TỨ
PHẦN LUẬT 四分律
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm.
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng
Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
PHẦN HAI
THUYẾT MINH GIÁO PHÁP TỲ-KHEO-NI
CHƯƠNG V
BA-LA-ĐỀ ĐỀ-XÁ-NI[1]
ĐIỀU 1
A.
DUYÊN KHỞIMột thời, đức Bà-già-bà ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo-ni xin váng sữa[2] để ăn. Các
cư sĩ thấy, cơ hiềm, nói: «Tỳ-kheo nầy không biết
hổ thẹn,
cầu xin không
nhàm chán. Bên ngoài tự xưng là tôi biết
chánh pháp. Nhưng Như vậy có gì là chánh pháp? Xin ván sữa để ăn, như bọn tặc nữ
dâm nữ không khác!»
Các tỳ-kheo-ni nghe, trong đó có vị
thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu-đà, ưa
học giới, biết
hổ thẹn,
quở trách nhóm sáu tỳ-kheo-ni: «Sao các cô lại xin váng sữa để ăn ?»
Quở trách rồi, tỳ-kheo-ni
thiểu dục liền bạch với các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo đến bạch lên
đức Thế tôn.
Đức Thế tôn dùng
nhơn duyên nầy tập hợp Tăng tỳ-kheo,
quở trách nhóm sáu tỳ-kheo-ni:
«Các cô làm điều
sai trái, chẳng phải
oai nghi, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải
tịnh hạnh, chẳng phải hạnh
tùy thuận, làm điều không nên làm. Tại sao tỳ-kheo-ni lại xin váng sữa để ăn?»
Dùng
vô số phương tiện quở trách rồi,
đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Các tỳ-kheo-ni nầy là nơi trồng nhiều giống
hữu lậu, là những người đầu tiên
phạm giới nầy. Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo-ni
kiết giới, gồm mười
cú nghĩa,
cho đến câu
chánh pháp cửu trụ.»
Muốn nói giới nên nói
như vầy:
Tỳ-kheo-ni nào, xin váng sữa để ăn,
phạm pháp đáng chê trách phải
sám hối. Nên đến các tỳ-kheo-ni khác nói: ‹Thưa
đại tỉ, tôi
phạm pháp đáng chê trách, làm điều không nên làm. Nay đến
đại tỉ xin
sám hối.[3]› Đây gọi là pháp
hối quá.
Thế tôn vì các tỳ-kheo-ni
kiết giới như vậy rồi, có vị nghi, không dám vì người bệnh xin, chính mình bệnh cũng không dám xin, người khác vì mình xin cũng không dám dùng.
Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau
cho phép, mình bệnh được xin, vì người bệnh được xin, người khác vì mình xin được dùng.»
Từ nay nên nói giới
như vầy:
Tỳ-kheo-ni nào, không bệnh mà xin váng sữa để ăn,
phạm pháp đáng chê trách phải
sám hối. Nên đến các tỳ-kheo-ni khác nói: ‹Thưa
đại tỉ, tôi
phạm pháp đáng chê trách, làm điều không nên làm. Nay tôi đến
đại tỉ sám hối.› Gọi là pháp
hối quá.
B.
GIỚI TƯỚNGTỳ-kheo-ni: nghĩa như trên.
Tỳ-kheo-ni nào, không bệnh mà xin váng sữa để ăn, một miếng nuốt là một
ba-la-đề đề-xá-ni.
Tỳ-kheo, đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.
Sự không phạm: Vì mình có bệnh, vì người bệnh mà xin, hoặc người khác vì mình xin, hay mình vì người khác xin, hoặc không xin mà được. Thảy đều không phạm.
Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa
chế giới; si cuồng,
loạn tâm, thống não,
bức bách.
ĐIỀU 2 - ĐIỀU 8
2. Xin dầu, 3. Xin mật, 4. Xin đường mía, 5. Xin sữa, 6. Xin sữa đặc, 7. Xin cá, 8. Xin thịt; cũng như xin váng sữa không khác.[4]
Bốn giới trên của tỳ-kheo, thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Bốn giới dưới, tỳ-kheo ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la.
Chúng học giới, cùng
đại Tăng không khác. Nên không chép ra.[5]
[1] Bản Hán không ghi chương. Chỉ ghi chú nhỏ ở cuối thiên ba-dật đề: «Đã nói xong 178 pháp ba-dật-đề.» Bản Việt đặt thành chương riêng biệt để thống
nhất hình thức với
luật tỳ kheo. Thiên này có 8 điều, tất cả đều biệt giới.
Ngũ phần 14 (T22n1421, tr.100a16), phần ii, thiên thứ 5, «Ni luật
hối quá pháp,» 8 pháp
ba-la-đề đề-xá-ni.
Tăng kỳ 40 (T22n1425, tr.544a08):
tám pháp đề-xá-ni. Thập tụng 47 (T23n1435, tr.345a23).
Căn bản ni 20 (T23n1443, tr.1016a27): «Đệ
tứ bộ ba-la-đề đề-xá-ni pháp.» Pali, Vin.iv. 346, Bhikkhunīvibhaṅga, «5. Pāṭidesanīyakaṃ.»
[2] Hán: tô 酥. Pali: sappi, thục tô, tô nhũ, hay
đề hồ.
Giải thích:
các loại tô làm từ sữa bò, sữa sơn dương, hay sữa trâu.
[3] Pali: gārayhaṃ dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ,
phạm pháp đáng bị
chê trách, không
thích đáng,
cần phải phát lồ.
[4] Xin 8 thứ,
Tứ phần,
Ngũ phần,
Tăng kỳ: tô, du, mật,
thạch mật, nhũ, lạc, ngư, nhục 酥油蜜黑石蜜乳酪魚肉. Thập tụng: nhũ, lạc sanh tô, thục tô, du, ngư, nhục bô 乳酪生酥 熟酥油魚肉脯. Pali: sappi, dadhi, tela, madhu, phāṇita, maccha, maṃsa, khīra.
[5] Hết quyển 30.