Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 4. Thất Bách Kết Tập

16 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5714)
Chương 4. Thất Bách Kết Tập

TỨ PHẦN LUẬT 四分律
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. 
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng
Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng

PHẦN THỨ TƯ
 PHẦN TẠP PHÁP

CHƯƠNG IV.
THẤT BÁCH KẾT TẬP

 [968c19] Sau khi đức Thế Tôn Bát-niết bàn một trăm năm, tại Tỳ-xá-ly, các tỳ-kheo người Bạt-xà[1] thi hành mười việc, nói là pháp thanh tịnh, được đức Phật cho phép: được phép hai ngón tay lấy thức ăn, được phép giữa xóm làng, được phép trong chùa, được phép về sau hứa khả, được phép thường pháp, được hòa, được phép muối ngủ chung, được phép uống rượu xà-lâu-la, được phép chứa ngọa cụ không cắt rọc, được nhận vàng bạc.[2] Ngày bố-tát, đàn-việt cúng vàng bạc, họ chia cho nhau.

Bấy giờ, có Da-xá Già-na Tử[3] nghe tỳ-kheo Tỳ-xá-ly làm việc như vậy, liền đến chỗ tỳ-kheo người Bạt-xà, thì thấy họ khuyên đàn-việt khi bố-tát cúng dường vàng bạc cho chúng Tăng. Giữa Tăng, họ xướng, chia phần cho tỳ-kheo Già-na Tử. Tỳ-kheo liền nói:

«Tôi không nhận.»

«Tai sao vậy?»

«Sa-môn Thích tử không được thọ nhận và cất giữ vàng bạc. Sa-môn Thích tử xả bỏ châu báu, không đắm nơi sự trang sức đẹp.»

Vào một ngày khác, họ phân chia xong, mang đến cho tỳ-kheo [969a1] Già-na Tử. Già-na Tử nói:

«Tôi không cần. Trước đây tôi đã nói Sa-môn Thích tử xả bỏ châu báu, không đắm vào sự trang sức đẹp đẽ

Họ liền nói:

«Ưu-bà-tắc nơi Tỳ-xá-ly giận. Thầy đến giáo hóa khiến cho họ hoan hỷ

Rồi sai người cùng đi. Tỳ-kheo Da-xá Già-na Tử đến Tỳ-xá-ly, chỗ ưu-bà-tắc, nói:

«Thật sự các người giận lời nói của tôi phải không? Tôi nói: Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc, xả bỏ trân bảo, không đắm vào việc trang sức đẹp đẽ. Này, ưu-bà-tắc, khi đức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá, bấy giờ trong cung, quần thần của Vua, tập họp nói Sa-môn Thích tử được nhận vàng bạc, không xả bỏ châu báu, say đắm vào việc trang sức cho đẹp. Bấy giờ, trong nhóm quần thần kia có đại trưởng giả Châu Kế[4] nói với các đại thần rằng: ‘Không được nói Sa-môn Thích tử được nhận lấy vàng bạc, không xả bỏ châu báu, đắm say vào việc trang sức cho đẹp. Tại sao vậy? Vì Sa-môn Thích tử không những không được phép nhận vàng bạc, mà còn xả bỏ châu báu, không đắm say vào việc trang sức đẹp.’ Bấy giờ, trưởng giả Châu Kế vì các đại thần giải thích nói rõ ràng, khiến họ hiểu và hoan hỷ. Sau đó, một thời gian Trưởng giả Châu Kế đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem nhân duyên trước kia bạch lên đức Thế Tôn một cách đầy đủ, rồi thưa: ‘Con giải thích rõ ràng, khiến họ hoan hỷ. Bạch đức Thế Tôn, con nói như vậy có trái với Thánh chỉ, không như pháp đã dạy sao?’ Đức Phật dạy ông trưởng giả: ‘Như lời ông nói là đúng pháp, đúng sự thật, không trái với giáo pháp đức Thế Tôn. Tại sao vậy? Vì Sa-môn Thích tử không được phép nhận lấy vàng bạc; xả bỏ châu báu, không đắm vào việc trang sức cho đẹp. Người nào nhận lấy vàng bạc tức là thụ hưởng ngũ dục. Thọ ngũ dục thì không phải Sa-môn Thích tử. Này ông Trưởng giả! Nếu thấy Sa-môn Thích tử nào cầm nắm vàng bạc, quyết định người ấy không phải là sa-môn Thích tử. Ta có nói, cho phép, ai cần tre, lau, cỏ, cây, được phép cầu xin; nhưng không bao giờ được phép tự mình nhận lấy vàng bạc.’[5] Này Lê-xa, vì nhân duyên trên nên sa-môn Thích tử không được phép nhận lấy vàng bạc, xả bỏ châu báu, không đắm say vào việc trang sức cho đẹp.

«Này Lê-xa, lại có một hôm, khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ-hoàn. Ngài bảo các tỳ-kheo, có bốn trường hợp khiến cho mặt trời, mặt trăng không sáng tỏ, đó là A-tu-la, khói mây, sương và bụi. Bốn trường hợp này khiến cho mặt trời mặt trăng không sáng tỏ. Sa-môn Bà-la-môn cũng có bốn việc ô nhiễm bụi bẩn khiến cho sa-môn bà-la-môn không chói sáng. Đó là, nếu sa-môn bà-la-môn nào không thể trừ bỏ việc uống rượu, thì đây là bụi bẩn thứ nhất; hoặc có sa-môn bà-la-môn nào làm pháp ái dục, không thể xả ly, thì đây là bụi bẩn thứ hai; hoặc có sa-môn bà-la-môn nào nhận lấy vàng bạc, không xả bỏ sự trang sức cho tốt đẹp, thì đây là bụi bẩn thứ ba; hay có sa-môn, bà-la-môn nào dùng tà mạng để nuôi sống, không thể đoạn trừ, thì đây là bụi bẩn thứ tư, đó gọi là bốn việc. Vì bốn việc này cho nên khiến sa-môn bà-la-môn ô uế không sáng tỏ, không có sự sáng chói. Đức Thế Tôn nói kệ:

Sa-môn, bà-la-môn

Bị bẩn bởi tham dục,

Bị ngu si che lấp

Ái trước nơi sắc đẹp.

Uống rượu, tâm tán loạn;

Rồi làm pháp ái dục;

Nhận lấy vật quý báu;

Đây là kẻ vô trí.

Sa-môn bà-la-môn

Nuôi sống bằng tà mạng.

Phật nói đây là xấu.

Như mặt trời bị che,

Ánh sáng không chiếu soi,

Ô uế không tinh sạch.

Bị che bởi bóng tối,

Người bị ái dục sai,

Tạo ác, không thiện nghiệp,

Người si đâu hành đạo?

Oán tắng lại càng thêm

Lại thọ thân đời sau.

«Này Ly-xa, vì những nhân duyên như vậy, các ông nên biết, Sa-môn Thích tử không được thọ nhận vàng bạc, trừ bỏ sự trang sức. Các ông không tin lời nói của tôi hay sao?»

Ly-xa nói:

«Không phải tôi không tin. Tôi rất kính tín đối với Ngài. Ngài có thể cư trú tại Tỳ-xá-ly này. Chúng tôi sẽ cung cấp y phục ẩm thực y dược, và tất cả thứ cần dùng

Bấy giờ, tỳ-kheo Già-na tử vì các Ly-xa giải bày khiến họ được hoan hỷ rồi, cùng tỳ-kheo sứ giả kia trở về chỗ tỳ-kheo Bà-xà Tử.[6] Từ xa thấy tỳ-kheo Già-na Tử đến, Bà-xà Tử liền hỏi tỳ-kheo sứ giả rằng:

«Tỳ-kheo Già-na Tử đã giải thích khuyến dụ các Ly-xa khiến họ tin tưởng rồi phải không?»

Tỳ-kheo sứ giả trả lời:

«Vâng. Họ đã kính tín Già-na Tử. Chúng ta chẳng phải Sa-môn Thích tử

Tỳ-kheo Bà-xà Tử hỏi:

«Tại sao vậy?»

Sứ giả liền đem nhân duyên trước trình bày đầy đủ. Tỳ-kheo Tỳ-xá-ly nói với tỳ-kheo Già-na tử rằng:

«Trước đây Thầy mắng chửi chúng Tăng. Thầy có thấy tội hay chăng?»

Già-na Tử trả lời:

«Tôi không mắng chửi chúng Tăng

Vị kia liền tập chúng để cử tội.

Tỳ-kheo Già-na Tử liền nghĩ: «Tránh sự này nếu được Trưởng lão Ly-bà-đa[7] trợ bạn ta thì có thể chấm dứt như pháp

Già-na tử liền hỏi thăm người khác để biết Ly-bà-đa hiện ở đâu. Người được hỏi trả lời: «Nghe nói ở bên bờ sông Bà-kha.»[8] Già-na Tử liền đến bên Sông Bà-kha. Ly-bà-đa lúc ấy không có ở đó. Già-na Tử hỏi: «Ly-bà-đa hiện ở đâu?» Người ở tại đó trả lời: «Nghe nói hiện ở nước Già-na-ủy-xà.[9] Già-na Tử liền đến nước đó, nhưng cũng không gặp Ly-bà-đa. Hỏi, được biết Ly-bà-đa hiện ở tại nước A-già-lâu-la.[10] Già-na Tử đến nước đó, lại cũng không có Ly-bà-đa, và hỏi tiếp được biết Ly-bà-đa hiện ở nước Tăng-già-xa.[11] Già-na tử liền đến đó, gặp được Ly-bà-đa hiện đang ở tại đó.

Bấy giờ, chúng đang tập hợp, Già-na Tử hỏi vị đệ tử thị giả của Ly-bà-đa rằng:

«Đại đức Trưởng lão Ly-bà-đa của Thầy có đến trong chúng không?»

Vị thị giả trả lời:

«Ngài sẽ đến.»

Khi ấy, Ly-bà-đa đến thuyết pháp cho chúng nghe xong, quá nữa đêm, cầm ni-sư-đàn trở về lại thất.

Khi ấy, Da-xá Già-na Tử cũng ở trong chúng nghe pháp rồi, quá nửa đêm cầm ni-sư-đàn đến chỗ Ly-bà-đa, nghĩ rằng: «Bây giờ là thời gian thích hợp. Ta sẽ trình bày đầy đủ nhân duyên để Ly-bà-đa nghe.»

Già-na tử liền hỏi Ly-bà-đa:

«Kính thưa Đại đức Thượng tọa, được phép hai ngón tay lấy thức ăn[12] hay không?»

Ly-bà-đa hỏi lại:

«Hai ngón tay lấy thức ăn, là thế nào?»

Già-na Tử thưa:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, ăn đủ rồi, xả oai nghi, không làm pháp dư thực, được dùng hai ngón tay lấy thức ăn để ăn không?»

Ly-bà-đa nói:

«Không được làm như vậy.»

Già-na tử hỏi:

«Điều này đức Phật chế cấm tại chỗ nào?»[13]

Ly-bà-đa trả lời:

«Tại nước Xá-vệ. Nhơn có vị không làm phép dư thực mà ăn, cho nên Phật chế cấm. Già-na Tử lại hỏi:

«Thưa Đại đức Trưởng lão, được giữa xóm làng[14] hay không?»

Ly-bà-đa hỏi lại:

«Được giữa xóm làng, là thế nào?»

Già-na Tử nói:

«Thưa Đại đức Trưởng lão, ăn đủ rồi, xả oai nghi, không làm pháp dư thực, đi đến khoảng giữa hai thôn, được ăn.»

Ly-bà-đa nói:

«Không được làm như vậy.»

Già-na Tử hỏi:

«Điều này đức Phật chế cấm ở chỗ nào?»

«Tại nước Xá-vệ. Nhơn có vị không làm pháp dư thực mà ăn, cho nên đức Phật chế cấm.»

Già-na Tử hỏi:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, được trong chùa[15] hay không?»

Ly-bà-đa hỏi:

«Được trong chùa, là thế nào?»

Già-na Tử trả lời:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, nghĩa là ở trong chùa được biệt chúng yết-ma.»

Ly-bà-đa nói:

«Không [970a1] được làm như vậy.»

Già-na Tử hỏi:

«Đức Phật chế cấm điều này ở đâu?»

«Tại thành Vương xá. Chế cấm trong Kiền độ Bố-tát.»

Già-na Tử hỏi:

«Kính Đại đức Trưởng lão, được phép hứa khả sau[16] hay không?»

Ly-bà-đa hỏi lại:

«Thế nào là được phép hứa khả sau?»

Già-na Tử thưa:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, tại nội giới, được phép biệt chúng yết-ma nếu sau đó được hứa khả

Ly-bà-đa nói:

«Không được làm như vậy.»

Già-na Tử hỏi:

«Điều này đức Phật chế cấm ở chỗ nào?»

«Tại Thành Vương xá. Cấm chế thuộc trong Kiền độ Bố-tát.»

Già-na Tử lại hỏi:

«Được thường pháp[17] hay không?»

Ly-bà-đa lại hỏi:

«Thế nào gọi là được thường pháp?»

Già-na Tử thưa:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, việc này làm như vậy rồi, nói như vậy, xưa nay làm như vậy.»

Ly-bà-đa nói:

«Tỳ-kheo biết chăng? Nên quán sát Tu-đa-la, Tỳ-ni, nghiệm xét Pháp Luật. Nếu không quán sát Tỳ ni không nghiệm xét Pháp Luật, mà trái nghịch Pháp thì, nếu đã làm không nên làm, chưa làm cũng không nên làm. Nếu quán sát Tu-đa-la, Tỳ-ni, kiểm xét Pháp Luật, cùng Tu-đa-la mà cùng pháp luật tương ưng, không trái với pháp sẵn có, thì những điều đã làm hay chưa làm đều nên làm.»

Già-na tử hỏi:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, được hòa[18] hay không?»

Ly-bà-đa hỏi:

«Thế nào là được hòa?»

«Bạch Đại đức Trưởng lão, ăn đủ rồi, xả oai nghi, dùng tô du, mật, sanh tô, thạch mật, tô, hòa chung lại, được ăn không?»

Ly-bà-đa nói:

«Không được làm như vậy.»

Già-na Tử lại hỏi:

«Điều này được đức Phật chế cấm ở đâu?»

«Tại nước Xá-vệ. Nhơn có vị không tác pháp dư thực mà ăn, nên Phật đã chế cấm.»

Già-na tử lại hỏi:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, muối ngủ chung[19] được phép không?»

Ly-bà-đa hỏi lại:

«Muối ngủ chung được phép, là thế nào?»

«Bạch Đại đức Trưởng lão, dùng muối ngủ chung nêm trong thức ăn rồi ăn.»

Ly-bà-đa nói:

«Không được làm như vậy.»

Già-na Tử hỏi:

«Điều này được đức Phật chế ở đâu?»

«Tại nước Xá-vệ. Trong Kiền độ Dược đã chế cấm.»

Già-na Tử lại hỏi:

«Bạch Trưởng lão Đại đức, được uống ruợu xà-lâu-la[20] hay không?»

Ly-bà-đa nói:

«Không được uống như vậy.»

Già-na Tử hỏi:

«Điều này được đức Phật chế cấm ở đâu?»

«Tại nước Câu-thiểm-di. Vì Trưởng lão tỳ-kheo Sa-già-đà[21] nên Phật đã chế cấm.»

Già-na Tử lại hỏi:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, được phép cất chứa tọa cụ không cắt rọc[22] hay không?»

Ly-bà-đa nói:

«Không được cất chứa như vậy.»

Già-na tử hỏi:

«Điều này đức Phật chế cấm tại chỗ nào?»

«Tại nước Xá-vệ. Vì Nhóm sáu tỳ-kheo nên chế cấm.»

Già-na Tử lại hỏi:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, được phép nhận vàng bạc[23] hay không?»

Ly-bà-đa nói:

«Không được thọ nhận như vậy.»

Già-na Tử hỏi:

«Điều này được đức Phật chế cấm ở đâu?»

«Tại thành Vương-xá, vì Bạt-nan-đà Thích Tử nên đã chế cấm.»

Già-na tử thưa:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, tại Tỳ-xá-ly, tỳ-kheo Bà-xà Tử thi hành mười điều này mà nói là như pháp thanh tịnh, là Phật cho phép. Ngày bố-tát họ khuyến khích đàn-việt cúng dường vàng bạc cho chúng Tăng, rồi sai người phân chia

Ly-bà-đa nói:

«Thầy đừng nói với người khác.»

«Tại sao vậy?»

«Sợ các tỳ-kheo chỗ hiểu biết không đồng nhau, đưa đến tỳ-kheo không hòa hợp. Tỳ-kheo, Thầy có thể đến trong núi A-vu-hằng hà,[24] nơi đó có tỳ-kheo Tam-phù-đà[25] là đồng Hoà thượng với tôi, cùng với sáu mươi tỳ-kheo Ba-la-ly Tử[26] chung sống. Các vị ấy đều là những người dũng mãnh tinh tấn, không hề có sự sợ sệt. Thầy đem nhân duyên ấy trình bày đầy đủ với các vị ấy đó, rồi cùng hẹn đến bên bờ sông Bà-kha, tôi cũng sẽ đến đó.»

Khi ấy tỳ-kheo Da-xá Già-na Tử liền đến núi kia, chỗ ở của Tam-phù-đà và đem nhân duyên ấy trình bày đầy đủ với các vị ấy, và hẹn đến bờ sông Bà-kha, sẽ gặp Đại đức Ly-bà-đa cũng đến đó.

Bấy giờ, tỳ-kheo Bà-xà Tử ở Tỳ-xá-ly nghe tỳ-kheo Da-xá Già-na Tử đi các nơi tìm trợ bạn, liền đem chiếc y tốt nhất ở Tỳ-xá-ly đến chỗ người đệ tử của Ly-bà-đa nói:

«Tôi đem chiếc y tốt nhất này đến đây để cúng cho Đại đức Ly-bà-đa. Nhưng thôi, nay không cúng nữa mà xin cúng cho Thầy. Thầy nhận cho.»

Vị đệ tử của Ly-bà-đa nói:

«Thôi! thôi! Tôi không nhận.»

Tỳ-kheo Bà-xà Tử ân cần khuyên, có tánh cách bắt ép khiến cho vị kia nhận. Khi vị kia nhận rồi Bà-xà Tử nói:

«Thưa Trưởng lão, tỳ-kheo hai nước Ba-di-na[27] và Ba-lê[28] cùng nhau tranh cãi. Đức Thế Tôn xuất thế tại Ba-di-na. Lành thay! Trưởng lão bạch giùm tôi lên Đại đức Thượng tọa rằng, ‘tỳ-kheo hai nước Ba-di-na và Ba-lê cùng nhau tranh cãi. Đức Thế Tôn xuất thế tại Ba-di-na. Lành thay! Đại đức hãy trợ tỳ-kheo Ba-di-na.»

Vị kia liền trả lời:

«Đại đức Trưởng lão Ly-bà-đa được nhiều người tôn kính. Tôi không dám thưa.»

Vị kia bị cưỡng bức quá, liền đến chỗ Ly-bà-đa bạch:

«Kính bạch Đại đức, tỳ-kheo hai nước Ba-di-na và Ba-lê cùng nhau tranh cãi. Đức Thế Tôn xuất thế tại Ba-di-na. Nguyện xin Đại đức hãy trợ tỳ-kheo Ba-di-na.»

Ly-bà-đa liền trả lời:

«Ngươi ngu si, muốn kéo ta vào trong bộ chúng bất tịnh chăng? Ngươi hãy đi! Ta không cần ngươi.»

Vị kia bị đuổi rồi liền đến Tỳ-xá-ly, chỗ tỳ-kheo Bà-xà Tử thưa:

«Trưởng lão, trước đây tôi nói với Thầy, Đại đức Ly-bà-đa được nhiều người tôn kính. Tôi không dám nói. Nay tôi bị khiển trách.»

Vị kia hỏi, bị khiển trách thế nào?

«Ngài khiển trách, đuổi tôi đi.»

Vị kia lại hỏi:

«Thầy bao nhiêu hạ?»

«Tôi mười hai hạ.»

«Thầy đã mười hai hạ mà còn sợ bị đuổi hay sao?»

«Ngài ấy không chịu tôi làm thị giả, làm sao không sợ?»

Bấy giờ, Ly-bà-đa cùng các tỳ-kheo nói:

«Nay chúng ta hãy đến ngay chỗ đã phát sinh tránh sự.»

Các vị ấy đi bằng thuyền theo sông Hằng đến đó. Gặp lúc trời nóng, mệt mỏi, nên ghé thuyền vào bờ để nghỉ khỏe nơi bóng mát.

Lúc ấy, tại thôn Bà-sưu[29] có Trưởng lão đang trên đường đi, suy nghĩ: «Trong việc tranh cãi này, nay ta nên xem xét Tu-đa-la, Tỳ-ni để biết ai là pháp ngữ, ai là phi pháp ngữ.» Vị kia liền xem xét Tu-đa-la, Tỳ-ni; nghiệm xét Pháp Luật, nên biết tỳ-kheo nước Ba-lê là pháp ngữ; tỳ-kheo bước Ba-di-na là phi pháp ngữ.

Bấy giờ, có vị trời không hiện hình, khen ngợi:

«Lành thay, thiện nam tử, như người quan sát biết tỳ-kheo Ba-lê là như pháp ngữ, tỳ-kheo Ba-di-na là phi pháp ngữ.»

Bấy giờ, các Trưởng lão liền cùng nhau đến Tỳ-xá-ly. Tại Tỳ-xá-ly có Trưởng lão là Nhứt Thiết Khứ[30] là bậc tối thượng tọa trong Diêm-phù-đề. Khi ấy, Tam-phù-đà nói với Ly-bà-đa rằng:

«Nay, ta nên đến trong thất thượng tọa Nhất Thiết Khứ nghỉ đêm, để nói việc này cho Thương tọa nghe.»

Hai người cùng đến đó. Ban đêm Trưởng lão Nhất Thiết Khứ tọa thiền tư duy đã trải qua một thời gian lâu, Ly-bà-đa suy nghĩ: «Thượng tọa này, tuổi đã già, khí lực suy yếu, mà còn tọa thiền lâu thế này huống là ta, tại sao không ngồi như vậy?» Ly-bà-đa liền cũng ngồi tư duy trong một thời gian lâu. Trưởng lão Nhất Thiết Khứ lại nghĩ: «tỳ-kheo khách này đi đường xa mỏi mệt còn tọa thiền tư duy như thế này, huống là ta mà không ngồi lâu.» Vì vậy Trưởng lão kia lại ngồi tư duy một thời gian lâu nữa. Khi trời đã sáng hẳn, Trưởng lão Nhất Thiết Khứ nói với Ly-bà-đa rằng:

«Thưa Trưởng lão, đêm nay ngài tư duy pháp gì?»

Ly-bà-đa trả lời:

«Trườc kia tôi còn là bạch y, thường tập từ tâm. Đêm nay tôi tư duy và nhập vào tam muội từ.»

Vị kia liền nói:

«Như vậy là đêm nay ngài nhập tiểu định

«Tại sao vậy?»

«Từ tâm tam muộitiểu định

Ly-bà-đa hỏi lại Đại đức Nhất Thiết Khứ:

«Đêm nay Ngài tư duy pháp gì?»

Nhất Thiết Khứ nói:

«Trước đây, khi tôi còn là bạch y, tập pháp Không. Đêm nay phần nhiều tôi nhập vào tam muội Không.»

Ly-bà-đa nói:

«Như Thế là đêm nay Đại đức tư duy pháp đại nhơn.»

«Tại sao vậy?»

«Pháp đại nhơn là nhập tam muội Không. »

Ly-bà-đa liền nghĩ:

«Bây giờ, chính là lúc ta có thể đem nhân duyên trước đây nói cho Đại đức Nhất Thiết Khứ biết.»

Vị kia hỏi:

«Kính thưa Đại đức Trưởng lão, được phép dùng hai ngón tay để lấy thức ăn hay không?»

«Thế nào là dùng hai ngón tay lấy thức ăn?»

«Thưa Đại đức, ăn đủ rồi, [971a1] xả oai nghi, không làm pháp dư thực, được phép dùng hai ngón tay để lấy thức ăn?»

Đáp:

«Không được làm như vậy.»

«Điều này được đức Phật chế chỗ nào?»

«Tại nước Xá-vệ. Nhơn có vị không làm pháp dư thực mà ăn nên đức Phật đã chế cấm.»

Trình bày từng điều một như trên, cho đến ngày bố-tát thọ nhận vàng bạc rồi sai người phân chia, như trên.

Vị kia liền nói:

«Đừng nên nói với người khác. Sợ nhơn tâm không đồng, đưa đến việc không hòa hợp

Thượng tọa Nhất Thiết Khứ là đệ nhất Thượng tọa. Tam-phù-đà là đệ nhị Thượng tọa. Ly-bà-đa là đệ tam Thượng tọa. Bà-sưu Thôn là đệ tứ Thượng tọa. Tôn giả A-nan là Hòa thượng của các vị ấy đó.

Trưởng lão Nhất Thiết Khứ là người hiểu biết Tăng sự, nên bấy giờ Thượng tọa liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng luận Pháp Tỳ ni. Đây là lời tác bạch

Khi ấy, tỳ-kheo Ba-di-na nói tỳ-kheo Ba Lê rằng:

«Các Thầy có thể mời người bình đáng.[31]»

Tỳ-kheo Ba Lê liền nói:

«Thượng tọa Nhất Thiết Khứ, Ly-bà-đa, Da-xá, Tô-mạn-na[32] là người bình đáng của chúng tôi

Tỳ-kheo Ba-lê nói với tỳ-kheo Ba-di-na rằng:

«Các Thầy cũng nên mời người bình đáng.»

Tỳ-kheo kia liền nói:

«Trưởng lão Tam-phù-đà, Ba-sưu Thôn, Trưởng lão Sa-lưu,[33] Bất-xà-tô-ma[34] là người bình đáng của chúng tôi

Trong số đó có tỳ-kheo A-di-đầu[35] có khả năng làm người khuyến hoá.[36] Các tỳ-kheo kia nói:

«Nên ghi tên tỳ-kheo này vào trong túc số. Tại sao vậy? Ở tại chỗ này, vị kia khuyến hóa cho chung ta.»

Do vậy, vị kia được ghi vào túc số.

Các Thượng tọa liền nghĩ: «Nếu chúng ta hỏi sự việc này ở trong chúng thì sợ sanh ra tránh sự khác, không biết ai nói đúng, ai nói sai. Nay, chúng ta nên lựa chọn, rồi bình luận nơi chỗ riêng biệt.» Rồi các Trưởng lão lại nghĩ, «Chúng ta nên bình luận sự việc nơi nào cho thích hợp?» Bèn nói, «Trong rừng Bà-lê[37].»

Bấy giờ, Trưởng lão Nhất Thiết Khứ liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Đây là tỳ-kheo đã được Tăng cử. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận trong rừng Bà-lê, luận Pháp Tỳ ni. Các tỳ-kheo khác không được có mặt. Đây là lời tác bạch

Tác bạch như vậy rồi nên yết-ma, sai hai, ba tỳ-kheo lấy dục của các tỳ-kheo khác đến trong rừng Bà-lê.

Khi ấy, Thượng tọa Nhất Thiết Khứ dùng nhơn duyên này tập hợp tỳ-kheo Tăng. Các Thượng tọa đều tập hợp. Thượng tọa Nhất Thiết Khứ liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng luận Pháp Tỳ ni. Đây là lời tác bạch

Khi ấy, Ly-bà-đa liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng hỏi Thượng tọa Nhất Thiết Khứ Pháp Tỳ ni. Đây là lời tác bạch

Thượng tọa Nhất Thiết Khứ lại liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng khiến Ly-bà-đa hỏi, tôi trả lời Pháp Tỳ ni. Đây là lời tác bạch

Ly-bà-đa hỏi:

«Thưa Đại đức Thượng tọa, được dùng hai ngón tay tịnh hay không?»

Vị được hỏi liền hỏi lại:

«Hai ngón tay tịnh là thế nào?»

«Thưa đại Trưởng lão, ăn đủ rồi, xả oai nghi, được dùng hai ngón tay lấy thức ăn để ăn?»

Vị được hỏi trả lời:

«Không được làm như vậy.»

«Điều này được đức Phật chế cấm ở đâu?»

«Tại nước Xá-vệ. Vì có vị không tác pháp dư thực mà ăn, cho nên Phật đã chế cấm.»

Đây là việc thứ nhất phi pháp, phi tỳ ni, phi lời Phật dạy.

Sau khi đồng thuận nơi chỗ riêng rồi, liền bỏ xuống một xá-la. Kiểm xét như vậy từng việc một, cho đến việc thứ mười, tất cả đều là phi pháp, phi tỳ-ni, phi lời Phật dạy. Cứ một việc như vậy là bỏ xuống một xá-la. Rồi các Trưởng lão kia nói như vầy:

«Nay chúng ta đã đồng thuận nơi chỗ riêng biệt mười việc này rồi, bây giờ chúng ta ở giữa Tăng kiểm nghiệm như vậy. Vì sao? Để mọi người đều được biết.»

Các Trưởng lão đều đến Tỳ-xá-ly.

Thượng tọa Nhất Thiết Khứ tập hợp tỳ-kheo Tăng rồi tác bạch:

«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng luận Pháp Tỳ ni. Đây là lời tác bạch

Trưởng lão Ly-bà-đa liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng hỏi Thượng tọa Nhất Thiết Khứ pháp này. Đây là lời tác bạch

Khi ấy, thượng tọa Nhất Thiết Khứ liền tác bạch:

«Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng khiến Ly-bà-đa hỏi Pháp Tỳ ni, tôi trả lời. Đây là lời tác bạch

Ly-bà-đa liền hỏi:

«Bạch Đại đức Trưởng lão, dùng hai ngón tay, tịnh hay không?»

Nhất Thiết Khứ hỏi lại:

«Hai ngón tay tịnh, là thế nào?»

«Thưa Đại đức Trưởng lão, ăn đủ rồi, xả oai nghi, không làm pháp dư thực, dùng hai ngón tay lấy thức ăn để ăn.»

Thương tọa Nhất Thiết Khứ nói:

«Không được làm như vậy.»

«Điều này được đức Phật chế cấm ở đâu?»

«Tại nước Xá-vệ. Nhơn có vị không làm pháp dư thực mà ăn nên Phật đã chế cấm.»

Đây là việc thứ nhất phi pháp, phi tỳ-ni, phi lời Phật dạy.

Kiểm nghiệm giữa Tăng xong, bỏ xuống một xá-la. Như vậy tuần tự kiểm xét cho đến việc thứ mười, tất cả đều phi pháp, phi tỳ-ni, phi lời Phật dạy.

Mỗi việc kiểm nghiệm giữa Tăng xong, đều bỏ xuống một xá-la. Tại Tỳ-xá-ly, bảy trăm vị A-la-hán tập hợp để luận Pháp Tỳ-ni, cho nên gọi là «Thất bách tập Pháp Tỳ ni.»


[1] Bạt-xà Tử, xem cht. trên.

[2] So sánh 10 điều của Pali, Vin.ii. 294. Xem giải thích ở đoạn sau.

[3] Da-xá ca-na Tử 耶舍迦那子. Pali: Yasa-Kākaṇḍakaputta, đệ tử của A-nan.

[4] Châu Kế 珠髻. Xem, Phần I Ch, v. Ba dật đề 18. Pali: Maṇicūlaka, một người thôn trưởng. Vin.ii. 296; S. iv. 325.

[5] Pali, S. iv. 326: tiṇaṃ tiṇatthikena pariyesitabbaṃ… na...kenaci pariyāyena jātaruparajataṃ sāditabbaṃ pariyesitabbaṃ, «ai cần cỏ thì xin cỏ…nhưng không vì bất cứ nhân duyêncho phép cầu xin vàng bạc

[6] Bà-xà Tử; trên kia, âm là Bạt-xà Tử.

[7] Ly-bà-đa 離婆多. Pali: Revata, vị trưởng lão này sống ở Soreyya, «thông bác, tinh thông A-hàm, Luật, Mattika…», Vin.ii. 299. Trùng tên với Revata, vị trưởng lão em út của ngài Xá-kợi-phất.

[8] Bà-kha 婆呵. Pali: Payāga. Lộ trình từ Payāga đến Soreyya của Revata, phỏng lại lộ trình Phật đi từ Verañja (Tỳ-lan-nhã, chỗ Xá-lợi-phất thỉnh Phật chế giới cho tỳ-kheo) đến Bārāṇasī, ngang qua Soreyya, Saṅkassa và Kaṇṇakujja.

[9] Già-na-ủy-xà 伽那慰闍. Pali: Kaññakujja. Xem cht. 8 trên.

[10] A-già-lâu-la 阿伽樓羅. Pali: Aggaḷapura, Vin.ii. 299.

[11] Tăng-già-xa 僧伽賒. Pali: Saṅkassa. Xem cht. 8 trên.

[12] Đắc nhị chỉ sao 得二指抄. Pali: dvaṅgulakappa, nhị chỉ tịnh, được giải thích: dvaṅgulāya chāyāya vītivattāya, (được phép ăn quá trưa) khi bóng chưa quá hai ngón tay. Liên hệ điều luật phi thời thực. Vin.ii. 230.

[13] Xem Phần i, Ch. v. Ba-dật-đề 35.

[14] Đắc thôn gian 得村間. Pali, ibid. : gāmantarakappo. thôn gian tịnh; như Tứ phần.

[15] Đắc tự nội 得寺內. Pali: āvāsakappo, trú xứ tịnh.

[16] Đắc hậu thính khả 得後聽可. Pali: anumatikappo, tùy hỷ tịnh; giải thích: kappati bhante vaggena saṅghena kammaṃ kātuṃ, āgate bhikkhū anumesāmāti, được phép tác yết ma biệt chúng, nếu các tỳ-kheo đến sau nói, «chúng tôi tuỳ hỷ.»

[17] Đắc thường pháp 得常法. Pali: āciṇṇakappo, thường hành tịnh, «Được phép làm, vì Hoà thương của tôi, A-xà-lê của tôi đã làm như thế.» Vin.ii. 301.

[18] Đắc hoà 得和. Pali: amathitakappa, được phép nếu chưa ngưng kết: đã ăn xong (túc thực), được phép uông sữa (khīra), nếu sữa chưa thành sữa đông (lạc). Vin. ii. 301.

[19] Diêm cộng túc 鹽共宿, chỉ muối để dành cách đêm. Pali: siṅgiloṇakappo, giác diêm tịnh, được phép mang muối theo trong cái sừng, khi ăn, lấy ra dùng.

[20] Xa-lâu-la tửu 飲闍樓羅酒. Pali: kappati jalogiṃ pātuṃ, được phép uống rượu pha. Rượu jalogi (xa-lâu-la), chỉ rượu loãng, hay nước trái cây để lâu mà chưa lên men thành rượu. Ngũ phần 30 (T22n1421 tr.192b01): rượu cất mà chưa chín.

[21] Xem Phần I, Ch. v Ba-dật-đề 51.

[22] Bất cát tiệt tọa cụ 不割截坐具. Ngũ phần 30 (T22n1421 tr.192b01): làm tọa cụ tuỳ ý lớn nhỏ. Pali: adasakaṃ nisīdanaṃ, tọa cụ không làm viền.

[23] Pali: kappati jātarūparajaṃ. Như Tứ phần.

[24] A-vu-hằng hà sơn 阿吁恒河山. Pali: Ahogaṅgā, tên một ngọn núi ở Bắc Ấn, nằm bên thượng lưu sông Hằng (uddhaṃ Gaṅgāya).

[25] Tam-phù-đà 三浮陀. Pali: Sambhūta.

[26] Ba-la-ly Tử 波羅離子. Pali: Pāṭheyyakā (Pāveyyakā), các tỳ-kheo người Pāva (Bà-ba hay Ba-hòa, xem trên), một thủ phủ của người Vajjī. Trong kết tập này, họ đứng về phía Revata. Họ được gọi là những người phương Tây.

[27] Ba-di-na 波夷那. Pāciṇakā, các tỳ-kheo phương Đông, nhưng người ủng hội 10 điểm của Vajjiputtaka.

[28] Ba-lê 波梨. Trên kia phiên âm là Pa-la-ly Tử; xem cht. 26.

[29] Bà-sưu thôn 婆搜村. Pali: Sahajāti, tên một thị trấn, chỗ của Sāḷha. Ngũ phần 30: Sa-lan 沙蘭.

[30] Nhất Thiết Khứ 一切去. Pali: Sabbakāmi.

[31] Bình đáng nhân 平當人. Ngũ phần (T22n1421 tr.193c21): đoán sự chủ 斷事主. Pali: ubbāhikāya, bối thẩm đoàn.

[32] Tô-mạn-na 蘇曼那. Pali: Sumana.

[33] Sa-lưu 沙留. Pali: Sāḷha. Tức trên kia nói Trưởng lão người Bà-sưu thôn.

[34] Bất-xà-tô-ma 不闍蘇摩. Pali: Khujjasobhita.

[35] A-di-đầu 阿夷頭. Pali: Ajita, bấy giờ mới 10 hạ, nhưng được tham dự, làm người phu tòa (āsana-paññāpaka) sắp chỗ cho bồi thẩm đoàn.

[36] Khuyến hoa 勸化. Ngũ phân: phu toà 敷座. Pali: āsana-paññapaka, xem cht. 35 trên.

[37] Bà-lê lâm 婆梨林. Pali: Vālikārāma, Tăng viện Vālika ở Vesāli.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15909)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14930)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14344)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13450)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13151)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16065)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10987)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17468)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12793)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13581)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12788)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14775)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16243)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12658)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12691)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14028)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14011)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12290)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11180)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10931)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13119)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13795)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13063)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13406)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10123)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13596)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16162)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10889)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10979)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant