán thán, sau đó giải thuyết.)[20] 


[1] (T22n1428, tr.567b26)

[2] Tứ phần 54, tr.968a4 «Tập pháp tì-ni ngũ bách nhân»: trong đại hội kết tập tại Vương-xá, Ưu-ba-li được chấp thuận làm thuyết trình viên về Luật tạng.

[3] Thân chứng (Skt. kāya-sākṣin, Pali: kāya-sakkhin), Câu-xá 24, tr.126a17: vị Bất-hoàn (A-na-hàm) khi chứng đắc diệt định, chuyển danh là thân chứng 得滅定不還轉名為身證.

[4] Thập cú nghĩa 十句義, xem cht. 31, ch.i sau 

[5] Hán: hỉ vĩnh an 喜永安; cú nghĩa 2&3: khiến Tăng hoan hỷan lạc.

[6] Cú nghĩa 1.

[7] Cú nghĩa 6: điều phục những ai chưa được điều phục.

[8] Trong đây không đề cập hai cú nghĩa 8 & 9: đoạn trừ hữu lậu hiện tại, đoạn trừ hữu lậu vị lai.

[9] Cấm giới kinh 禁戒經, hay Giới kinh, chỉ Ba-la-đề-mộc-xoa 波羅提木叉 (Skt. Prātimokṣa-sutra, Pali: Pāṭimokkha-sutta)

[10] Trung A-hàm 3, «14. kinh La-vân,» (T1, tr.436a-437b). Pali, M. 61. Ambalaṭṭhikā-Rāhulovāda-sutta (M.i.414-424): Phật hỏi Rāhula, cái gương để làm gì?

[11] Trường A-hàm 6, «kinh Tiểu duyên,» (T1, tr.36tt). Pali: D. 24. Agañña-suttanta (D.iii.tr. 93): Vào thời thái cổ, do tranh chấp ruộng đất, nhân dân bầu lên một người để giải quyết, gọi là vị trọng tài được bầu lên bởi đại hội (Mahāsammato-rājā; Hán dịch: Đại bình đẳng vương 大平王).

[12] Y-la diệp 伊羅葉; Skt. erapatra, hoặc elāpattra, H: hương diệp 香葉, hoắc hương diệp 藿香葉, một loại tiểu đậu khấu (Cardamon). Ở đây chỉ tên một con voi chúa, hay rồng, Pali: erakapatta. Tiền thân là Tỳ-kheo thời Phật Ca-diệp (Pali: Kassapa), bị té thuyền, vớ nhằm lá eraka. Ông chết đuối với tâm ưu uất nên tái sinh làm thân rồng. (Pháp cú truyện giải, Dh.A.iii.230-6). Theo tài liệu Hán, Phúc cái chánh hạnh sở tập kinh 11 (T32n1671): tiền thân là tỳ-kheo phạm 2 tội, ngắt lá y-la và khất thực sau giờ ngọ, do đó sinh làm thân rồng với 7 đầu trên đó mọc cây y-la.

[13] Tam cấu nhân 三垢人, ba hạng người dơ bẩn: như cái chậu rửa chân còn lưu một ít nước dơ; cái chậu đã đổ hết nước dơ, và cái chậu dơ bị lật úp. Xem, Trung A-hàm 3, «La-vân kinh,» (T1, tr.436a). Pali, M. i. 141-424. Tam cấu, cũng thường chỉ tham, sân, si.

[14] Đế Thích đường 帝釋堂. Đây chỉ Chánh pháp điện 正法殿, cũng gọi là Thiện pháp đường hay Thiện pháp giảng đường 善法講堂, Hội trường của chư thiên Tam-thập tam (Đao-lị thiên). Pali: Sudhammāsabhā. Đế Thích còn có cung điện riêng khác nữa, gọi là Tối thắng giảng đường (Pali: Vejayanta-pāsāda)

[15] Sở hành 所行, cũng thường nói là sở hành cảnh giới 所行境界, hay hành xứ 行處; Skt. (= pali) gocara, môi trường hay phạm vi nhận thức và hành động.

[16] Chánh pháp đường 正法堂, xem cht. 14 trên.

[17] Giác ý 覺意, hay giác chi 覺支, bồ-đề phần 菩提分; Pali: bojjhaṅga (Skt.bodhyaṅga).

[18] Ương-quật-ma-(la) 鴦崛魔(=摩)羅, Pali: Aṅgulimāla (Skt. Aṅgulimālya) dịch: Chỉ Man 指鬘, tên tướng cướp lừng danh thời Phật. Sau được Phật hóa độ thành tỳ-kheo và đắc quả A-la-hán. Xem Tạp A-hàm 36.16 (T2, tr.280c); Hiền ngu kinh 11 (T4, tr. 423b); Ương-quật-ma kinh (T2, tr.508b); Ương-quật-ma-la kinh (T2, tr.512b); Avadāśataka (Skt.) No.27; DhpA (Pali).i. tr.146; iii.185; Therag.vv.864-891.

[19] Hán: thần tiên ngũ thông nhân 神仙五通人.

[20] Đoạn phụ chú của vị truyền luật. Không thuộc chính văn của Luật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19623)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23893)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41130)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19640)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23903)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21696)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23241)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27439)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26483)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29241)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33092)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20142)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25696)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20854)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31198)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38451)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21358)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44167)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29757)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42068)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22093)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45633)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32039)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23886)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24290)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29174)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33839)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27622)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32044)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20988)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28801)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21497)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27959)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22012)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21377)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19443)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19384)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19769)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19184)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29083)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20558)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28213)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23583)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33084)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31764)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21335)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39549)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21495)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19316)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26246)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24753)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21714)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22318)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29067)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22507)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20436)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23436)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21177)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35204)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24511)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant