Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Dẫn Nhập Tỷ-kheo Ni Giới

18 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 9239)
Dẫn Nhập Tỷ-kheo Ni Giới

TỲ KHEO GIỚITỲ KHEO NI GIỚI
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

TỲ KHEO NI GIỚI

Mục Lục

I. Tựa
II. Phần Đầu Tỷ-Kheo Ni Giới
III. Tỷ-Kheo Ni Giới

1. Lời Mở Đầu
2. Tám Giới Khí
3. Mười Bảy Giới Tăng Tàn
4. Ba Mươi Giới Xả Đọa
5. Một Trăm Bảy Mươi Tám Giới Đọa
6. Tám Giới Hối Quá
7. Một Trăm Giới Học
8. Bảy Pháp Diệt Tránh
9. Lời Kết Thúc

IV. Phần Cuối Tỷ-Kheo Ni Giới
V. Ghi Chú

Ghi sau khi duyệt Tỷ-Kheo Ni Giới

Ổn thỏa nhất là những gì cần làm cho Tỷ-kheo giới và Tỷ-kheo ni giới thì nên làm chung. Nhưng làm cho Tỷ-kheo giới rồi tôi mới phát nguyện làm cho Tỷ-kheo ni giới. Do đó, Tỷ-kheo ni giới không có một ít điều tôi đã làm cho Tỷ-kheo giới. Ngay lời ghi này cũng vậy. Những gì cần ghi, tôi đã ghi bên Tỷ-kheo giới. Luật không ngăn cản Tỷ-kheo coi Tỷ-kheo ni giới hay ngăn cản Tỷ-kheo ni coi Tỷ-kheo giới. Vậy những gì bên Tỷ-kheo giới, chư vị Tỷ-kheo ni có thể thẩm cứu.

Dầu vậy, ở đây tôi muốn ghi về sự ăn thịt cá mà Tỷ-kheo ni giới không dịch lược đi được. Mở rộng vấn đề một chút là nói về sự ăn chay ăn mặn.

Nguyên thỉ Phật giáo - mà cái này mới chắc là nguyên thỉ - thì "tùy thí tùy thực" (cho gì ăn nấy). Nếu tôi nhớ không lầm, thì trước thời Phật, các triết gia U-pa-ni-sát đã ăn chay. Và ăn một cách nghiêm khắc, cái ăn đó có gây phiền phức. Cái ăn đó là một cực đoan. Rồi khi chống lại Phật, muốn lập Phật giáo riêng, Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) đưa ra 5 sự, trong đó "thứ 5 là suốt đời không ăn thịt cá máu mỡ bơ sữa" (Bà-sa 116, Phật học đại từ điển trang 533 dẫn). Thế đó lại càng là cực đoan. Bây giờ ta giả thiết bên ăn chay đòi cho được đồ chay, bên ăn mặn đòi cho được đồ mặn, thì thế chính là cực đoan, gây bao phiền phức cho người cho.

Phật không như vậy. Phật thì tăng ni đến gần giờ ăn mới đi khất thực. Khất thực thì ngay bữa ăn của người cho, họ bớt ra mà cúng dường. Bữa ăn của họ có gì, họ cúng dường cũng cái đó. Khất thực không đòi cho được đồ chay hay đồ mặn. Do vậy mà trong luật mới có giới điều nói về sự ăn cá thịt.

Đại thừa thì khác. Hãy gác vấn đề đại thừa có phải cũng là Phật giáo nguyên thỉ không, chỉ nói đại thừa cấm tuyệt sự ăn mọi thứ thịt, với ý thức ăn thịt là phản Phật tánh, là phi từ bi. Và sự cấm ăn thịt này thực sự tuyệt đối, cấm như sắc lịnh là bởi Lương vũ đế. Ngày nay nói Phật giáo là nói ăn chay. Ăn có thịt cá trở thành lạ lùng, khó nghe và khó coi.

Ghi như trên đây là để giải thích sự ăn có cá thịt trong Luật, cho thấy Phật tử phải ăn chay là vì sao.

Mười hai tháng 5, PL 2537 (TL 1993)
Trí Quang


I. Tựa

Sau khi dịch Tỷ-kheo giới rồi, để cầu siêu nhân kỳ mẹ tôi, tôi phát ra cái ý dịch luôn Tỷ-kheo ni giới và Thức-xoa-ma-na ni giới. Trước đây tôi đã dịch Sa-di giới (Sa-di luật nghi yếu lược) và Sa-di ni giới (Sa-di ni luật nghi yếu lược). Bồ-tát giới thì đã được dịch lại, và lược giải khá kỹ, năm 2531 (1987). Như vậy là tất cả giới luật của 5 chúng xuất gia đã dịch xong.

Tỷ-kheo ni giới, khi tôi dịch, chỉ tìm thấy 3 bản. Bản 1 mang số 1481 của Đại tạng kinh bản Đại chính, do ngài Hoài tố biên tập. Bản 2 của ngài Nguyên chiếu, nằm trong Tục tạng kinh bản chữ Vạn, tập 64 các trang 1-12. Bản 3 là giới kinh thường tụng nếu tụng Hoa văn, do Phật giáo Bắc tông khắc và ấn hành. Cả 3 bản, không có bản nào được như Tứ phần luật hàm chú giới bản của Tỷ-kheo giới, nên tôi chọn bản thường tụng làm chính văn.

Tài liệu tham khảo thì ngoài phần chính là Tứ phần luật (các cuốn 22-30), còn có những tài liệu sau đây: Tứ phần luật danh nghĩa tiêu thích (gọi tắt là Danh nghĩa), bộ này đích xác là tự điển và từ điển của Tứ phần luật, nằm trong Vạn 70/201-501; Trùng trị, phần Tỷ-kheo ni giới (Vạn 63/292-307); Tỷ-kheo giới, bản dịch của tôi; Một bản dịch Tỷ-kheo ni giới không thấy tư tên người dịch.

Tỷ-kheo ni giới không có cái phước được chính ngài Đạo tuyên làm việc cho, như cuốn Tứ phần luật hàm chú giới bản.

Trong cách dịch của tôi nên nói về tên của các giới điều. Bởi thấy đa số tên ấy tóm tắt và nêu lên ý chính, nên tôi dịch và để trước các giới điều. Thế nhưng đến loại 6 và loại 7, tác dụng ấy không có bao nhiêu nên tôi không dịch nữa.

Nay nên nói nội dung của Tỷ-kheo ni giới, bằng cách đối quán sơ lược với nhau giữa 5 bản Tỷ-kheo ni giới của 5 bộ luật. Tỷ-kheo ni giới có 7 loại. Trong đó, loại một là khí, thì 5 bộ luật đồng nhau; loại hai là tăng tàn, thì Tăng-kỳ có 19, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 17, Hữu bộ có 20; loại ba là xả đọa, thì Tăng-kỳ, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 30, Hữu bộ có 33; loại bốn là đọa, thì Tăng-kỳ có 141, Ngũ phần có 210, Thập tụng có 178, Tứ phần có 178, Hữu bộ có 180; loại năm là hối quá, thì Tăng-kỳ, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 8, Hữu bộ có 11; loại sáu là học pháp, thì Tăng-kỳ có 65, Ngũ phầnTứ phần đều có 100, Thập tụng có 107, Hữu bộ có 42; loại bảy là diệt tránh, thì 4 bộ đều có 7, trừ Ngũ phần không có.

Bây giờ nói về đại thể của Tỷ-kheo ni giới. Đại thể ấy có 2 phần: phần 1 là giới luật, phần 2 là oai nghi. Phần 1 là những giới điều cấm tội lỗi thật sự, phần 2 là những giới điều cấm cử động bất xứng. Tức như loại khí có thể nói là giới luật cả, loại học pháp có thể nói là oai nghi cả. Còn các loại khác thì có giới là giới luật, có giới là oai nghi, có giới là cả hai. Tất cả giới luậtoai nghi như vậy tạo thành một bậc Chúng trung tôn.

Đến đây hãy nêu lên mấy điều. Một, "ngôn ngữ của giới này ai nghe thì đừng kinh quái, phát ngượng, mà phải nghĩ đến ơn Phật, đã ly ái nhiễm, đã đắc thanh tịnh, nhưng vì chúng ta nên kiết giới với những lời chữ không phải mỹ từ" (Thiện kiến, Vạn 64/1 dẫn). Hai, về trường hợp có ra giới pháp thì đời Phật, tập thể Tỷ-kheo ni cũng không ít, vậy mà chỉ có 6 bà gọi là "lục quần Tỷ-kheo ni", và năm ba vị nữa, có những cử động bất xứng, chứng tỏ tập thể Tỷ-kheo ni ấy xứng đáng không ít. Ba, số lượng của giới điều thật ra cũng không nhiều lắm, dò kỷ sẽ thấy con số 348 có thể qui nạp còn quá nửa mà thôi. Bốn, giới điều nhiều đến mấy đi nữa mà, như Tứ phần luật nói, hễ có thiểu dục tri túc (kèm theo là tàm quí) thì giữ được hết cả, kể cả khai giá (linh độnghạn chế) của mỗi giới điều cũng thấy ra và giữ trọn.

Ai cũng có cái hảo tâm xuất gia ban đầu. Ai đứng trước Phật cũng muốn mình xứng đáng với Ngài. Nhưng chỉ có giới luật mới làm mình xứng đáng với Phật và không phụ hảo tâm của mình.

Mồng 7 tháng 6, PL 2535 (TL 1991)
Trí Quang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33147)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6524)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11250)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30426)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7965)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12789)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34725)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52244)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10697)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10450)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13061)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21815)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9601)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7107)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10374)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12763)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16212)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16512)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13838)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13789)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15650)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12611)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14983)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13119)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14517)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20662)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13201)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10928)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20679)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14338)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20350)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17636)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31849)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12009)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant