Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ghi Chú

18 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 9480)
Ghi Chú

TỲ KHEO GIỚITỲ KHEO NI GIỚI
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

TỲ KHEO NI GIỚI

V. Ghi Chú

(1) Giới kinh ở đây là Tỷ-kheo giới bản và Tỷ-kheo ni giới bản. Giới kinh ở đây còn có 2 trường hợp nữa. Có trường hợp chỉ cho Tứ phần luật. Có trường hợp chỉ cho mỗi bài tụng của 7 đức Phật nói Giới kinh.

(2) Chính văn là thánh pháp tài (tài sản chánh pháp của các vị thánh), thường nói tắt là thánh tài. Thánh tài có 7 thứ, là tín, giới, tàm, quí, văn, xả, tuệ. Có 7 thứ này thì gọi là thánh nhân (kinh Niết bàn).

(3) Tỷ-kheo ni giới có 7 loại: 1. khiắ, có 8; 2. tăng tàn, có 17; 3. xả đọa, có 30; 4. đọa, có 178; 5. hối quá, có 8; 6. học, có 100; 7. diệt tránh, có 7. Chính văn này chỉ đưa ra 3 loại, là nói tắt.

(4) Dịch đúng chính văn là nói việc ấy cho tôi. Chính văn này không chỉnh. Ở đây là các đức Phật đều nói Giới kinh.

(5) Giới luật của dị giáo, ngoại đạo.

(6) Đại khái gửi lời thưa rằng mình cũng muốn bố-tát và trong nửa tháng vừa qua mình không vi phạm giới nào.

(7) Chính văn là thời đáo, có nghĩa đến lúc, đúng lúc, thì gian thích hợp.

(8) Chỉ cho 37 giác phần, đặc biệt chỉ cho 8 chánh đạo trong đó.

(9) Chính văn là trì, có nghĩa nắm giữ trong trí, tức là nhớ, ghi nhận.

(10) Dịch nghĩa là khí (bị bỏ ra ngoài tăng chúng), nhưng chính nghĩa là tha thắng (bị chiến thắng).

(11) Sự dâm dục, Luật gọi là phi phạn hạnh, là bất tịnh hạnh.

(12) Không được cùng tăng chúng kiết-ma và thuyết giới.

(13) Là hẹn chỗ để hành dâm. Chính do sự này mà phạm trọng tội.

(14) 1. Chính văn là phạm tùy cử cố. Dịch như đã dịch mà không tự tín chính xác. 2. Từ giới thứ 5 xuống đến giới này có sự bất thường. Là cuối mỗi giới có thêm 1 câu. Những câu này quả là không cần thiết, nên bản Nguyên chiếu lược bỏ.

(15) Dịch nghĩa là tăng tàn, là phạm những tội này còn có thể cứu vãn được nếu biết sám hối trước 40 vị Tỷ-kheo và Tỷ-kheo ni, không thì cũng như phạm tội ba-la-di.

(16) Loại tăng tàn của Tỷ-kheo ni có sự bất thường. Là trong 17 giới, 9 giới trước ghi thêm sơ pháp ưng xả, 8 giới sau ghi thêm tam pháp ưng xả. Trùng trị cắt nghĩa sơ pháp là mới làm là phạm (nói cách khác, mới phạm là thành tội), ưng xả là phải bỏ mà đừng phạm; tam phápcan gián đến lần thứ 3 mà không bỏ mới là phạm (nói cách khác, sau 3 lần can gián mới thành tội), ưng xả cũng là phải bỏ mà đừng phạm. Sơ pháp với tam pháp, cắt nghĩa như vậy là chính xác, còn ưng xả thì không rõ cắt nghĩa như vậy có chính xác không. Vì 2 câu này chỉ có Trùng trị cắt nghĩa, nên tôi dịch theo sách ấy.

(17) Chính văn là chủng tánh (dòng họ, giai cấp, thành phần xã hội).

(18) Nhiễm thực là thức ăn xuất từ nhiễm tâm (tâm ô nhiễm: tâm dâm dục).

(19) Đủ thì phải nói phá hoại tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián. Tăng hòa hợp là 4 vị Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni sắp lên, cùng kiết-ma và cùng tụng giới.

(20) Là cùng học đức Phật bổn sư: đức Thích-ca.

(21) Đủ thì phải nói hỗ trợ phá tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián.

(22) Đủ thì phải nói làm hoen ố tín đồ mà còn chống lại sự can gián.

(23) Làm hoen ố tín đồ, chính văn là ô tha gia (làm bẩn người khác). Ô tha gia có 4 hình thứcđứng đầu là đem vật của người này cho mà cho lại người khác, làm cho tâm lý người nào cũng không còn bình thường. Làm những việc xấu là những việc xấu dẫn ra từ sự ô tha gia.

(24) Hoan hỷ, chính văn là "ma-na-đỏa", dịch nghĩa là ý hỷ. Ý hỷ là ở sát cạnh chư ni, chân thành ân hận, làm cho chư ni hoan hỷ mà mình cũng hoan hỷ.

(25) Chính văn chỉ có Tỷ-kheo ni. Như vậy là không chỉnh, nên phải bổ túc Tỷ-kheo.

(26) Trường hợp, chính văn là thời. Tra 4 bộ Luật khác mới biết chữ ấy, ở đây và nhiều chỗ sau đây, có nghĩa là trường hợp.

(27) Dịch nghĩa là xả đọa, là xả thí những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa lạc ác đạo.

(28) Y công đức (ca-thy-na y) là y được xét thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng thì có 5 tháng (16/7 đến 15/12) được hưởng 5 sự mà Luật đã định.

(29) Trường y (y dài) là dài bằng 8 ngón tay và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Vạn 70/346 nói trường y là y dư thừa, hễ vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường y.

(30) Tịnh thí nghĩa là cho một cách trong sạch. Tịnh thí ở đây là Tỷ-kheo ni có thừa những vật dụng (như y, bát, v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh thí, là đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người mình muốn cho. Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói : Đại tỷ đã cho người ấy rồi thì đó là vật của người ấy ; đại tỷ nên cất giữ giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà dùng.

(31) 5 y là An-đà-hội, Uất-đa-la-tăng, Tăng-già-lê, tăng-kỳ-chi, phú-kiên ; 5 y là của Tỷ-kheo ni dùng. Cũng nên biết chữ Y trong Luật có khi chỉ cho y, có khi chỉ cho áo, quần, khăn v/v, có khi chỉ cho vải.

(32) Kiết-ma, dịch nghĩa là tác pháp biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do cả tăng quyết định mới thành tựu, đó gọi là kiết-ma. Kiết-ma có đan bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đan bạch là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần tuyên cáo (tác bạch, bạch) mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp những việc hơi quan trọng, sợ xảy bất đồng ý về sau, nên phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp những việc quan trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng kiết-ma có 4 loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị hay 40 vị cho sự xử tội tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được, thiếu đi thì không được.

(33) Đáng lẽ phải nói 5 y có cái cũ và hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỷ-kheo ni y Tăng già lê bị cũ và hỏng.

(34) Lời xin tùy ýthí chủ có lời xin nói trước rằng người nhận lãnh muốn sao cũng được.

(35) Chính văn là khẩu khả thọ, dịch nhận lấy bằng cách miệng nói được, là theo Danh nghĩa (Vạn 70/347).

(36) Đáng lẽ giới này nên nói đổi chác (mậu) thì đúng hơn, vì bán mua thì là giới thứ 11.

(37) Chính văn là muội.

(38) Dịch sát là 10 ngày chưa hết của 3 tháng kiết hạ an cư ; 10 ngày ấy là 6/7 đến 15/7.

(39) Thì hạn của y ấy, y ấy là y cúng vội vàng nói trên, thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến 15/8) nếu không thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công đức y.

(40) Giới này đến giới 23 rõ ràng có thể làm 1 giới thôi. Phải dịch rất sát tên giới, là để thấy khác nhau.

(41) Trường bát, có ý kiến nói là bát dư thừa.

(42) Bịnh y ở đây là vải dùng lúc hành kinh.

(43) Thời yphi thời y. Y đây cũng có thể là vải. Coi giới thứ 3 thì biết. Thời y (y đúng thời) là y có trong thì gian 1 tháng (16/7-15/8) hoặc 5 tháng (16/7-15/12). Phi thời y (y trái thời) là y có trong thì gian không phải thì gian của thời y.

(44) Tấm ở đây nhỏ thì rộng 2 khuỷu tay, lớn thì bằng y ca sa (Vạn 70/348). Áo dày là áo chống lạnh.

(45) Áo mỏng cũng nên dịch áo nhẹ, là áo chống nóng.

(46) Ba-dật-đề dịch nghĩa là đọa, là phạm những giới này nếu không sám hối giữa chư tăng thì sẽ bị đọa lạc.

(47) Coi lại ghi chú 17.

(48) 5, 6 lời, cũng có thể dịch là pháp số 5 (như nói 5 uẩn vô ngã) và pháp số 6 (như nói 6 thức vô thường).

(49) Cây cối là chỗ ở của quỉ thần và sinh vật, nên những chữ chặt phá cây cối và sinh vật là bổ túc.

(50) Giường giây là lòng giường đan sợi mây hay bất cứ sợi gì. Có chỗ giường giây là võng.

(51) Không phải giờ ăn (phi thời) là kể từ xế bóng ngày trước cho đến ngày sau trời chưa sáng.

(52) Dịch rõ là thức ăn mà mình không hay chưa nhận lời mời, hoặc thuốc cũng không hay chưa nhận lời mời, mà đã bỏ vào miệng.

(53) Bữa ăn trước là trời sáng cho đến giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ.

(54) Nhà ăn (thực gia) và vật báu ở đây có cái nghĩa riêng ở đây, không phải cái nghĩa thông thường. Nghĩa thông thường thì nhà ăn là nhà mời ăn, vật báu là vàng ngọc (hoặc nói bóng người đẹp). Nhưng nghĩa ở đây thì nhà là nhà có chồng vợ, ăn là chồng vợ ấy hành dâm hưởng lạc với nhau (và vật báu có thể chỉ có nghĩa là trong nhà ấy có chỗ cho chồng vợ hành dâm). Trong nhà ăn có vật báu như vậy mà họ mời ăn rồi không đi ngay thì rất chướng ngại cho họ, nhất là cho người chồng.

(55) Dịch rõ là khơi lại 4 sự tranh cãi. Sự tranh cãi có 4, đó là 1, ngôn tranh, là tranh cãi vì bàn luận giới pháp; 2, mích tranh, là tranh cãi vì xoi bói tội lỗi ; 3, phạm tranh, là tranh cãi về tội lỗi đã phạm; 4, sự tranh, là tranh cãi về công việc kiết-ma. Cả 4 sự tranh cãi đều phải diệt bằng 7 cách diệt tránh. Khi kiết-ma diệt tránh rồi mà ai còn khêu gợi lại thì phạm ba-dật-đề.

(56) Đâu la là bông của mọi thứ cây cỏ, trong đó có bông gòn, bông vải, và kén tằm hoang.

(57) Đúng chính văn thì chỉ nói tỏi. Nhưng thật ra là nói 5 vị tân. Nên phải dịch các thứ tỏi.

(58) Tác tịnh ở đây là làm vệ sinh bộ phận sinh dục. Đặt giới hạn như vậy là phòng tự kích thích, phòng thói thủ dâm.

(59) Xin lúa, mè, gạo, đậu, v/v. Ấy là nói sự xin xỏ không chán, không biết xấu hổ.

(60) Và các trò chơi khác. Kỷ nhạc là diễn tấu nhạc khí, là hòa nhạc; có chỗ kỷ nhạc là diễn kịch hòa nhạc.

(60b) Chính văn là bất sinh Phật pháp trung. Không sinh trong Phật phápkhông sinh vào trong gia đình tin Phật, không sống trong Phật pháp bằng cách xuất gia hay tại gia.

(61) Như trời lạnh mà chỉ có 1 chăn.

(62) Như vì việc của Tam bảo, vì việc của Tỷ-kheo ni bịnh, thì kiết hạ an cư cũng được tác pháp xuất giới 7 ngày.

(63) Vì tín đồ vốn chỉ xin cúng dường mùa an cư mà thôi.

(64) 6 nạn là không có kéo, kim, chỉ, vải không đủ, chủ y phá giới, tính mạng bị nạn.

(65) 5 ngày coi sóc 1 lần.

(66) Vì đui, điếc, còng, què, v/v.

(67) Là 10 năm sau khi xuất gia và 2 năm Thức-xoa. Không phải 12 năm là năm sinh. (Trùng trị, Vạn 63/300A).

(68) Dâm nữ, tư thông, v/v.

(69) Là giáo pháp và cơm áo.

(70) Chính văn nói 12 năm, nhưng chính trong Tứ phần luật thì nói 1 năm, hay nói 12 tháng. Như vậy có thể suy ra mỗi năm độ 1 người là nhiều rồi.

(71) Dịch đủ thì còn cá và thịt. Nhưng đó là tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy), nên ở đây phải lược.

(72) Chính văn là gia. Theo cước chú của Vạn 64/102 thì là nhà của thí chủ. Nhưng cước chú của Tỷ-kheo ni giới kinh thì gia ở đây đọc là cô (thái cô), nghĩa là bà thầy. Xét lý do của giới này (Tứ phần, Chính 22/768) thì nghĩa thầy đúng hơn. Lý do của giới này là Tỷ-kheo ni An ổn có 1 đệ tử là Tỷ-kheo ni Đề-xá. Hai thầy trò đến nhà thí chủ cũ. Thí chủ thấy An ổn y phục tề chỉnh, oai nghi hoàn hảo, nên hoan hỷ cúng dường. Về chùa, An ổn nói với Đề-xá, rằng thí chủ này tín tâm chân thành, cúng dường hảo ý. Đề-xá có ý ganh ghét, nói thí chủ tín tâm chân thành, cúng dường hảo ý, là cúng dường cho thầy!

(73) Vạn 64/102 nói mè đây là chi ma.

(74) Chính văn là chủ khỏa y, tức quần cụt, quần đùi, quần lót, mà may lụa, độn dày, đính đồ đẹp. Mặc để làm đẹp hạ thể. Bị cấm dùng. Nếu có bịnh thì mặc bịnh y rồi mặc quần.

(75) Nói đủ là tăng kỳ chi, là áo lót che nách, ngực và eo.

(76) Thuật số ở đây, và ở dưới đây, chính văn là kỹ thuật. Chữ này không chỉnh, vì ở đây là nói chú thuật, lý số, và đó là tà mạng nên Luật cấm.

(77) Tra cứu Tứ phần (Chính 22/777) và Trùng trị (Vạn 63/303), thì lắc mình rảo bước (dao thân xu hành) có thể hiểu đi mà nhún nhảy. Coi phần khai của giới này thì đủ để hình dung. Phần ấy nói hoặc vốn có bịnh như vậy, v/v, hoặc muốn làm cho y áo tề chỉnh, nên nhìn phải nhìn trái, ngoái mình mà nhìn, không phạm.

(78) Chính văn là tác, vừa có nghĩa sử dụng, vừa có nghĩa sắm sửa. Ở đây có cả 2 nghĩa, mà nghĩa sử dụng nhiều hơn, còn nghĩa sắm sửa thì là giới 157.

(79) Dịch nghĩa là hướng bỉ hối, là những giới điều mà phạm vào chỉ cần sám hối với 1 Tỷ-kheo ni.

(80) Danh nghĩa (Vạn 70/273) nói từ bò mà ra là nhủ, từ nhủ mà ra là lạc, từ lạc mà ra là sanh tô, từ sanh tô mà ra là thục tô, từ thục tô mà ra là đề hồ. Đó là nói về sữa bò và 4 cách chế biến về sữa ấy. Bốn cách này khó dịch và biết cho rõ, vì xưa khác nay khác, xứ khác, tên khác. Nên ở đây tôi để nguyên chữ tô và chữ lạc, và gọi là sữa tô, sữa lạc.

(81) Coi lại ghi chú 71. Nhưng ở đây không thể lược bỏ.

(82) 1. Như đã nói trong lời tựa, 100 giới này tôi không dịch tên. 2. 100 giới này hoàn toàn y như Tỷ-kheo giới, chỉ có không hơn vài chỗ khác chữ mà cùng nghĩa.

(83) Xuống dòng như vậy là có ý sắp loại các giới điều này.

(84) Chính văn là tôn tọa. Tôn, các bản ghi chú đều nói là ngồi mà tiếng thông tục của ta gọi là ngồi chỏ hỏ. Nhưng từ điển nói là ngồi xoạc đùi. Tôi chọn nghĩa này.

(85) Để khỏi rơi đồ ăn xuống.

(86) Chính văn là canh, nhưng rõ ràng chữ ấy ở đây là đồ ăn, chứ không phải chỉ là canh như thường nói. Do vậy chữ canh ấy được dịch là đồ ăn.

(87) Chú thích: ăn không tuần tự là ngay trong bát mà đã lấy ăn lung tung.

(88) Dịch theo chú thích là một nửa vào miệng, một nửa còn lại nơi tay.

(88b) Dịch đủ là nhai cơm. Nhưng đủ mà thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ nhai cơm.

(89) Là 7 cách diệt trừ sự tranh cãi. Bảy cách này, nếu chư ni có sự tranh cãi (coi ghi chú 55) thì phải dập tắt bằng 7 cách ấy. Nói đại khái và giản dị, thì một thành phần chư ni có lỗi, nhất là lỗi gây ra tranh cãi, thì hãy diệt tranh cãi ấy bằng cách cho hiện diện (1), cho nhớ lại (2), cho tỉnh trí (3), cho tự xử (4), cho tự xét (5), cho chung xét (6), cho qua loa (7). Nghĩa là bằng cách nào đó có lý có tình mà đem lại sự phục thiệnhoan hỷ là tốt. Giới của 7 cách này là sau khi diệt tránh bằng 7 cách rồi, ai còn khơi lại thì phạm tội và bị trị.

Ký hiệu:

- Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu. Ký hiệu là Chính, thí dụ Chính 1/100, là Đại tạng ấy, tập 1, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên giữa dưới, nhưng sách này không ghi rõ khoảng ấy và dòngchữ. 

- Tục tạng kinh bản chữ Vạn. Ký hiệu là Vạn, thí dụ Vạn 1/100 là Tục tạng ấy, tập 1 tờ 100. Mỗi tờ có 2 mặt a và b, mỗi mặt có 2 khoảng trên dưới, nhưng sách này cũng không ghi rõ những chi tiết ấy. 

- Phật học đại từ điển của Đinh Phước Bảo. Ký hiệu là Bảo, thí dụ Bảo 100, là đại từ điển ấy, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên giữa dưới, và dĩ nhiên có từ. Nhưng sách này cũng không ghi những chi tiết ấy. 

- Phật học nghiên cứu thập bát thiên, của Lương Khải Siêu. Sách có 18 bài. Ký hiệu là Siêu, thí dụ Siêu 1/10, tức sách ấy, bài 1 trang 10. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12511)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14109)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10851)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10522)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11191)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12002)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13143)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13636)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33657)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11335)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12923)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13056)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11625)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17892)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11441)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11849)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11493)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18973)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12541)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11332)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13139)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15756)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11691)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12765)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13966)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12993)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12946)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13296)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12761)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12688)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11736)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11726)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12325)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12384)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19816)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11990)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16880)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15059)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16117)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12873)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12222)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11915)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11924)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16505)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13231)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12493)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11816)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19858)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11151)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11254)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10401)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11090)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10968)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10035)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11746)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant