KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN
GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương II: CHÁNH THÍCH KINH VĂN
(Chánh
thức giải thích kinh văn)
DẪN NHẬP:
Trước khi đi
vào phần giải thích kinh văn quyển Hạ, chúng tôi xin trình bày sơ lược về sự
sai biệt trong vấn đề phân chia ranh giới giữa quyển Thượng và quyển Hạ của bộ
kinh Phạm Võng.
Căn cứ vào các
bộ chú sớ của chư thượng đức còn lưu trữ trong các bộ kinh tạng để nghiên cứu
thì có những điểm bất đồng quan trọng trong sự phân chia này:
- Theo bộ Phạm
Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Thuật Ký của Thắng Trang Pháp Sư triều nhà Đường
soạn.
- Bộ Phạm Võng
Kinh Bồ Tát Giới Chú của Pháp Sư Huệ Nhân triều nhà Tống soạn.
- Bộ Phạm Võng
Kinh Trực Giải của Tịnh Quang Pháp Sư triều Minh soạn.
- Bộ Phật Thuyết
Phạm Võng Kinh Thuận Thù của Đức Ngọc Pháp Sư triều nhà Thanh soạn.
Quyển Hạ bộ Phạm
Võng Kinh bắt đầu từ câu: “Nhĩ thời, Lô Xá Na Phật vị thử đại chúng lược khai
bá thiên hằng hà sa bất khả thuyết pháp môn” (lúc bấy giờ, Đức Phật Lô Xá Na vì
đại chúng trong pháp hội, lược giảng vô số pháp môn không thể tính kể như số
cát của trăm ngàn muôn ức sông Hằng).
- Theo bộ Phật
thuyết Phạm Võng Kinh Hợp Chú do Trí Húc Đại Sư triều Minh soạn.
- Bộ Phật Thuyết
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Phẩm Hạ Lược Sớ do Hoằng Tán Đại Sư triều Minh
thuật.
Quyển Hạ bộ kinh
Phạm Võng bắt đầu từ câu: “Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật tùng sơ hiện Liên Hoa
Đài Tạng thế giới, Đông phương lai nhập thiên vương cung trung...” (Lúc bấy giờ,
đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ lúc sơ khởi, hiện thân nơi thế giới Liên Hoa Đài
Tạng, qua phương Đông đến tại cung của thiên vương...)
- Theo bộ Phạm
Võng Bồ Tát Giới Kinh Nghĩa Sớ của Quán Đảnh Đại Sư ký lục, do tổ Trí Giả triều
nhà Tùy giảng.
- Bộ Phạm Võng
Bồ Tát Giới Kinh Sớ San Bổ của Minh Khoán Pháp Sư triều nhà Đường soạn.
- Bộ Phạm Võng
Kinh Bồ Tát Giới Bổn Sớ của Pháp Tạng Pháp Sư triều nhà Đường soạn.
- Bộ Phạm Võng
Kinh Bồ Tát Giới Bổn Sớ của Nghĩa Tịnh Pháp Sư triều nhà Đường thuật
v.v...
Quyển Hạ của bộ
kinh Phạm Võng bắt đầu ở phần Văn Tụng: “Ngã kim Lô Xá Na, phương tọa Liên Đài
Tạng..” (Nay ta là Lô Xá Na, đang ngồi trên đài Liên Hoa...)
Vì có nhiều bộ
chú sớ hiện còn lưu giữ trong các Đại Tạng Kinh không thống nhất nhau về vấn đề
phân ranh giới giữa quyển Thượng và quyển Hạ trong kinh Phạm Võng nên chúng ta
hiện nay không thể lấy giả thuyết nào làm căn cứ chính xác. Đây là một vấn đề
khó phán đoán và quyết định.
Theo các bổn
kinh Phạm Võng hiện đang lưu hành thì quyển Hạ bắt đầu từ đoạn kinh văn: “Nhĩ
thời Thích Ca Mâu Ni Phật...” Và người giảng cũng xin bắt đầu từ đoạn này. Xin
chư Phật tử lưu ý, từ phần này trở đi, là phần chính thức giải thích kinh
văn.
Kinh điển gồm ba
phần:
- Tự phần.
- Chánh Tông
phần.
- Lưu Thông
phần.
Nhưng vì phần
giảng kinh này thuộc về quyển Hạ nên về mặt hình thức không hội đủ ba phần, nên
tôi (pháp sư giảng kinh) vẫn phân làm ba đoạn:
- Tự thuyết giới
duyên (nhơn duyên Đức Phật thuyết pháp).
- Chánh thuyết
giới tướng (chánh thức tuyên nói giới tướng).
- Kết khuyến lưu
thông (kết thúc và khuyên lưu hành kinh).
A. TỰ THUYẾT
GIỚI DUYÊN (nhân duyên thuyết giới)
A.1. THẬP
XỨ THUYẾT PHÁP (thuyết pháp mười nơi)
Kinh văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhĩ thời
Thích Ca Mâu Ni Phật...” cho đến câu “...kỳ trung thứ đệ thập trụ xứ thuyết
pháp”.
2. Dịch nghĩa:
Bấy giờ, đức
Thích Ca Mâu Ni Phật từ lúc sơ khởi, hiện thân nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng,
sau đó qua phương Đông, đến tại cung của Thiên Vương, diễn nói kinh Ma Thọ Hóa.
Sau rốt, Ngài giáng sanh nơi cõi Nam Diêm Phù Đề tại nước Ca Di La. Vua Tịnh
Phạn là thân phụ và hoàng hậu Ma Gia là sanh mẫu. Nhũ danh của Ngài là Tất Đạt
Đa, Ngài xuất gia bảy năm, ba mươi tuổi thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật.
Từ bửu tòa Kim Cương Hoa Quang, nơi đạo tràng Tịch Diệt, nhẫn đến nơi cung của
Đại Tự Tại Thiên Vương, trong mười nơi ấy, Đức Phật tuần tự ngự đến thuyết
pháp.
Lời giảng:
Quyển Thượng kinh
Phạm Võng chủ yếu thuyết minh việc có từ ngàn Đức Phật Thích Ca đến trăm ngàn
ức Đức Phật Thích Ca tuyên thuyết pháp môn Tâm Địa của Bồ Tát ở ngàn trăm ức
thế giới trong mười phương.
Quyển Hạ kinh
Phạm Võng thuyết minh về việc Đức Phật Thích Ca ngự nơi thế giới Ta Bà này, vì
các đại chúng giảng nói pháp môn Tâm Địa của Bồ Tát.
Vì thế, chữ “nhĩ
thời” (bấy giờ) trong kinh có nghĩa chỉ thời gian lúc ngàn trăm ức Đức Phật
Thích Ca ở trong trăm ngàn ức thế giới giảng nói pháp môn Tâm Địa đã hoàn tất.
Chư cổ đức cũng
có vị đem hai chữ “nhĩ thời” giải thích là thời gian từ nơi Thể mà khởi Dụng.
Nghĩa là: Ngàn trăm ức Phật Thích Ca từ nơi chỗ Phật Lô Xá Na sau khi nghe pháp
môn Tâm Địa của Bồ Tát, trở lại thị hiện nơi thế giới Ta Bà, vì tất cả chúng
sanh ở cõi này tuyên thuyết pháp môn Tâm Địa của Bồ Tát. Đây tức là sự diệu
dụng từ bản thể mà phát khởi ra.
Năm chữ “Thích
Ca Mâu Ni Phật” như mọi người đều biết là đức Giáo Chủ thế giới Ta Bà mà cũng
là đức Bổn Sư của chúng ta.
Thích Ca Mâu Ni
Phật là đức hiệu cỉa Phật. Phật vốn có nhiều thứ công đức bất đồng, thế nên đức
hiệu cũng có nhiều tên khác nhau. Nhưng hiện tại gọi là Thích Ca Mâu Ni thể hiện
ý nghĩa Đức Phật xuất hiện ở thế giới Ta Bà này, đản sanh vào giòng họ một vị
vua trong một quốc độ (chỉ cho xứ Ấn Độ). Danh hiệu của Ngài do phụ hoàng và
mẫu hậu đặt. Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên của Đức Phật.
Thích Ca là họ
của hoàng tộc, Trung Quốc dịch là Năng Nhân hoặc Năng Nhu, lại có chỗ dịch là
Trực Lâm.
Chữ Nhân có
nghĩa là Nhẫn. Hai chữ Năng Nhân có nghĩa là Năng Nhẫn.
Ví như có người
tán thán công đức thiện hạnh của Đức Phật, Đức Phật quyết không bao giờ vì sự
tán thán ấy mà thể hiện thái độ kiêu căng, tự đắc, hoan hỷ. Trái lại, giả sử có
người phê bình những điểm không đúng của Phật, Phật cũng tuyệt đối không bao
giờ cảm thấy không vui. Thế nên, đối với những điều vui mừng, buồn giận, trong
tâm hoàn toàn không xao động, không ảnh hưởng, nên gọi là Năng Nhân.
Mâu Ni là đức
hiệu của Thánh Giả, Trung Quốc dịch là Tịch Mặc. Đây là danh từ phụ hoàng đặt
cho Ngài. Sự việc này, trong kinh đề cập như vầy: “Chính lúc Bổn Sư Thích Ca
còn làm vị Thái Tử. Lần nọ, Ngài tham dự đại hội của triều đình do hoàng tộc
Thích Ca tổ chức. Khi đại hội sắp khai mạc, vì số người tham dự quá đông, nên
không khí đại hội ồn ào, huyên náo một cách dị thường. Nhưng khi Thái Tử vừa
đến thì tất cả những người tham dự đại hội đều đột nhiên im lặng. Cả đại hội
đông người như thế mà không một tiếng nói phát ra, tất cả đều im bặt. Phụ hoàng
của Ngài trông thấy cảnh tượng ấy, nội tâm dâng lên niềm cảm khái phi thường,
liền đặt cho Thái Tử đức hiệu Mâu Ni”.
Họ của hoàng tộc
hợp với đức hiệu của Ngài thành danh từ Thích Ca Mâu Ni. Bốn chữ này thông
thường giải thích như vậy.
Nhưng cũng có
người đứng trên lập trường tôn giáo mà giải thích: Thích Ca gọi là Năng Nhân,
là tiêu biểu cho tâm đại bi của Phật. Dù Phật đã chứng đắc Niết Bàn một cách rốt
ráo, nhưng vì tâm đại bi từ mẫn, Ngài không thể đành lòng để cho tất cả chúng
sanh trầm luân trong sanh tử, không tìm được phương pháp nào để được an trụ
trong cảnh Niết Bàn. Cho nên, Đức Phật dù đã an trụ trong cảnh Niết Bàn, lại
phải từ Niết Bàn tịch tịnh, đi vào cõi sanh tử luân hồi cứu độ chúng
sanh.
Mâu Ni là Tịch
Mặc, biểu thị cho đại trí của Phật, tượng trưng tâm tịch nhiên, mặc nhiên của
Phật. Mặc dù Ngài đi vào cõi sanh tử để cứu độ chúng sanh, nhưng do nơi đại trí
huệ rộng sâu của Ngài, Ngài đã thấu rõ sanh tử là bể khổ mênh mông, hoàn toàn
hư giả, không gì chân thật, dường như mộng huyễn. Cho nên, Ngài dù ở trong cảnh
sanh tử, mà vẫn không trụ trong sanh tử, không bị sanh tử làm loạn động, vẫn an
trụ trong cảnh giới tịch nhiên, mặc nhiên.
Căn cứ vào đây
thì thấy rằng bốn chữ Thích Ca Mâu Ni là hình ảnh của một vị Phật, biểu thị đầy
đủ tính chất Bi, Trí song vận của một bậc Đại Giác. Ngài được tôn xưng là Thích
Ca Mâu Ni chính vì như vậy.
Tiếp theo đây,
xin giải thích ba câu: “Tùng sơ hiện Liên Hoa Đài Tạng thế giới, Đông phương
lai nhập Thiên Vương cung trung, thuyết Ma Thọ Hóa kinh dĩ” – (từ lúc sơ khởi,
hiện thân nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng, rồi qua phương Đông đến tại cung của
Thiên Vương, diễn nói kinh Ma Thọ Hóa).
Liên Hoa Đài
Tạng thế giới chỉ cho Hoa Tạng thế giới trong kinh Hoa Nghiêm thường nói đến,
cũng có chỗ gọi là Hoa Nghiêm Hải Tạng thế giới. Căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm
thuyết minh: “Hoa Tạng thế giới ở trong Đại Hương Thủy Hải. Trong Đại Hương
Thủy Hải này có một thế giới mà hình tượng giống như một đài hoa sen, cho nên
gọi là Liên Hoa Đài Tạng thế giới”.
Nếu chỉ là ý
nghĩa như vậy thì cũng đủ, tại sao lại phải gọi là Liên Hoa Đài Tạng thế
giới?
Chúng ta nên
biết rằng, chữ Tạng nghĩa là ẩn chứa, bao dung, biểu thị cho mười phương pháp
giới được bao dung, hàm tàng trong Liên Hoa Đài Tạng thế giới. Cho nên thêm chữ
Tạng vào danh từ Liên Hoa Đài và gọi đầy đủ là Liên Hoa Đài Tạng thế
giới.
Trong kinh Hoa
Nghiêm thuyết minh: “Hoa Tạng thế giới có nhiều lớp, hết lớp này đến lớp khác.
Trong mỗi lớp có hai mươi lớp nữa, đều thuộc Hoa Tạng thế giới. Cõi Ta Bà của chúng
ta hiện đang cư trú thuộc về lớp thứ 13 của 20 lớp trong Hoa Tạng Hải thế giới;
đồng thời, thế giới Ta Bà nằm ở mạn Đông của thế giới Liên Hoa Đài Tạng nên gọi
là phương Đông”.
Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật vốn ở nơi Liên Hoa Đài Tạng thế giới, nghe đức Lô Xá Na giảng
pháp môn Tâm Địa của Bồ Tát. Sau khi nghe xong, Ngài từ biệt Đức Phật Lô Xá Na,
trở về phương Đông, đến cung của Thiên Vương. Như vậy, thế giới Liên Hoa Đài
Tạng là nơi đức Bổn Sư Thích Ca đến, và cung của Thiên Vương là nơi Đức Bổn Sư
trở về.
Trước tiên, Đức
Bổn Sư cáo biệt đức Lô Xá Na nên kinh nói là “sơ” (trong bản Việt văn gọi là
“sơ khởi”). Sau đó, Ngài xuất hiện nơi thế giới Ta Bà, cho nên nói là “hiện” (bản
Việt văn gọi là “hiện thân”).
Ba chữ Thiên
Vương Cung trong câu: “Lai nhập thiên vương cung trung”, có chỗ nói là Ma Hê
Thủ La thiên cung, nhưng đa số nói là Đâu Suất Thiên Cung (cung của thiên vương
cõi trời Đâu Suất) vì căn cứ vào trong kinh nói, mỗi Đức Phật trước khi hạ sanh
xuống nhân gian thành Phật đều cư trú ở cung trời Đâu Suất.
Đâu Suất là tầng
trời thứ tư của cõi Dục, chia ra làm hai phần:
- Ngoại viện: là
nơi cư trú của phàm phu thiên, cùng tất cả thiên nhơn thông thường của cõi trời
Đâu Suất. Tất cả chư vị cõi này còn thọ hưởng dục lạc.
- Nội viện: nơi
cư trú của vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát và tất cả Bồ Tát khác.
Như đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni của chúng ta, khi chưa hạ sanh trong nhân gian, tất nhiên là cư
trú nơi Đâu Suất nội viện. Đức Di Lặc Bồ Tát đương lai hạ sanh thành Phật, hiện
nay Ngài cũng vẫn cư trú nơi Đâu Suất nội viện.
Căn cứ theo sự
giới thiệu trong kinh Phật, chẳng những Bồ Tát Thích Ca cùng Bồ Tát Di Lặc
thường ngự ở Đâu Suất nội viện để sau đó hạ sanh xuống nhân gian thành Phật, mà
đại phàm, tối hậu thân của chư vị Bồ Tát sắp hạ sanh xuống thế gian, đều an trú
Đâu Suất nội viện.
Trong Phật pháp
thường đề cập ba cõi, 28 từng trời, chư Thiên ở cõi Sắc giới và Vô Sắc giới.
Những phần này hãy tạm gác qua, riêng cõi Dục Giới có 6 tầng trời:
1. Trời Tứ Thiên
Vương.
2. Trời Đao
Lợi.
3. Trời Dạ
Ma.
4. Trời Đâu
Suất.
5. Trời Hóa
Lạc.
6. Trời Tha Hóa
Tự Tại.
Tối hậu thân của
Bổ Xứ Bồ Tát do nguyên nhân nào mà không an trú ở năm cõi Trời kia, lại riêng
ngự nơi cõi trời Đâu Suất Đà?
Đối với vấn đề
này, trong kinh từng nói rõ:
- Chư Thiên ở ba
cõi trời Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên và Dạ Ma Thiên, suốt ngày chỉ đam mê say
đắm trong việc hưởng thọ khoái lạc cảnh ngũ dục, không bao giờ hay biết, hay nghĩ
tưởng đến sự việc phải làm thế nào để thoát ly sanh tử. Cả đến chư Thiên ở cõi
trời Hóa Lạc và Tha Hóa Tự Tại cũng để hết tâm chí buông lung theo cảnh ngũ
dục, không biết, không hay, cũng không từng nghĩ đến phải làm cách nào mong cầu
thoát ly sanh tử.
Vì lý do ấy, tối
hậu thân Bồ Tát quyết không cư trú nơi các cõi ấy. Từ ngữ Đâu Suất Đà là âm
Phạn, Trung Quốc dịch là Tri Túc Thiên, nghĩa là:
-
-
Vì lẽ đó, tối
hậu thân Bồ Tát đều cư trú nơi Đâu Suất thiên cung.
Lại có một
thuyết nữa:
- Ba cõi bên
dưới của Dục Giới thì cực kỳ buông lung theo ngũ dục, trong khi hai cõi Trời
bên trên thì căn cơ lại quá ám độn. Chư Thiên cõi Trời Đâu Suất ly khai được cả
hai thứ đại hoạn nói trên. Vì thế, Bồ Tát đã sợ nơi buông lung, chán nhàm nơi
độn căn, cho nên chỉ cư trú ở Đâu Suất nội viện, mà không cư trú nơi các cõi
Trời khác.
Tối hậu thân Bồ
Tát an trú trong cung thiên vương Đâu Suất nội viện, không phải ở yên trong ấy,
đợi đến ngày hạ sanh xuống nhân gian thành Phật, mà là ngự trong ấy, chủ yếu vì
chư Bồ Tát và tất cả chúng sanh được vãng sanh lên Nội Viện, giảng nói Phật
Pháp.
Cho nên chúng ta
thấy trong Phật Pháp từ trước đến nay vẫn đều thường đề cập đến thuyết Đâu Suất
Tịnh Độ, khuyên mọi người phát nguyện vãng sanh Đâu Suất Tịnh Độ, để được thân
cận với đức Di Lặc Bồ Tát đương lai hạ sanh. Vì thế, chư cổ đức Trung Quốc vãng
sanh lên Đâu Suất nội viện cũng rất nhiều.
Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật sau khi từ biệt Đức Phật Lô Xá Na, trước tiên Ngài đến cung của
thiên vương ở thế giới Ta Bà, nơi phương Đông của Hoa Tạng thế giới, thuyết pháp
hóa độ chúng ma, khiến cho chúng tiếp thọ được sự giáo hóa.
Ma tiếng Ấn Độ
gọi là Ma La, Trung Quốc dịch là Sát Giả; nghĩa là nó có khả năng sát hại huệ
mạng của chúng sanh, khiến cho thân tâm của chúng sanh không thể được tự
tại.
Phật pháp không
đề cập đến Ma thì thôi, nếu đề cập đến thì đều nhắm vào ý nghĩa không tốt. Vì
các thứ này hay nhiễu loạn sự tu hành của hành giả. Nếu căn cứ vào bản ý của
Thiên Ma mà nói thì yêu cầu tối đại của chúng là muốn cho tất cả chúng sanh đều
thành quyến thuộc của chúng.
Nếu chúng sanh
nào cứ mải lặn ngụp trong tam giới, không có ý niệm nghĩ đến pháp xuất ly thì
chúng ma đối với chúng sanh ấy rất là khách khí (tử tế, cung kính, khiêm
nhường, vị nể...). Nếu người đó có yêu cầu việc chi thì Ma có khả năng cung cấp
cho đầy đủ. Nếu muốn hưởng thọ sự khoái lạc, nó cũng đem sự khoái lạc cấp
cho.
Nhưng nếu chúng
sanh nào có tâm niệm mong cầu thoát ly tam giới, ly khai khỏi quyền hạn của Ma,
không chịu làm quyến thuộc của chúng; lúc đó, chúng sẽ bắt đầu lộ ra bộ mặt dữ tợn,
cực lực ngăn trở và phá hoại, không chút vị nể, làm cho chúng sanh ấy không còn
cách nào có thể thoát ly tam giới, vĩnh viễn ở trong quyền quản chưởng của chúng.
Phật giáo nói
đến Ma đương nhiên là rất nhiều. Nhưng khi Đức Phật ở trong cung của Thiên
Vương giảng kinh Ma Thọ Hóa, chủ ý của Đức Phật là khắc phục chúng Ma. Nghĩa
là: Dùng các thứ ngôn giáo để chỉ dạy chúng Ma và cảm hóa Ma chúng, khiến cho
chúng tiếp thọ được sự giáo hóa của Phật, không còn làm những việc nhiễu loạn
các hành giả trong Phật pháp.
Đức Phật ở trong
cung của thiên vương nói kinh Ma Thọ Hóa xong, khiến các Ma chúng tiếp thọ được
sự giáo hóa của Ngài rồi, sau đó, Đức Phật mới hạ sanh xuống Nhân gian và ở nơi
thế gian này thành Phật.
Nơi đây, có một
vấn đề cần phải giải thích rõ: Thông thường nói khi Đức Phật ở dưới cội Bồ Đề
hàng phục được chúng Ma rồi thành đạo. Tại sao hiện tại, kinh này nói Đức Phật
ngự trong cung của thiên vương nói kinh Ma Thọ Hóa? Nếu Ma ở trong cung của
thiên vương đã tiếp thọ sự giáo hóa của Phật rồi thì khi đức Thích Tôn thành
Phật ở nhân gian, sao lại còn phải hàng phục Ma nữa? Lại còn có Ma gì để hàng
phục?
Để giải đáp nghi
vấn này, chúng ta nên biết:
- Ma có rất
nhiều, không phải là một hay hai con Ma mà thôi, nên biết rằng: phía trước,
phía sau, hai bên của hành giả, không lúc nào là không có ma.
- Ma luôn ở sát
bên để dòm ngó. Cho nên, trong cung của Thiên Vương dù đã hàng phục Ma vương,
nhưng đến khi xuất hiện ở thế gian, trước khi thành Phật, Đức Phật vẫn còn phải
hàng phục chúng Ma.
Tuyệt đối không
nên nói rằng Đức Phật ở trong cung của Thiên Vương đã khiến cho Ma Vương tiếp
thọ được sự giáo hóa thì lúc ở nhân gian thành Phật, Phật không cần hàng phục chúng
Ma nữa! Phật biết rằng ở nhân gian cũng có chúng ma cần phải khắc phục. Ngay
khi Đức Phật ở dưới cội Bồ Đề đã hàng phục ma rồi, nhưng không thể nói là ở
nhân gian do vậy mà không còn Ma.
Sự thật vẫn còn
rất nhiều Ma, bằng chứng là sau khi Phật diệt độ, lúc quý đệ tử kiết tập Pháp
Tạng, vẫn từng bị Ma xuất hiện quấy rối. Nếu như tất cả các chúng ma bị hàng
phục rồi, thì lúc kiết tập Pháp Tạng, chư đệ tử Phật đâu còn bị Ma đến quấy phá
nữa. Tuy rằng, các ma ở cung thiên vương cũng như dưới cội Bồ Đề đã được Đức
Phật vận dụng sức đại từ bi, đại trí huệ, đại tinh tiến mà hàng phục chúng. Cho
nên dù có đến đời vị lai, Ma vẫn còn xuất hiện để phá rối. Đó là những chúng Ma
chưa được Phật giáo hóa.
Riêng về kinh Ma
Thọ Hóa, Phật giảng ở trong cung thiên vương; về mặt nội dung, Phật giảng những
gì chúng ta không biết được vì chưa được truyền sang Trung Quốc.
Nói đến Ma thì
có nhiều thứ Ma, không phải chỉ Ma ở bên ngoài. Y cứ theo trong Du Già Bồ Tát
Giới giảng rõ rằng: “Bao nhiêu những thứ lợi dưỡng, danh dự, cung kính, phóng
dật, keo kiết, bỏn xẻn, ham muốn, tức giận, giả dối, kiêu ngạo v.v... đều là
Ma”.
Ngoài ra trong
Pháp Tướng Duy Thức Học cũng nói rõ có nhiều thứ Ma như:
- Tham, sân, si:
Ba thứ này trong kinh thường gọi là Tam Độc, vì nó làm hại tất cả thiện căn của
chúng sanh. Nó là ba thứ tương phản với ba thứ thiện căn: vô tham, vô sân, vô
si.
- Mạn (ngã
mạn).
- Nghi (không
quyết định được chân giả, phải trái).
- Ác kiến (chủng
loại này chia làm năm thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm
thủ).
Sáu thứ ma vừa
kể trên thuộc về Ma căn bản, còn hai mươi thứ sau đây thuộc về ma chi mạt (chi
mạt: cành, ngọn cây), bao gồm:
1. Phẫn (giận).
2. Hận (tâm ấp ủ
sự tức giận không quên).
3. Phú (có tội
lỗi mà che giấu, không chịu phát lồ sám hối).
4. Não (đối với
nghịch cảnh, tâm phát sinh sự nóng nảy, bực tức).
5. Tật (thấy
người hơn mình sanh lòng ganh ghét).
6. Xan (có của
cải, tiền tài sanh tâm keo kiết, cất giấu, không bố thí).
7. Cuống (đối
với mọi người giả dối, không chân thật).
8. Siểm (dua
nịnh mọi người).
9. Hại (có ác ý
làm tổn hoại loài hữu tình).
10. Kiêu (kiêu
căng, ngạo mạn).
11. Vô tàm (tự
mình có lỗi mà không biết hổ thẹn).
12. Vô quý (bản
thân có lỗi mà đối với người khác không biết hổ thẹn).
13. Trạo cử (nội
tâm loạn động, lăng xăng).
14. Hôn trầm
(tâm hồn không sáng suốt, tỉnh táo).
15. Bất tín
(không có niềm tin chánh đáng).
16. Giải đãi
(lười biếng, không siêng năng).
17. Phóng dật
(buông lung theo bản năng).
18. Thất niệm
(không giữ được chánh niệm).
19. Tán loạn
(tâm không ổn định).
20. Bất chánh
tri (hiểu biết sai lầm).
Sáu thứ ma căn
bản và 20 thứ ma chi mạt trong Duy Thức Học vừa kể trên hằng ngày chúng ta cần
phải kiểm điểm, mỗi khi chúng vừa xuất hiện trong tâm đều phải lập tức khắc phục.
Ở đây lại còn
một vấn đề cần giải thích nữa:
Hàng thiên nhơn
ở cung trời Đâu Suất thường tu tập Thiền Định, hỷ túc, vốn không bị ma nhiễu
loạn, nên đương nhiên không có ma để hàng phục. Thế nhưng tại sao trong kinh
văn lại nói Đức Phật ngự trong cung Thiên vương, nơi cõi trời Đâu Suất, giảng
nói kinh Ma Thọ Hóa? Hơn nữa, thông thường khi nói đến Thiên Ma, không phải chỉ
cho Thiên Ma ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại mà chính là chỉ cho Thiên Ma ở cõi trời Ma
Hê Thủ La. Như vậy, về điểm này không có sự thống nhất, làm sao có thể hội
thông được?
Nên biết cung
trời Đâu Suất trong kinh văn là nơi ở giữa cõi trời Lục Dục và Phạm Thế, nhưng
vì Đức Phật thường chủ trương theo Lý Trung Đạo nên dù Ngài ngự ở cung Thiên Vương
nơi cõi trời Đâu Suất thì thật ra cung của Ma vương cũng ở trong đó. Vì vậy,
khi nói Phật ngự trong cung của Thiên Vương giảng nói kinh Ma Thọ Hóa thì không
có gì nghịch lý.
Ngay đến như
cung điện của Thiên Vương cõi trời Ma Hê Thủ La từ trước đến nay cho là thuộc
phạm vi cõi trời Tứ Thiền, nhưng trời Tứ Thiền là tột đỉnh của Sắc Giới, tổng
cộng có chín tầng, phía trên là cõi Ngũ Bất Hoàn Thiên, nơi cư trú của Đệ Tam
Quả Thánh Nhân. Lẽ tất nhiên là không bao giờ có Ma ở cõi ấy, đến như trên đảnh
của Sắc Giới lại có cung điện của đức Tỳ Lô Xá Na. Chư đại Bồ Tát thường tụ hợp
trong ấy và cũng không bao giờ có Ma. Cho nên có người cho rằng Đức Phật ngự
trong cung của Ma Vương, trên cõi trời Tha Hóa Tự Tại giảng nói kinh Ma Thọ Hóa
này, rồi sau mới vào Đâu Suất nội viện.
Nhưng cũng có
người cho rằng Đức Thích Tôn sau khi từ biệt đức Lô Xá Na, đích xác là Ngài vào
trong cung của Thiên Vương cõi trời Đâu Suất. Lúc ấy, những Ma vương có đầy đủ nhân
duyên được độ thoát đã thuần thục, tự động đi vào cung của Thiên Vương cõi trời
Đâu Suất để tiếp thọ sự giáo hóa của Phật. Thuyết này được đa số thừa nhận nên
hiện tại tôi cũng chấp nhận lối giải thích này.
Khi Đức Phật ở
trong cung của Thiên Vương giảng kinh Ma Thọ Hóa xong, Ngài chuẩn bị giáng sanh
xuống cõi nhân gian của chúng ta đang cư trú. Nhưng trước khi hạ sanh, thoạt
tiên, Ngài dùng Thiên Nhãn quan sát cảnh nhân gian, thấy tất cả chúng sanh đều
là những kẻ tạo ác nghiệp thì nhiều, mà tu theo thiện pháp thì ít. Do đó, bị
các thứ khổ não vây quanh và đánh phá.
Nội tâm của Ngài
cảm thấy xúc động tột cùng, Ngài tự nghĩ nên hạ sanh xuống thế gian để cứu độ
chúng sanh sớm được ngày nào càng tốt, để giúp chúng sanh tất cả đều được hưởng
hạnh phúc an lạc. Vẫn biết rằng trong pháp giới chúng sanh, có người căn cơ
nghiệp chướng nặng nề, không dễ gì giáo hóa. Nhưng cũng có những kẻ căn cơ đã
thuần thục, có thể hóa độ được. Cho nên, Ngài quyết định: Trước tiên phải hạ
sanh ở nhân gian để giáo hóa những chúng sanh có thể tiếp thọ được sự giáo hóa,
khiến cho chúng sanh đó được giải thoát.
Ngài lại vì
những chúng sanh khó hóa độ, làm nhơn duyên được độ, để mong cho chúng gieo
trồng thiện căn giải thoát ở cõi đời vị lai. Đồng thời, Ngài lại vì muốn cho sự
độ sanh được thuận lợi, nên quán sát kỹ năm việc:
1. Quán sát căn
cơ tất cả chúng sanh trong nhân gian, xem tất cả đã rốt ráo thuần thục hay
không.
2. Quán sát thời
cơ Ngài hạ sanh ở nhân gian và thành Phật đã thật đúng lúc hay chưa đúng
lúc.
3. Quán sát tất
cả quốc độ trong nhân gian một cách tường tận, xem Ngài nên sanh vào quốc độ
nào. Vấn đề lựa chọn quốc độ để hạ sanh, không phải căn cứ vào tiêu chuẩn giàu
có, cường thịnh, mà căn cứ vào tiêu chuẩn quốc độ nào nằm ở vị trí trung tâm để
thuận tiện cho việc khai hóa.
4. Quán sát
chủng tánh trong nhân gian một cách rốt ráo, xem chủng tánh nào cao quý, thù
thắng để thọ sanh. Vì chúng sanh ở thế gian đều có quan niệm những người thuộc
dòng dõi cao quý, nói chuyện hay giảng đạo dễ được mọi người tiếp thọ. Vì thế,
nếu hạ sanh vào trong chủng tộc tầm thường, khi giảng đạo hoặc nói chuyện,
người khác không tiếp thọ, thì mất ý nghĩa hạ sanh ở nhân gian để giáo hóa
chúng sanh.
5. Quán sát tất
cả nam nữ trên thế gian, rốt ráo xem người nào có đủ tư cách làm cha mẹ
mình.
Sự quán sát của
Phật đã kết thúc, Ngài thấy rõ căn cơ của chúng sanh đã thuần thục, thời cơ hạ
sanh đã đúng lúc, nước Ca Di La là trung tâm điểm của thế giới, dòng họ Sát Đế
Lợi là thuộc về chủng tộc cao quý, Tịnh Phạn đại vương và Ma Gia hoàng hậu có
thể kham nhận làm cha mẹ của mình.
Sự quán sát đã
kết thúc, Đức Phật quyết định hạ sanh nơi nước Ca Di La của châu Nam Diêm Phù
Đề, thọ sanh nơi mẫu thân là Ma Gia, phụ thân tự là Bạch Tịnh, danh hiệu của Ngài
gọi là Tất Đạt (câu này bổn Việt Văn dịch: “Nhũ danh của Ngài là Tất Đạt
Đa”).
Thế giới của
chúng ta hiện đang cư trú, trong kinh chia làm 4 đại bộ châu:
- Phía Đông là
Đông Thắng Thần Châu.
- Phía Tây là
Tây Ngưu Hóa Châu.
- Phía Bắc là
Bắc Câu Lô Châu.
- Phía Nam là
Nam Thiệm Bộ Châu.
Nam Thiệm Bộ
Châu cũng là địa phương hiện tại chúng ta đang cư trú, có chỗ dịch là Nam Diêm
Phù Đề. Theo trong kinh điển thuyết minh, chẳng những đức Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni giáng sanh ở châu Nam Diêm Phù Đề trong nhân gian này, mà tất cả chư Phật
trên thế giới này đều giáng sanh và thành Phật ở cõi Nam Diêm Phù Đề này.
Nam Diêm Phù
Đề là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Thắng Kim. Theo tương truyền, phía Bắc
châu Diêm Phù Đề có một đại thọ thật cao lớn, gọi là Diêm Phù Đề thọ. Dưới đại thọ
ấy có một con sông lớn, cát trong sông ấy toàn là màu tử kim, là thứ kim trấp
(nước vàng), từ trên đại thọ chảy ra mà thành cát tử kim. Như thế, chúng ta
biết đại thọ này là do nơi con sông lớn mà có tên, và châu Diêm Phù Đề là do
đại thọ mà đặt tên.
Tại vì sao chư
Phật đều xuất hiện ở châu Diêm Phù Đề mà thành Phật?
Việc này trong
kinh A Hàm, Đức Thế Tôn từng dạy rõ: Châu Nam Diêm Phù Đề trong nhân gian có ba
đặc điểm, mà ba châu khác không sánh kịp. Ba đặc điểm ấy như sau:
- Phạm hạnh thù
thắng: Phạm hạnh là tu tập hạnh thanh tịnh. Do nơi tu tập hạnh thanh tịnh này
mà khiến cho thân tâm của mỗi cá nhân được tập hợp với lý thanh tịnh, thậm chí còn
làm những việc hữu ích cho nhân quần xã hội. Tinh thần đạo đức của nhân loại
chính do nơi đây mà được phát triển và điểm đặc sắc của con người, gọi là bản
chất Người, cũng từ nơi đây mà được biểu lộ đầy đủ.
- Ức niệm thù
thắng: “Ức niệm” nghĩa là đối với những việc đã kinh nghiệm có công năng lưu
giữ trong tâm, bỗng nhiên một lúc nào đó có thể ghi nhớ lại rõ ràng. Chính vì
chúng ta có khả năng ghi nhớ những việc dĩ vãng, nên đối với lịch sử, văn hóa,
chúng ta có thể bảo tồn, và từ trong ký ức tích lũy kinh nghiệm, chúng ta có
thể khai phát trí huệ để giải quyết mọi vấn đề.
- Tinh tấn thù
thắng: Người ở châu Nam Diêm Phù Đề có tinh thần nhẫn nại đặc biệt trước những
khó khăn, khổ nhọc. Trong bất cứ hoàn cảnh dù khắc nghiệt thế nào, hay tình trạng
sinh sống cơ cực cỡ nào, họ đều có thể vận dụng tất cả nghị lực khắc phục và vô
cùng tinh tấn, hướng về mục tiêu của mình đã nhắm đến. Nếu chưa đạt đến mục
đích, họ quyết không dừng nghỉ. Có thể nói, đây chính là điểm ưu thắng tối đại
của loài người ở Nam Thiệm Bộ Châu.
Ngoài ba đặc
điểm nói trên, cõi Nam Diêm Phù Đề còn có một thắng duyên cực tốt mà cả ba châu
kia không hề có. Đó là chư Phật xuất thế, thành Phật trong nhân gian, đều ở Nam
Thiệm Bộ Châu.
Phẩm Đẳng Kiến
trong kinh Tăng Nhứt A Hàm thuyết minh: “Chư Phật Thế Tôn giai xuất nhân gian,
chung bất tại thiên thượng thành Phật giả” (chư Phật Thế Tôn đều xuất hiện và
thành Phật tại thế gian, không bao giờ ở thiên giới mà thành Phật vậy).
Căn cứ theo Phật
pháp Tiểu Thừa, thì không có một Đức Phật nào thành Phật ở trên cõi trời.
Vì thế chúng
sanh ở Nam Thiệm Bộ Châu đặc biệt có rất nhiều cơ hội gặp Phật cũng như nhân
duyên nghe pháp cũng rất thù thắng. Cho nên làm người trên thế gian được sanh ở
châu Nam Diêm Phù Đề, nói theo lãnh vực Phật pháp, người ấy rất có phước báo và
đầy đủ thiện căn thù thắng vậy.
Châu Nam Diêm
Phù Đề là một châu rất rộng lớn và có rất nhiều quốc gia. Khi một vị Phật giáng
sanh, không phải tùy tiện bất cứ nơi nào Ngài cũng giáng sanh được, mà cần phải
xuất hiện nơi trung tâm điểm của Nam Châu để biểu thị Đức Phật thường an trú trong
lý Trung Đạo. Trung tâm điểm của Nam Diêm Phù Đề này dưới sự quan sát của Phật
nhãn, chính là nước Ca Tỳ La Vệ (Ca Di La), Trung Quốc dịch là Hoàng Phát (tóc
vàng). Có hai lối giải thích từ ngữ này:
- Tương truyền
rằng vào thuở xa xưa, nơi nước Ca Di La này có một vị tiên nhơn tóc vàng tu
hành. Từ đó về sau, con cháu nhiều đời sau này của Hoàng Phát tiên nhơn tiếp
tục cư trú nơi đấy, nên gọi nước này là Hoàng Phát.
- Thông thường
mọi người cho rằng trong năm màu (đen, trắng, xanh, đỏ, vàng) thì hoàng sắc
(màu vàng) là biểu thị cho lý Trung Đạo. Và quốc hiệu Ca Di La, người Trung
Quốc dịch là Hoàng Phát, là nhắm vào nguyên lý Trung Đạo này vậy.
Về lãnh vực lịch
sử, xưa kia người Ấn Độ thuộc chủng tộc Nhã Lụy An. Suy cứu về nguồn gốc phát
tích của chủng tộc này từ phương Đông hay phương Tây đến, các nhà sử học tranh
luận nhiều, nhưng chưa đi đến kết luận. Nhưng theo ý nghĩa phiên dịch danh từ
Hoàng Phát thì chủng tộc của nước Ca Di La chúng ta nên đồng ý rằng đó là người
Hoàng chủng ở Đông phương, không phải là người bạch chủng Nhã Lụy An từ phương
Tây đến. Trong giống người Hoàng chủng đã xuất sanh một bậc Đại Giác Thánh Giả
vĩ đại như thế, đấy là một điều chúng ta phải hết sức vui mừng và hân
hạnh!
Chính khi đức
Bổn Sư Thích Tôn ở cung của Thiên Vương sắp hạ sanh nơi Diêm Phù Đề, Ngài đã
từng quán sát xem người nào xứng đáng làm cha mẹ mình, thì thấy chỉ có Ma Gia
phu nhân kham làm sanh mẫu, Bạch Tịnh Phạn Vương kham làm nghiêm phụ.
Hai chữ “Ma Gia”
nói cho đủ phải là Ma-ha Ma Gia, Trung Quốc dịch là Đại Huyễn Thuật, có chỗ gọi
là Đại Trí Mẫu. Tương truyền, đức Ma Gia chẳng những làm Phật mẫu của đức Thích
Ca mà còn có thể làm mẹ của chư Phật do vì Ngài có thể thành tựu pháp môn Đại
Nguyện Trí Giải Thoát của Bồ Tát, dùng Đại Trí Huyễn Thuật thường làm mẹ chư
Phật.
Đến như vấn đề
nhập thai của Bồ Tát, theo chỗ kiến giải của Đại và Tiểu thừa không thống nhất
nhau.
- Theo kiến giải
của Tiểu thừa thì Bồ Tát ngự trên đại bạch tượng vương, từ hông phía bên mặt
của mẹ mà nhập thai, và cũng an trụ ở hông phía hữu.
- Theo kiến giải
của Đại Thừa thì Bồ Tát ngự trên một lâu các bằng gỗ chiên đàn mà nhập
thai.
Hai lối giải
thích trên hoàn toàn khác nhau. Tên của phụ thân Đức Phật, Trung Quốc dịch là
Bạch Tịnh Phạn Vương, Ấn Độ gọi là Duyệt Đầu Đàn, là quốc vương nước Ca Di La
đương thời. Đức Thế Tôn xuất hiện ở nhân gian không phải sanh vào trong gia
đình của người tầm thường, mà là sanh vào cung vua làm Thái Tử. Sau khi Thái Tử
đản sanh, phụ hoàng và mẫu hậu đặt tên cho Ngài là Tất Đạt Đa.
Danh từ Tất Đạt
Đa, Trung Quốc dịch theo hai nghĩa:
- Đốn Kiết: biểu
thị ý nghĩa khi Đức Phật đản sanh, bỗng nhiên tất cả những điềm tốt lành đều
cùng trong một lúc hiện ra.
- Nhứt Thiết
Nghĩa Thành: biểu thị ý nghĩa Đức Phật xuất hiện ở thế gian này, ở nơi thế tục
làm Chuyển Luân Thánh Vương muốn thành tựu thì không điều gì chẳng thành tựu. Nếu
xuất gia làm bậc Pháp Vương muốn thành tựu thì không pháp nào chẳng thành tựu.
Vì thế nên gọi là Tất Đạt Đa.
(Xin Phật tử lưu
ý: Từ đoạn này về sau, những phần chúng tôi để trong ngoặc đơn chính là phần
dịch nghĩa theo Giới Bổn Việt văn, chúng tôi sẽ không lập những chữ “theo Giới
Bổn Việt văn” mỗi khi dịch nghĩa nữa).
Như trên đã giải
thích nguyên văn trong kinh, từ câu “nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật...” cho đến
“nhũ danh Tất Đạt Đa”. Giờ đây, xin giải thích tiếp:
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
“Thất tuế xuất
gia, tam thập thành đạo, hiệu ngô vi Thích Ca”.
2. Dịch nghĩa:
Bảy năm xuất
gia, ba mươi tuổi thành đạo, hiệu Ngài là Thích Ca Mâu Ni Phật.
Lời giảng:
Từ trước đến nay
một vấn đề quan hệ đến tuổi tác của Đức Phật khi Ngài xuất gia. Từ trước đến
nay, trong kinh thường có hai thuyết:
- Một số kinh
cho rằng Đức Phật xuất gia lúc mười chín tuổi.
- Một số khác
cho rằng Đức Phật xuất gia lúc hai mươi chín tuổi.
Hai thuyết này
đều căn cứ vào Thánh Giáo hẳn hoi. Ngay trong Giới Bổn hiện tại khẳng định rằng
Đức Phật xuất gia vào lúc bảy tuổi. Điều này khó tránh khỏi sự hoài nghi của
mọi người.
Căn cứ vào tiểu
sử Đức Phật: Sau khi Đức Thế Tôn đản sanh, lúc Ngài bảy tuổi mới bắt đầu đọc
sách thì làm sao có thể nói là đi xuất gia. Hơn nữa, sau khi Ngài kết hôn, Ngài
mới thể ngộ sự vô thường, thống khổ của nhân loại. Do đó, Ngài động mối từ tâm,
quyết bỏ hẳn ngai vàng, điện ngọc đi xuất gia để tầm đạo, cứu độ chúng sanh.
Y cứ theo sử
liệu thì Tất Đạt Đa thái tử, năm mười bảy tuổi kết hôn với công chúa Gia Du Đà
La. Dù cũng có nơi nói là mười chín hoặc hai mươi tuổi. Thậm chí có chỗ nói là
Thái Tử kết hôn trước năm mười sáu tuổi. Dù Ấn Độ là một nước nhiệt đới, con
người ở đấy phát dục sớm, nhưng có sớm thế nào thì cũng không thể có chuyện kết
hôn lúc bảy tuổi. Vì bảy tuổi thì lúc bấy giờ thái tử còn là một tiểu hài, làm
sao nói đến chuyện kết hôn?
Hơn nữa, vấn đề
cho rằng Đức Phật thành đạo vào lúc ba mươi hay ba mươi lăm tuổi, trong kinh
cũng có nhiều thuyết bất đồng. Dù là thuyết nào, nhưng nếu cho rằng Đức Phật bảy
tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo, có nghĩa là Đức Phật xuất gia hơn hai
mươi năm, sau mới thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong khi đó, các
kinh thông thường đều nói rằng, sau khi Phật xuất gia, Ngài tu khổ hạnh sáu năm
thì thành Phật. So lại với những điều các thuyết bên trên đã nói thì hoàn toàn
không hợp lý và hợp nhất. Do vậy, giả thuyết bảy tuổi xuất gia, lẽ tự nhiên đã
khiến cho mọi người hoài nghi. Cũng từ đó, chư cổ đức có vị cho rằng “bảy tuổi
xuất gia” nên nói ngược lại là “xuất gia bảy năm”; tức là: ý nói Thái Tử sau khi
xuất gia bảy năm mới thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thuyết vừa nêu
trên, chúng ta thấy rằng hợp lý hơn cả. Vì nếu căn cứ vào thuyết cho rằng Đức
Phật hai mươi chín tuổi xuất gia, ba mươi lăm tuổi thành Đạo, trước sau cách
nhau bảy năm, thì vấn đề nói “bảy tuổi xuất gia” nên đảo lại là “xuất gia bảy
năm”, chúng ta nên hoàn toàn chấp nhận.
* Riêng đối với
thuyết cho rằng: Đức Phật hai mươi chín tuổi xuất gia, hiện tại xin trích dẫn
trong một số kinh điển để chứng minh:
- Trong kinh
Niết Bàn viết bằng tiếng Pali, phái Nam Tông thuyết minh: “Tu Bạt! Ngã nhị thập
cửu tuế xuất gia cầu thiện” (Này Tu Bạt! Ta lúc hai mươi chín tuổi xuất gia để
cầu thiện pháp).
- Kinh Trường
Hàm Du Hành của Bắc Tông thuyết minh: “Ngã niên nhị thập cửu xuất gia cầu thiện
đạo” (Ta lúc hai mươi chín tuổi xuất gia để cầu thiện đạo).
- Trong kinh Đại
Thừa Đại Bát Niết Bàn thuyết minh: “Tu Bạt Đà! Ngã niên nhị thập hữu cửu xuất
gia học đạo” (Này Tu Bạt Đà! Lúc ta hai mươi lẻ chín tuổi xuất gia học
đạo).
Trong Luật Điển
bộ Tạp Sự Luật của Nhứt Thiết Hữu Bộ, quyển 38 thuyết minh: “Ngã niên nhị thập
cửu xuất gia cầu thiện pháp” (lúc Ta hai mươi chín tuổi xuất gia cầu thiện
pháp).
Ngoài ra, còn
các kinh như Tăng Nhứt A Hàm, Trường A Hàm, Trung A Hàm đều nói: Đức Thích Tôn
xuất gia lúc hai mươi chín tuổi.
* Về giả thuyết
nói Đức Phật xuất gia lúc mười chín tuổi thì có kinh, luận: Kinh Tu Hành Bổn
Khởi, kinh Thái Tử Thoại Ứng, kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, Đại Trí Độ Luận
v.v...
Trong bộ Tây Vực
Ký của Huyền Trang Pháp Sư cũng thuyết minh: “Du thành xuất gia, thời diệc bất
định, hoặc vân Bồ Tát niên thập cửu, hoặc vân nhị thập cửu” (Thời điểm vượt
thành xuất gia của Bồ Tát không thống nhất, có chỗ nói là mười chín tuổi, có
nơi nói là hai mươi chín tuổi).
Dù có đến 2
thuyết như vậy, nhưng Phật giáo đồ trên thế giới hiện nay đều thừa nhận sự kiện
Đức Phật xuất gia lúc hai mươi chín tuổi.
Đối với thuyết
này, kinh Vị Tằng Hữu Nhân Duyên cũng có một đoạn ghi như vầy:
“Một hôm, Đức
Phật sai tôn giả Mục Kiền Liên đi về hoàng cung để độ La Hầu La xuất gia, tôn
giả vâng lời Phật dạy, trở về hoàng cung để thăm dò ý kiến của công chúa Gia Du
Đà La.
Biết được sự
kiện ấy, thâm tâm công chúa đau khổ vô cùng. Nàng đến trước tôn giả Mục Kiền
Liên bạch rằng:
- Kính bạch Tôn
Giả! Lúc Như Lai còn làm Thái Tử, Ngài kết hôn với tôi, thời gian chưa đầy chín
năm, Ngài ly khai tôi đi xuất gia, vào chốn thâm sơn cùng cốc tu tập khổ hạnh, trải
qua thời gian sáu năm, đắc thành Phật. Việc Ngài vất bỏ tôi đi xuất gia đã là
một việc nhẫn tâm, thế nhưng tôi không tìm đến Ngài để gây chuyện phá rối,
phiền phức. Như thế cũng là sự hết sức tử tế, khiêm nhượng, cung kính Ngài. Nay
Ngài lại còn bảo tôn giả về bắt đứa bé này là con của tôi xuất gia, tại sao
Ngài nhẫn tâm đến như thế?”
Căn cứ vào đoạn
kinh văn trên, có thể nhận thực rằng Đức Phật xuất gia lúc hai mươi chín tuổi,
xuất gia tu học khổ hạnh sáu năm, đến năm ba mươi lăm tuổi thành đạo quả. So ra
thì thuyết này hợp nhất. Cho nên trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn này nói
“ba mươi tuổi thành đạo”, tôi thiết nghĩ, nên nói là “ba mươi lăm tuổi thành
đạo” mới đúng.
Phụ
chú:
Sở dĩ phải giải
thích, biện luận, dẫn chứng câu kinh văn “thất tuế xuất gia” qua các kinh,
luật, luận một cách cụ thể và chi tiết, vì nếu chỉ y theo câu kinh ấy thì không
phù hợp với tiểu sử Đức Phật.
Nguyên bổn Hán
Văn Bồ Tát Giới lưu truyền từ lâu nói: “Thất tuế xuất gia” (xuất gia lúc bảy
tuổi), với thuyết này, những vị đọc bổn Hán Văn hoàn toàn không hiểu được tại
sao có sự không hợp nhất. Vì trong bổn Việt văn, Hòa Thượng Trí Tịnh dịch:
“Xuất gia bảy năm”, nên ít nhiều cũng gây ra hoang mang cho độc giả. Có vị cho
rằng tôi giải thích như thế là thừa, vì trong Giới Bổn không nói Đức Phật xuất
gia lúc bảy tuổi, cần chi biện luận lung tung?
Nên biết Thượng
Tọa Trí Tịnh, trước khi dịch Giới Bổn Hán văn, Ngài đã khảo cứu các bộ chú sớ
về Bồ Tát Giới trong Đại Tạng. Khi đã khảo cứu tường tận, Ngài thấy nếu y theo
giới bổn Hán văn mà dịch là “bảy tuổi xuất gia” sẽ làm cho quý Phật tử đã thọ
giới Bồ Tát rất hoang mang khi tụng giới, nhất là sẽ hoài nghi về lịch sử Đức
Phật.
Hầu hết Phật tử
Việt
Căn cứ theo bộ
Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Phẩm Hạ Lược Sớ của tổ Hoằng Tán
triều Minh, thì Ngài cho rằng câu “thất tuế xuất gia” do người đời sao chép lúc
bấy giờ đã nhầm lẫn. Nghĩa là: Thay vì viết “xuất gia thất tuế” lại viết lộn
“thất tuế xuất gia”, và người đời sau xem thấy nhưng không dám tự ý sửa
đổi.
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
“Hiệu ngô vi Thích Ca Mâu Ni Phật”.
2. Dịch nghĩa:
Hiệu Ngài là
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Lời giảng:
Đây là thuộc về
thánh hiệu thọ ký không phải tên do cha mẹ đặt. Trong kinh Phật thường nói; Đức
Bổn Sư Thích Tôn, vào thời quá khứ, lúc Ngài còn thực hành Bồ Tát Đạo, đến
a-tăng-kỳ kiếp thứ hai đã mãn, được gặp Đức Phật Nhiên Đăng ở tại nước Liên
Hoa. Bồ Tát phát tâm muốn đến thân cận với Đức Phật để học hỏi kinh pháp.
Trong khi đi
đến, Bồ Tát mua năm đóa hoa sen để cúng dường lên Đức Phật, do nơi nhân duyên
và nguyện lực của Bồ Tát, những đóa hoa ấy kết thành tàn lọng báu. Bất kỳ Đức Phật
đi, đứng chỗ nào, tàn lọng báu ấy đều theo Đức Phật để che cho Ngài. Đồng thời
Bồ Tát Thiện Huệ lại phát thiện nguyện xin dùng tóc của mình trải lên bùn, cầu xin
Đức Phật đạp lên thân mình đi qua, để cầu xin được Đức Phật thọ ký cho Bồ Tát
thành Phật. Nếu như không được Đức Phật thọ ký thì Bồ Tát nguyện nằm mãi dưới đất,
quyết không đức dậy.
Đức Nhiên Đăng
Thế Tôn trông thấy sự chí thành khẩn thiết của Bồ Tát Thiện Huệ như vậy, Ngài
liền đi qua tóc của Bồ Tát và vì Bồ Tát thọ ký rằng: “Thử Thiện Huệ Bồ Tát! Ư
vị lai thế đương đắc tác Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, thập hiệu cụ túc như ngã vô
dị!” (Này Bồ Tát Thiện Huệ! Nơi đời vị lai, Người sẽ được thành Phật, hiệu là
Thích Ca Mâu Ni, đầy đủ mười danh hiệu như Ta đây không khác). Sau khi Đức Phật
vì Bồ Tát Thiện Huệ thọ ký như thế, ngay lúc ấy, Bồ Tát lên ngôi Bát Địa, chứng
được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Ư Tịch Diệt đạo
tràng.
2. Dịch nghĩa:
Nơi đạo tràng
Tịch Diệt.
Lời giảng:
Hai chữ “đạo
tràng” thông thường trong kinh có 2 lối giải thích:
- Chỉ các nơi
hành đạo như: tu viện, điện đường, am thất... đều gọi là “đạo tràng”. Do vì đại
chúng nơi đó dụng công hành đạo.
- Chỗ thành đạo
rốt ráo, chỉ nơi Đức Phật thành đạo.
Nói chung, bốn
chữ “tịch diệt đạo tràng” ở đây ý chỉ nơi thành đạo của chư Phật vậy.
Đại phàm, những
địa phương chư Phật thành đạo, nghĩa là đã đạt thành ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác và tất nhiên, đã hoàn toàn đoạn trừ tất cả phiền não, giải quyết mọi
sanh tử.
Do ý nghĩa này,
chư cổ đức giải thích hai chữ “tịch diệt”: “Tịch ngũ trụ phiền não, diệt nhị
chủng sanh tử” (năm điều phiền não cốt yếu đều vắng lặng, hai mầm mống sanh tử
đã diệt trừ).
Phiền não tuy có
rất nhiều thứ, nhưng chung quy gồm năm thứ chính yếu:
- Kiến nhứt
thiết xứ trụ địa.
- Dục ái trụ địa
- Sắc ái trụ địa
- Vô sắc ái trụ
địa
- Vô minh trụ
địa
Bậc Thánh Nhân
trong Nhị Thừa chỉ có thể đoạn trừ bốn thứ phiền não trên, nhưng đối với Vô
Minh Trụ Địa là loại phiền não rốt sau thì không thể đoạn trừ, chỉ có chư Phật
mới có thể đoạn trừ hết ngũ trụ phiền não mà thôi.
Hai chữ “sanh
tử” trong kinh chia làm hai loại:
- Phần đoạn sanh
tử.
- Biến dịch sanh
tử.
* Phần đoạn sanh
tử: Ví như con người thọ sanh thân mạng ở nhân gian, không luận thọ hay yểu,
lâu hay mau. Có người vừa sanh đã chết, có người thọ mạng được mười hay hai
mươi tuổi, cho đến bảy mươi, tám mươi, một trăm tuổi. Khi sanh mạng kết thúc,
tức là cáo chung một giai đoạn. Chính vì tính cách phân ra từng giai đoạn một
trong sự thọ sanh của sanh chúng phàm phu, nên gọi là “phần đoạn sanh tử”. Thánh
nhân trong Nhị Thừa chứng đến cực quả mới có thể đoạn hẳn chủng loại phần đoạn
sanh tử này.
* Biến dịch sanh
tử: Loại này chẳng những phàm phu không thể đoạn mà đến bậc thánh nhân Nhị Thừa
cũng không thể đoạn trừ. Thứ biến dịch sanh tử này không thể cho là ra ngoài phạm
vi của phần đoạn sanh tử. Thực ra, đó chỉ là những khổ tướng hoặc nghiệp khổ vi
tế ẩn trong tâm thức rất khó nhận biết. Thứ khổ tướng hoặc nghiệp khổ vi tế này
lên đến quả vị Phật mới đoạn trừ hẳn được. Cho nên Đức Phật ở nơi đạo tràng
Tịch Diệt thành Phật, tất nhiên là đã đoạn hẳn hai thứ sanh tử này.
Đối với bốn chữ
“đạo tràng Tịch Diệt” này, chư cổ đức còn giải thích như sau:
Căn cứ về Lý mà
nói, “đạo tràng Tịch Diệt” là chỉ cho sự sở chứng lý tịch diệt thanh tịnh, vô
vi, vô tướng của Bồ Đề Niết Bàn. Có chỗ gọi là viên mãn Bồ Đề, tức là trở về
với chỗ Vô Sở Đắc.
Chư Phật ở trong
lý Tịch Diệt Vô Sở Đắc thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; ở trong lý tịch
diệt Vô Sở Đắc mà ngồi đại đạo tràng, chuyển đại pháp luân. Hoặc còn có nơi nói
Bồ Đề là Trí, Tịch Diệt là Lý. Nghĩa là dùng trí Bồ Đề để chứng lý Tịch Diệt,
cho nên gọi là Tịch Diệt Đạo Tràng.
Kinh
văn
1. Phiên
âm
Tọa Kim Cương
Hoa Quang Vương tòa.
2. Dịch nghĩa:
Ngồi trên bảo
tòa Kim Cương Hoa Quang Vương.
Lời giảng:
Căn cứ theo kinh
thì bảo tòa Kim Cương Hoa Quang Vương này ở cách phía Tây thành Vương Xá nước
Ma Kiệt Đà của Ấn Độ chừng khoảng hơn 100 dặm. Nơi ấy, có một cây đại thọ trước
đó gọi là Tất Bát La. Về sau, do vì Đức Phật ngồi dưới cây đại thọ ấy chứng quả
Vô Thượng Bồ Đề nên được mọi người gọi là Bồ Đề thọ. Đức Phật ngồi nơi bửu tòa
Kim Cương Hoa Quang Vương dưới đại thọ này mà thành Vô Thượng Chánh Giác.
Chẳng những Bổn
Sư Thích Tôn ở thế giới này, ngồi nơi tòa ấy thành Phật, mà nghìn Đức Phật
trong Hiền kiếp này thành Phật đều ngồi nơi Bửu Tòa ấy mà nhập Kim Cương Định, phóng
đại quang minh, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vả lại, theo sự
tương truyền thì lúc thế giới này mới thành lập, bảo tòa này xuất hiện cùng một
lúc với đại địa và chiếm cứ ngay trung tâm của Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Phần
hướng xuống phía dưới thấu tột đến kim luân, phần hướng lên trên ăn liền đến
địa tế (mặt đất). Toàn thể thuần là kim cương tạo thành, chu vi ước chừng hơn một
trăm bộ.
Về phương diện
Phật pháp:
- Kim Cương dùng
chỉ cho Định.
- Hoa Quang chỉ
cho Huệ.
Định, Huệ tương
ứng, đoạn hẳn phần vi tế sinh tướng vô minh rốt sau, được rốt ráo tự do, tự
tại, nên gọi là Vương. Như vị Quốc Vương thời xưa có quyền tự do tuyệt
đối.
Trong kinh Pháp
Hoa thuyết minh: “Phật vi pháp vương, ư pháp tự tại” (Phật là pháp vương, đối
với tất cả các pháp đều được tự tại).
Chữ Pháp ở đây
biểu thị cho Chân Lý, tức ý nói Đức Phật lúc bấy giờ đã thể ngộ chân lý một
cách rốt ráo, ở trong chân lý sinh hoạt một cách tự do, tự tại.
Lưu ý:
Trong bổn Việt
văn dịch: “Từ trên bửu tòa Kim Cương Hoa Quang nơi đạo tràng Tịch Diệt”.
Nếu quý đại sĩ
nào tham cứu giới bổn Hán Văn sẽ thấy nguyên tác ghi: “Ư Tịch Diệt đạo tràng,
tọa Kim Cương Hoa Quang Vương tòa”. Điều này thực ra không phải là sự nhầm lẫn của
dịch giả mà chính vì cách diễn đạt khác nhau giữa Hán văn và Việt văn.
Theo cách nói
của người Việt thì nhóm từ chỉ vị trí, nơi chốn (ngữ trạng từ chỉ nơi chốn),
thường được đặt cuối câu. Do đó, Hòa Thượng Trí Tịnh đã đảo vị trí hai phần của
câu Kinh văn để phù hợp với phong cách Việt văn.
Trong bổn Việt
văn dịch thiếu chữ “vương”.
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Nãi chí Ma Hê
Thủ La Thiên vương cung.
2. Dịch nghĩa:
Nhẫn đến nơi
cung của trời Ma Hê Thủ La (trong giới bổn Việt văn dịch: “Nhẫn đến nơi cung
của Đại Tự Tại Thiên Vương”).
Lời giảng:
Ma Hê Thủ La là
tiếng Ấn Độ, Trung Văn dịch là Đại Tự Tại, Đại Oai Đức hoặc Tam Mục.
Trong bộ Phụ
Hành Ký nói: “Vị thiên vương ở Sắc giới có ba mắt, tám tay, cỡi bạch ngưu, cầm
cây phất phủ trắng, có oai đức rất lớn. Ngài an trụ nơi trụ xứ của Bồ Tát. Trí
huệ của Ngài có thể suốt thấu tất cả mọi việc dù khó hiểu đến đâu, chẳng hạn cả
cõi đại thiên đồng thời có mưa, tất cả những hạt mưa Ngài đều biết rõ, không
sai lầm. Ngài còn có khả năng thống nhiếp khắp cõi tam thiên đại thiên thế
giới. Ở Sắc Giới, vị thiên vương này là vị trời độc tôn, là vị chúa thống lãnh
các vị Đại Phạm Thiên Vương”.
Thực tế mà nói,
vị trời Ma Hê Thủ La này an trụ nơi “xả niệm thanh tịnh địa” đệ tứ thiền thuộc
cõi Sắc, còn gọi là Hữu Đảnh thiên hay Sắc Cứu Cánh thiên.
Thông thường trong
kinh nói Pháp Vân Địa Bồ Tát phần nhiều an trú trong cung trời này mà thuyết
pháp giáo hóa thiên chúng.
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Kỳ trung thứ đệ
thập trụ xứ sở thuyết.
2. Dịch nghĩa:
Trong mười nơi
ấy, Đức Phật tuần tự ngự đến thuyết pháp.
Lời giảng:
Đây ý nói Đức
Phật ở mười nơi khác nhau giảng nói mười pháp môn khác nhau.
Cảnh giới của
Đức Phật khi thành Phật, căn cơ của Đại Thừa và Tiểu Thừa nhận thức không đồng.
Hàng Đại Thừa Bồ Tát thì thấy Đức Phật khi mới thành đạo đến nơi cung trời Đại
Tự Tại thiên vương ở Đệ Tứ Thiền, phóng quang tiếp dắt đại chúng ở thế giới này
đi về trong cung Bách Vạn Ức Tử Kim Cương Quang Minh ở thế giới Liên Hoa Đài
Tạng, để ra mắt Đức Phật Lô Xá Na và nghe Ngài giảng pháp môn Tâm Địa. Sau đó,
trở lại cõi nhân gian này, ngồi dưới cội Bồ Đề, xuất định, giảng nói chánh
pháp. Mười nơi Đức Phật tuần tự đến thuyết pháp:
1. Ngồi nơi tòa
Kim Cương Thiên Quang Vương và Diệu Quang Đường, giảng nói pháp môn Thập Thế
Giới Hải, tức là hội đầu tiên của pháp môn Thập Tín.
2. Lại từ bảo
tòa đứng dậy, đến cung trời Đế Thích, tuần tự giảng nói pháp môn Thập
Trụ.
3. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Diệm Ma, tuần tự giảng pháp môn Thập Hạnh.
4. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Đâu Suất, tuần tự giảng nói pháp môn Thập Hồi
Hướng.
5. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Hóa Lạc, tuần tự giảng nói pháp môn Thập Thiền
Định.
6. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại, tuần tự giảng pháp môn Thập Địa.
7. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Sơ Thiền, tuần tự giảng nói pháp môn Thập Kim
Cương.
8. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Nhị Thiền, tuần tự giảng nói pháp môn Thập Nhẫn.
9. Từ bảo tòa
đứng dậy, đến cõi trời Tam Thiền, tuần tự giảng nói pháp môn Thập Nguyện.
10. Cuối cùng
Đức Phật đến cung Đại Tự Tại thiên ở Đệ Tứ Thiền, giảng nói pháp môn Tâm Địa,
do đức Lô Xá Na Phật đã giảng ở Liên Hoa Đài Tạng thế giới trước kia.
Đối với vấn đề
Đức Phật thuyết pháp ở mười nơi, kinh này nơi quyển thượng có giảng giải và chư
cổ đức đối với đoạn kinh văn này cũng đã giải thích tường tận. Nơi đây tôi chỉ
nói sơ lược.
Chú thích:
1. Tối hậu thân
Bồ Tát:
Còn gọi là tối
hậu sanh hoặc tối hậu hữu, hoặc hậu thân Bồ Tát, tức là thân rốt sau của Bồ Tát
trong đường sanh tử. Sau đó, Bồ Tát đắc quả thành Phật.
- Luận Câu Xá
quyển mười tám nói: “Trụ tối hậu hữu gọi là tối hậu sanh”.
- Bộ Câu Xá
Quang Ký quyển 18 giải thích: “Tối hậu sanh tức chỉ cho thân sanh trong vương
cung”.
- Trong Du
Già Lược Soán Luận thuyết minh: “Tối hậu thân nghĩa là đã sanh ở cõi Dục Giới,
thì chính ở nơi thân này thành đạo. Vì thế, nên thân này là thân tối hậu hữu, ở
trong sanh tử nên gọi là tối hậu thân”.
2. Ngũ Bất Hoàn
Thiên:
Còn gọi là
Ngũ Tịnh Cư thiên, bậc thánh nhân đã chứng quả Bất Hoàn ở Đệ Tứ Thiền cõi Sắc.
Chỗ của thánh
nhân sanh này có năm cảnh giới sau đây:
- Vô Phiền
Thiên: cảnh trời này là cảnh giới hoàn toàn không còn những phiền tạp nên gọi
là Vô Phiền Thiên.
- Vô Nhiệt
Thiên: cảnh trời này hoàn toàn không có sự nhiệt não.
- Thiện Hiện
Thiên: cảnh trời này những thiện pháp thù thắng thường xuất hiện.
- Thiện Kiến
Thiên: cảnh trời này thường thấy được những thiện pháp thù thắng.
- Sắc Cứu Cánh
Thiên: cảnh trời này là tối thắng Sắc Giới thiên. Trong Thế Phẩm của bộ
Câu Xá Tịnh Sớ thuyết minh: “Vì sao năm cõi trời trên gọi là Tịnh Cư thiên? Vì năm
cõi ấy, chỉ có thánh nhơn cư trú, không có phàm phu xen lẫn, nên gọi là Tịnh Cư
thiên”.
3. Đốn
Kiết:
Đốn Kiết ở đây
chỉ cho việc khi Thái Tử sắp đản sanh, có rất nhiều điềm lành xuất hiện. Gồm có
tất cả ba mươi bốn thứ thoại ứng. Nhưng trước khi liệt kê, thiết tưởng chúng ta
nên biết qua tình trạng của Bồ Tát khi còn ở trong thai.
Khi còn trong
thai mẹ, Ngài không bao giờ làm cho mẫu thân có những khổ não, lo buồn và nhất
thiết mọi tư thế đi, đứng, nằm, ngồi đều được tự tại, không bị chướng ngại. Đấy
là đối với mẫu thân.
Riêng đối với
chúng sanh, Ngài luôn thực hành sự lợi tha giáo hóa, nên vô lượng chúng sanh
đều được sự lợi ích thuần thục. Ngày đêm phân ra làm sáu thời:
- Buổi mai, Ngài
vì chư Thiên cõi Sắc giảng diệu pháp.
- Khi giữa trưa
(đứng bóng), Ngài vì chư Thiên cõi Dục chỉ dạy, giảng nói các pháp.
- Buổi chiều, vì
quỷ thần giảng pháp.
- Ban đêm cũng
chia ba thời như vậy.
Khi phu nhơn
mang thai ngày tháng sắp đủ, bà muốn ngự ra chốn viên lâm để ngoạn cảnh, Bạch
Tịnh Đại Vương hay tin, liền hạ lịnh quét dọn sạch sẽ khu vườn Lâm Tỳ Ni.
Chi tiết này
trong kinh Hoa Nghiêm thuyết minh: “Khi phu nhân mang thai đã đủ mười tháng,
vào ngày mùng Tám tháng Tư, khi mặt trời sắp mọc, phu nhân trông thấy trong
vườn có một cây đại thọ mang tên là Vô Ưu, đang nở hoa màu sắc tươi đẹp, lại
ngát hương. Cành cây tỏa ra bốn phía vô cùng xum xuê, tươi tốt. Phu nhân đưa
tay phải định kéo cành hoa để hái, Bồ Tát từ nơi hông phải của mẹ thoát
thai”.
“Chính lúc ấy,
dưới đại thọ bỗng hiện bảy đóa hoa sen bằng thất bảo lớn như bánh xe. Bồ Tát
Thích Ca rơi trên hoa sen. Không cần người dìu đỡ, Ngài tự đi bảy bước, đưa tay
hữu lên, phát ra âm thanh sư tử hẩu” (tiếng rống của sư tử. Nên biết sư tử là
vua trong muôn thú. Khi nó thét một tiếng, tất cả mọi loài thú đều nép phục sợ
hãi. Ở đây dùng thí dụ này để chỉ cho âm thanh của Phật cũng vậy. Nghĩa là
tiếng nói của Phật khiến tất cả thiên ma, ngoại đạo khi nghe đến đều phải quy
hàng).
Câu nói đầu tiên
của Ngài là “thiên thượng, thiên hạ, duy Ngã độc tôn” (ta ở trong tất cả nhân,
thiên là bực tối tôn, tối thắng, không ai hơn được).
Ngay chính lúc
ấy, 34 điềm lành cảm ứng hiện ra:
1) Mười phương
thế giới chiếu sáng rực rỡ.
2) Tam thiên đại
thiên thế giới có mười tám thứ chấn động. Trong kinh thường gọi sáu loại chấn
động, nhưng trong đây nói có mười tám tướng vì sự chấn động của đại địa có 3
loại, mỗi loại có sáu thứ, tổng cộng thành mười tám thứ. Ba loại chấn động:
động lục thời, động lục phương, động lục tướng.
+ Động lục thời:
sáu thời kỳ chấn động của đại địa. Kinh Trường A Hàm thuyết minh sáu thời kỳ
này:
- Lúc Phật nhập
thai.
- Lúc Phật xuất
thai.
- Lúc Phật thành
đạo.
- Lúc Phật
chuyển pháp luân.
- Lúc thiên ma
khuyến thỉnh và Phật sắp nhập Niết Bàn.
- Lúc Phật nhập
Niết Bàn.
+ Động lục
phương: cả sáu phương Đông,
+ Động lục
tướng: Trong sáu loại này, ba thứ đầu thuộc về tướng, ba thứ sau thuộc về
thanh. Nơi đây chỉ nêu tên 18 thứ, muốn hiểu rõ xin tham khảo các kinh Đại Niết
Bàn, Đại Bát Nhã v.v...
- Động (chấn
động).
- Dũng (bắn vọt
lên).
- Chấn (rung
chuyển).
- Kích
(đánh).
- Hẩu (tiếng
rống).
- Bộc (tiếng
nổ).
3) Trên quả đất,
những gò nổng trở nên bằng phẳng, cây khô tươi lại, đâm chồi nẩy lộc, lá cành
xum xuê tươi tốt, trong cõi nước mọc những cây kỳ đặc (kỳ hoa dị thảo).
4) Cây cối sanh
ra những trái ngon ngọt dị thường.
5) Trên đất liền
bỗng tự nhiên sanh ra những hoa sen báu lớn như bánh xe.
6) Những kho
tàng ẩn trong các kho phát tia sáng rực rỡ.
7) Những trân
bảo trong các kho phát tia sáng rực rỡ.
8) Những y phục
thượng diệu trên cõi trời tự nhiên rơi xuống.
9) Muôn ngàn
sông suối nước đều đứng lặng và trong trẻo.
10) Gió im phăng
phắc, mây lành bủa giăng đầy khắp cõi hư không.
11) Gió thơm từ
bốn phương thổi đến bát ngát hương thơm và những đám mưa nhẹ rưới xuống khiến
mặt đất được im mát, không bị vẩn bụi.
12) Tất cả người
bệnh trong nước đều được hồi phục sức khoẻ và trở lại bình thường.
13) Những cung
điện, phòng ốc trong nước đều rực sáng, không cần đèn nến.
14) Mặt trời,
mặt trăng, sao trên không đều đình trụ không di động.
15) Sao Tỳ Xá
Khư (kiết tinh) hiện xuống nhân gian, đợi giờ đản sanh của Thái Tử.
16) Các Phạm
thiên vương cầm lọng báu, đứng sắp hàng che khắp trên cung điện.
17)
18) Trăm thức ăn
ngon quý ở cõi trời tự nhiên hiện ra.
19) Có vô số
bình báu đựng nước Cam Lồ.
20) Các thứ xe
đẹp quý ở cõi trời chở báu vật đến.
21) Có vô số voi
trắng đầu đội hoa sen đứng sắp hàng trước cung điện.
22) Bảo mã thiên
thanh tự nhiên đi đến (ngựa tốt quý báu lông màu xanh biếc như da trời).
23) Có 500 bạch
sư tử vương từ núi Tuyết Sơn đi ra, chúng rất bạo ác, nhưng lúc bấy giờ đều trở
thành hiền thục, không có ác niệm, lòng chúng đều vui mừng.
24) Các kỹ nữ
cõi Trời đứng sắp hàng trên hư không, trỗi các âm nhạc thanh tao, vi
diệu.
25) Các ngọc nữ
trên thiên giới cầm phủ phất lông khổng tước (công) hiện trên vách tường cung
điện.
26) Các ngọc nữ
trên thiên giới cầm bình vàng đựng đầy nước thơm, đứng sắp hàng trên hư không,
rưới cúng dường.
27)
28) Tất cả cảnh
giới địa ngục khi Phật đản sanh đều ngưng hành hạ tội nhơn.
29) Tất cả độc
trùng ẩn núp dưới đất và các ác quỷ đều phát khởi thiện tâm.
30) Những người
sống theo ác luật nghi (6) đều đồng một lúc khởi thiện tâm.
31) Những phụ nữ
có thai trong nước, ngày ấy đều sanh con trai. Nếu người nào mắc phải trăm thứ
bịnh tật liền được tiêu trừ, thân thể lành mạnh.
32) Tất cả Thọ
Thần đều hóa thành hình người, đồng đến đảnh lễ Thái Tử và đứng hầu.
33) Quốc vương
trong các nước đều mang bảo vật danh tiếng đến phụng hiến.
34) Tất cả trời,
người không nói những tiếng phi pháp.
4. Thọ ký
Thọ Ký là tiếng
Trung Hoa, tiếng Phạn gọi là Hòa-già-la, Thọ Ký còn là tên của một trong số
mười hai bộ kinh.
Đức Phật đối với
những chúng sanh đã phát Bồ Đề tâm, thọ ký cho chúng sanh ấy trong tương lai sẽ
thành Phật. Thọ ký có nhiều loại: hai loại, bốn loại, sáu loại, tám loại. Ở đây
chỉ đề cập đến hai loại:
- Vô dư thọ ký:
Khi Đức Phật còn tại thế, thọ ký cho Bồ Tát ở kiếp... thành Phật hiệu... Như
Lai ứng cúng... ở quốc độ nào, quyến thuộc bao nhiêu... Đức Phật nói toàn bộ
một cách rõ ràng, nên gọi là Vô Dư Thọ Ký. Trong kinh Pháp Hoa, Phật từng nói
rằng: “Nếu ta tại thế hoặc sau khi diệt độ, chúng sanh nào được nghe kinh Pháp
Hoa này chừng một câu, một bài kệ đều được ta thọ ký Vô Thượng Bồ Đề”. Ấy là Vô
Dư Thọ Ký.
- Hữu dư thọ ký:
Như trong kinh Đức Phật bảo chúng sanh rằng: “Ông ở đời vị lai khi Đức Phật
xuất thế độ sanh sẽ hết tội này; đức Như Lai ấy sẽ vì ông thọ ký”. Đấy là Hữu
Dư Thọ Ký.
5. Ngũ trụ
phiền não:
Trong kinh thường
gọi là Ngũ Trụ Địa. Tại sao gọi là Trụ Địa? Vì phiền não căn bổn có khả năng
sinh ra phiền não chi mạt (chi: cành, mạt: ngọn) nên gọi là Trụ Địa, cũng như
đất đai có thể sanh trưởng mọi vật.
Có năm loại
Phiền Não Trụ Địa:
- Kiến Nhứt Xứ
Trụ Địa: Chỉ cho những Kiến Hoặc (những sự thấy biết không rõ ràng) trong tam
giới, thân kiến, biên kiến... Khi chứng nhập bậc Kiến Đạo thì đoạn trừ được kiến
hoặc nhứt xứ, cho nên gọi là “kiến nhứt xứ”.
- Dục Ái Trụ
Địa: Nghĩa là trong tất cả các loại phiền não ở Dục Giới, trừ Kiến Hoặc và Vô
Minh Hoặc ra, thì tội ái trước nặng nhất, nên gọi riêng là Ái.
- Sắc Ái Trụ
Địa: Nghĩa là trong tất cả loại phiền não ở Sắc Giới, trừ Kiến Hoặc và Vô Minh
Hoặc ra, thì tội ái trước nặng nhất, nên gọi riêng tên là Ái.
- Hữu Ái Trụ
Địa: Nghĩa là trong các loại phiền não ở Vô Sắc Giới, trừ Kiến Hoặc và Vô Minh
Hoặc ra, thì tội ái trước nặng nhất, cho nên chỉ nêu riêng tên Ái. Chữ Hữu trong
từ Hữu Ái là nguyên do của sanh tử, của phiền não. Nơi Vô Sắc Giới, sanh tử là
quả báo cuối cùng của sự ái trước, cho nên gọi là Hữu Ái.
- Vô Minh Trụ
Địa: vô minh là tâm thức si mê, ám độn, không có trí huệ minh đạt. Ấy là cội
gốc của tất cả mọi phiền não trong tam giới, nên đặc biệt cho nó là một
Trụ.
Trong bộ Đại
Thừa Nghĩa Chương, quyển 5, thuyết minh: Thế nào gọi là Trụ Địa?
- Căn bổn phiền
não làm cơ sở cho chi mạt phiền não nên gọi là Trụ.
- Căn bổn phiền
não sanh ra chi mạt phiền não nên gọi là Địa.
Trong Thắng Man
Kinh Bảo Quật nói: “Căn bổn phiền não sanh ra chi mạt phiền não nên gọi là Địa;
làm cho pháp sở sanh được thành lập nên gọi là Trụ”.
(Muốn dễ nhớ, dễ
hiểu thì xem biểu đồ Ngũ Trụ Phiền Não)
6. Ác Luật
Nghi:
Luật Nghi là gì?
Nghĩa là ấn định thời gian, công việc, rồi theo chương trình, quy chế đó mà giữ
gìn và thực hành đúng theo như vậy.
Có hai loại Luật
Nghi:
- Thiện luật
nghi: những giới pháp của Đức Phật chế lập cho hàng đệ tử để y theo đó mà phụng
hành, không được trái phạm.
- Ác luật nghi:
những người làm nghề săn bắn, chài lưới...
Là Phật tử bất
luận tại gia hay xuất gia, chẳng những không được làm theo ác luật, mà lại còn
phải xa lánh những người hành nghề theo Ác Luật Nghi.
Phẩm An Lạc Hạnh
trong kinh Pháp Hoa đã dạy: “Người tu hành không được thân cận Chiên-đà-la,
cùng những người sống theo Ác Luật Nghi như nuôi heo, gà, chó... cùng những
người làm nghề săn bắn, chài lưới...”
7. Chiên Đà
La:
Còn gọi là Chiên
Đồ La, Trung Hoa dịch ra nhiều danh từ như Đồ Giả, Nghiêm Xí, Chấp Bạo Ác Nhơn,
Hạ Tánh v.v... Hạng loại Chiên Đà La này ở ngoài tứ tánh. Những người thuộc
hạng này chuyên làm việc sát hại nên gọi là Đồ Giả.
Nghiêm Xí:
- Nghiêm: Chuyên
làm những ác nghiệp để tự nghiêm sức nơi thân.
- Xí: gọi đủ là
“tiêu xí”, những người thuộc hạng này, lúc đi ra đường thường cầm chuông rung
hay gõ mõ tre để làm cho mọi người nghe thấy (tiêu: nêu ra, nêu lên cho mọi người
thấy biết; xí: nghĩa đen là nhón chân lên mà trông cho rõ, nghĩa bóng là trù
tính kế hoạch để tạo lợi).
Trong bộ Tây Vực
Ký nói: “Người chủng tộc Chiên Đà La lúc đi đường phải rung chuông, hoặc gõ lên
cây tre chẻ đầu, để làm tiêu xí, nếu không sẽ bị quốc vương hành tội”.
Bộ Pháp Hiển
Truyện thuyết minh: “Chiên Đà La gọi là “ác nhân”, phải sống riêng biệt không
được ở chung với người khác. Nếu khi vào trong thành thị cần đánh mõ, rung
chuông để mọi người nghe thấy mà tránh xa, không được đường đột xông pha vào
chỗ đông người”.