KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.2. ĐẠO GIỚI (giới trộm cướp)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử...” cho đến câu: “...thị Bồ Tát Ba La Di tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử tự
mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp nhẫn đến dùng bùa
chú trộm cướp. Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp. Tất cả các
tài vật có chủ, dầu là của quỷ, thần hay kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim,
một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật tử lẽ ra phải luôn luôn có lòng
từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui; mà trái
lại, trộm cướp tài vật của người, Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Phật pháp phân
biệt sanh mạng chúng sanh làm hai loại:
- Ngoại sanh
mạng: Tất cả y thực, tài vật. Sanh mạng thể của chúng sanh được sanh tồn trên
thế gian này do nhờ sự duy trì của y thực, tài vật. Chúng ta thử nghĩ một người
sống ở đời này nếu không có sự tư trợ của vật chất thì làm sao sanh tồn được?
Nên bất cứ ai muốn sanh mạng của mình sanh tồn, phải nhờ sự duy trì, nuôi sống
của vật chất. Cho nên sát sanh là giải quyết lấy nội sanh mạng của chúng sanh,
trộm cắp là đoạt lấy ngoại sanh mạng của chúng sanh.
Lại nữa, nhân
sinh từ mai đến chiều bận rộn, cực nhọc để làm gì? Đều vì vấn đề cơm ăn, áo
mặc; nhưng suốt đời bôn ba vì áo mặc, cơm ăn để làm chi?
Để duy trì sanh
mạng. Vì nếu không có y thực, tài vật v.v... thì sanh mạng không thể sống còn.
Vì thế, y thực, tài vật của người mình không nên đoạt lấy. Nếu trộm cắp hết tài
vật của người khác khiến cho sự sanh sống của người ấy trở thành vấn đề nan
giải, không khác chi gián tiếp đoạt nội sanh mạng của người.
Trong Trí Độ
Luận, quyển 13, Tổ Long Thọ thuyết minh:
Nhất thiết chư
chúng sanh,
Y thực dĩ tự
hoạt.
Nhược kiếp, nhược
đoạt thủ,
Tức vi kiếp đoạt
mạng.
Dịch:
Tất cả chúng
sanh trên thế gian,
Nương nhờ áo cơm
mà sống còn.
Nếu như cướp
đoạt lấy của người,
Tức là cướp đoạt
sanh mạng người.
Vì trạng huống
này, nên làm người, lẽ đương nhiên không được trộm lấy của người. Nếu trộm lấy
là phạm giới.
Nhưng thế nào
trộm cắp?
Trong giới luật
nói: Không cho mà tự lấy gọi là trộm cắp. Tức là người không có tâm đem tài vật
ấy cho mình mà mình tự tiện lấy đi, gọi là “không cho mà tự lấy”.
Không cho mà lấy
có những loại như sau:
- Kiếp thủ (cướp
lấy): dùng sức lực đoạt tài vật của người một cách trắng trợn, công khai, không
cần chủ của tài vật ấy bằng lòng cho hay không, cứ tự tiện theo ý của mình,
đoạt tài vật của người đem đi. Như thế gian thường nói những kẻ cường đạo, tự ỷ
quyền thế đem những hung cụ vào nhà người, như chĩa súng vào ngực, đóng đinh vào
tai v.v... rồi tự ý lấy ngang của người đem đi.
- Hậu thủ (trộm
lấy): tránh né tai mắt của chủ vật, lúc chủ vật không để ý, thừa dịp lấy im
lặng rồi đem đi, như trên báo chí hằng ngày thường đăng tải. Chẳng hạn, ngày
Chủ Nhật, gia đình nào đó có duyên sự phải đi ra ngoài để giải trí hay xem hát,
mấy chú tiểu đạo tặc thừa dịp trong nhà không ai, yên lặng lủi vào nhà người,
bẻ khóa, mở tủ, đập rương, lấy đồ vật của người đem đi. Đó là loại thâu thủ thứ
hai này.
- Hách thủ (dọa
lấy): biết một người nào đó có điều gì bí ẩn, dùng cớ này làm thủ đoạn uy hiếp
đối phương, dọa nạt lấy của tiền, công khai bảo rằng: “Nếu anh không muốn tôi
chỉ vạch việc xấu của anh, hãy mau mau đem tiền của ra, nếu không anh sẽ biết
v.v...” Bấy giờ, người bị uy hiếp kia suy nghĩ: “Mình thật có việc không thể
nói với người”. Vì không muốn người này đem sự tình ấy rao bán, nói với bất cứ
ai, nên phải nhẫn chịu đưa số vàng bạc theo yêu sách để được yên ổn. Đây là
loại hách thủ.
- Phiến thủ (dối
gạt mà lấy): Chữ Phiến thường gọi là “biến”, là dùng những phương pháp dối gạt
người để lấy tiền của mang đi. Khi người chủ phát giác biết đã bị lừa gạt thì
tiền của đã mất rồi. Tình trạng này có thể nói rằng hiện tại đâu đâu cũng
có.
Tóm lại:
Giới trộm cắp
này rất dễ bị phạm, nên Hoằng Nhất luật sư nói: “Theo ý tôi suy nghĩ kỹ, ở
trong năm giới, khó giữ gìn nhất không chi hơn trộm cắp”.
Thông thường mọi
người cho giới trộm cắp không dễ phạm, nhưng Luật Sư lại nhận là một thứ giới
khó giữ vô cùng, chứng tỏ ai ai cũng đều có thể phạm giới này.
* Xin nêu một
vài câu chuyện để làm lệ rõ ràng:
- Như chuyện nhỏ
mọn là việc gởi thư. Viết một lá thư quá dài, đương nhiên thư quá nặng, bưu phí
phải gia bội. Để bớt bưu phí nên để thư ấy cuốn vào giấy báo hoặc tạp chí gởi
đi. Đó là chuyện rất bình thường, không có gì là tội lỗi. Nhưng nếu nói theo
giới luật của Phật pháp, điều ấy đã phạm giới trộm cắp, trộm tiền của quốc
gia.
- Lại như một
người phục vụ trong cơ quan, quy định mỗi ngày cấp cho năm tờ giấy và năm phong
bì. Có một người vì sự giao tế thù ứng rộng rãi, với số giấy ấy không đủ dùng,
lại không nói cho người phụ trách biết, tự tiện yên lặng lấy thêm giấy và phong
bì. Việc này thông thường cho là việc rất bình thường, vì là của chính phủ, lấy
thêm ít cái có hề chi. Dĩ nhiên là như vậy, nhưng phải có sự đồng ý của người
phụ trách, nếu không thì tự mình lén lấy xài dùng nên phạm tội trộm cắp.
- Lại tỉ như các
thương nhân mua bán, phải đóng tiền thuế là hai ngàn đồng. Những người rành mua
bán thường có hai quyển sổ. Một để chính phủ kiểm tra, một lập riêng cho mình
kiểm soát. Quyển dành để cho chính phủ: đem số thu một vạn đồng bớt còn năm
ngàn đồng. Thế là tiền thuế chỉ còn một ngàn đồng. Nói theo thế tục, việc này
là trốn thuế. Luận về Phật pháp thì phạm giới trộm cắp của chính phủ một ngàn
đồng.
Trong xã hội có
rất nhiều người tự cho mình là đứng đắn, không bao giờ lấy của người; nghĩa là
không phạm giới trộm cắp. Nhưng cứ xem bên trên, làm người không phạm giới trộm
cắp thật là hiếm có. Vì thế, Hoằng Nhất Luật Sư nói: “Giới trộm cắp rất khó giữ
gìn”.
Mọi người đều
công nhận trộm cắp là việc không tốt, pháp luật của các quốc gia trên thế giới
từ xưa đến nay, cả Đông phương lẫn Tây phương đều nghiêm cấm nhân dân việc trộm
cắp. Dù lén trộm hay công khai cướp đoạt, đều vi phạm pháp luật quốc gia và bị
trừng trị.
Trong Phật pháp,
bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, từ tại gia đến xuất gia, đều chế định giới
trộm cắp và đều phán vào trọng tội.
Tại sao Phật
pháp cùng thế pháp đều ngăn cấm việc trộm cắp như thế? Mọi người trên thế gian
đều hết sức yêu quý của tiền, vàng ngọc, châu báu... không bao giờ muốn kẻ khác
lấy đi. Với những người xem nhẹ tài vật thì không nói chi. Còn với những người
quá xem trọng tài vật, nếu có người dùng thủ đoạn không chánh đáng trộm mất tài
vật, nhất là những vật quá yêu tiếc, thì có thể vì đó bỏ ăn, mất ngủ, thậm chí
bệnh liệt giường, sầu khổ suốt đời. Như thế thì đâu thể nào xem nhẹ việc trộm cắp
là không trọng và phạm giới trộm cắp không phải là trọng tội.
Trong Phật pháp,
hành giả Bồ Tát chí hướng ở nơi giáo hóa chúng sanh, với phương tiện tối thắng
là Bố Thí, nên pháp Lục Độ Tứ Nhiếp (2) đều lấy Bố Thí làm đầu.
Bố thí là đem
tài vật của mình cấp phát cho chúng sanh, giúp cho chúng sanh giải trừ những
khó khăn về sinh hoạt vật chất, khiến cho chúng sanh phát khởi thiện tâm và
thích gần gũi, thân cận với Bồ Tát. Nhờ đó, Bồ Tát dần dần đem Phật pháp giáo
hóa, khiến chúng sanh bước lên con đường lớn, xán lạn của Phật pháp.
Trái lại, nếu
chẳng những không bố thí giúp đỡ chúng sanh, lại còn trộm tài vật của chúng
sanh, thì làm sao nhiếp hóa được chúng sanh? Lại nữa, chúng sanh một khi trông
thấy Bồ Tát, đều không muốn lui tới, không muốn thân cận với Bồ Tát. Như thế,
mất hẳn hạnh đại từ đại bi tế độ chúng sanh của Bồ Tát, trái với pháp môn lục
độ tứ nhiếp của Bồ Tát cần phải tu.
Thế nên, giới
trộm cắp tuy thông thường nhưng thật hết sức trọng yếu. Nhất là ở lập trường
Đại Thừa Phật giáo, thì hành giả Bồ Tát lại cần phải giữ gìn hết sức nghiêm cẩn,
không được có chút vi phạm. Nếu không thì không thể gánh vác trách nhiệm trọng
đại hóa độ chúng sanh, và không có tư cách gì được gọi là Bồ Tát. Trong kinh
Lăng Nghiêm, Đức Phật từng dạy như vầy: “Tâm trộm cắp không diệt trừ thì không
dễ gì thoát khỏi trần lao. Dù có đa trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn
trừ trộm cắp, chắc chắn lạc vào đường tà”.
Lời Phật dạy
trên ý nói: Bất luận trí huệ của người ấy cao siêu thế nào, thiền định của
người ấy sâu như thế nào, nếu tâm trộm cắp không đoạn trừ, chẳng những không thể
ra khỏi trần lao, mà kết quả chắc chắn lạc vào đường tà, vĩnh viễn trầm luân
trong sanh tử.
Thử nghĩ tội
trộm cắp nặng biết dường nào? Sự chướng ngại thánh đạo lớn biết dường nào? Vì
thế nên làm người trên thế gian, đặc biệt là một hành giả Bồ Tát, quyết phải
răn chừa tội trộm cắp, không được có chút vi bội. Nếu không thì tuyệt đối không
thể nào bước lên con đường rộng lớn quang minh của Bồ Tát, để thực hiện công
tác hóa độ chúng sanh!
Đức Phật dạy nếu
là Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, bất luận là tự đạo (tự mình trộm cướp), giáo
nhân đạo (bảo người trộm cướp), phương tiện đạo (phương tiện trộm cướp), chú
đạo (dùng bùa chú trộm cướp)... đều là không thể được, vì những việc ấy đều vi
phản (trái ngược) với hạnh từ bi lợi tế của Bồ Tát.
- Tự đạo: chính
tay mình trộm cắp tài vật của người đem đi.
* Thí như có
người hữu sự cần đi xa, ở nhà không có ai, bèn đem vàng bạc, châu báu gởi cho
một người bạn thân, tin cậy nhất, và nói rằng: “Xin anh hoan hỷ cho, vì tôi có duyên
sự cần đi xa. Ở nhà không ai, nên đem những vật báu này gởi cho anh, xong việc
tôi sẽ trở lại lấy!” Người bạn sẵn sàng đồng ý cho gởi.
Nhưng người bạn
sau đó vì kiến tài ám nhãn, khởi tâm tham, muốn chiếm đoạt của báu, nên khi
người chủ trở về, đến lấy lại, người bằng hữu kia cực lực phủ nhận: “Không có
bất cứ thứ gì anh gởi cho tôi, đừng nói lôi thôi!”
Người bằng hữu
chiếm được châu báu kia muốn làm việc buôn bán, nhưng vì tự mình không có vốn,
lợi dụng ba tấc lưỡi chưa hư nát, sẵn có số châu báu này, đi rủ ren mọi người
vào cổ phần. Khi vàng bạc đã đến tay liền cao bay xa chạy. Mọi hành động trên
đều thuộc về loại trộm cắp này.
* Lại như nhiều
người trong xã hội chơi hội (chơi hụi). Nếu một phần là một ngàn đồng, nếu rủ
được năm mươi phần thì được năm vạn. Mình làm chủ hụi, gom hết rồi trốn đi. Đây
cũng là một hình thức tự trộm cắp.
Cho nên vận dụng
những thủ đoạn không chánh đáng, những phương pháp dối gạt để lấy tiền của đều
là tự trộm cắp.
- Giáo nhân đạo:
Dùng lời nói xúi biểu người: “Nơi ấy có đồ vật gì... anh thế tôi đi lấy về”. Dù
không phải chính tay mình tự đi lấy, nhưng đồng phạm tội trộm cắp.
Nhưng có một
điểm hơi sai khác: nếu tài vật lấy đem về đều thuộc về phần mình thì phạm căn
bổn trọng tội. Còn tài vật người đi trộm lấy luôn, không chia cho mình thì chỉ phạm
tội khinh cấu. Vì kẻ trộm kia vốn không biết những vật ấy, nhưng vì do mình bảo
họ đi lấy, nên dù tài vật không thuộc về mình, cũng phải gánh lấy tội xúi
biểu.
Lại còn như
miệng không bảo người đi lấy, nhưng dùng tay ra dấu, trên tướng ám chỉ cho biết
để người đi trộm, đều là tội xúi biểu.
- Phương tiện
đạo: Vốn không có tâm trộm của người, nhưng bỗng nhiên tài vật ở trước mặt
mình, lại không ai thấy biết nên không ngần ngại, nhân cơ hội đó làm phương
tiện lấy tài vật bỏ túi, hay cất giấu nơi khác, không ai biết. Tục ngữ có câu
rằng: “Thuận thủ khiên dương, bất vi thâu” (thuận tay dắt dê không phải là trộm
cắp). Với thế tục cho là không phải trộm cắp, nhưng trong Phật pháp cũng là
phạm tội phương tiện trộm cắp.
- Chú đạo: dùng
những chú thuật cướp tài vật của người. Tương truyền ở Ấn Độ có thứ ác chú. Ác
chú sư sau khi niệm chú ấy sẽ lấy tiền của kẻ khác về cho mình. Hoặc niệm ác
chú kêu gọi quỷ thần đến, để sai khiến quỷ thần đi trộm lấy tài vật mình muốn
đem về. Đấy là dùng những bùa chú trộm cắp. Đối với người thường làm việc này
đã là tội rất nặng.
Nếu như Phật tử,
nhất là hàng xuất gia mà đi làm cống đầu cho người, ấy là tội nhơn trong Phật
pháp. Tỳ kheo sống theo lối tà mạng, vì người làm cống đầu, trong Phật pháp tuyệt
đối không thể được, cần phải ly khai thật xa, không nên xem là người trong Phật
pháp, vì là một thứ dùng bùa chú trộm cắp, một trong các thứ trộm cắp.
Trong giới Sát
Sanh có tán thán sát và tùy hỷ sát, giới trộm cắp vì sao không có hai thứ
ấy?
Vì sát sanh nếu
đủ sức thì làm một mình. Nếu một người không làm được thì vài người thương
lượng hợp tác nhau làm, nhưng với trộm cắp thì riêng âm thầm tính mưu kế mà
làm, không muốn một người nào hay biết. Cho nên tội trộm cắp lúc nào cũng bị sự
khiển trách của các nhân sĩ trong xã hội, không bao giờ được mọi người tán
thán.
Tán thán đã
không có thì tùy hỷ cũng không có, nên trong kinh văn không đề cập đến hai loại
ấy. Tuy nhiên, hai thứ này hàm nhiếp trong phương tiện trộm cắp; vì tán thán và
tùy hỷ không phải chính thức trộm cắp, cũng không thể tán thán hoặc tùy hỷ việc
trộm cắp của người một cách công khai, nên liệt vào trong phương tiện trộm
cắp.
Kết thành việc
trộm cắp cần phải đầy đủ các điều kiện. Nếu chỉ có nhân trộm cắp mà không có
duyên trộm cắp, vẫn không thành việc trộm cắp, cần phải đủ nhân duyên hòa hợp.
Nhưng nếu không có phương pháp trộm cắp (cách thức) vẫn không thành trộm cắp.
Cần phải đủ ba yếu tố trên mới thành nghiệp trộm cắp, tổng cộng thành bốn thứ được
phân biệt như sau:
- Đạo nhân (nhân
trộm cắp): Do chủng tử tham lam, trộm cắp thành thục từ vô thỉ. Hiện tại nội
tâm khởi một niệm trộm cắp làm nhân, đã có nhân rồi mới tiến hành việc trộm
cắp.
- Đạo duyên
(duyên trộm cắp): những tài vật quý báu mình rất ưa thích hiện bày trước mắt,
dụ dỗ, dẫn dắt mình đến sự trộm lấy của người.
- Đạo pháp
(phương tiện trộm cắp): khi làm việc trộm cắp, phải tính toán khéo léo, lập mưu
bày kế, hoặc bẻ khóa, hoặc trèo tường nhảy vào, hoặc leo lên nóc nhà nhảy
xuống, hoặc đào hầm bò vào. Khi vào được trong nhà thì cạy rương, mở tủ v.v...
Đấy là những cách thức trộm cướp.
- Đạo nghiệp
(nghiệp trộm cướp): do đầy đủ ba điều kiện trên, tiến đến lấy sự tài vật của
người, khiến tài vật kia ly khai khỏi khổ chủ, hoàn thành việc trộm cướp, ấy là
nghiệp trộm cướp.
Nếu luận về ba
chướng thì đầu tiên do chủng tử tham lam trộm cướp mà sanh khởi ý niệm trộm
cướp. Đó là Phiền Não Chướng. Khi hoàn thành việc trộm cướp, gọi là Nghiệp
Chướng. Do phiền não chướng và nghiệp chướng chiêu cảm quả khổ trong tam ác đạo
đời vị lai, ấy là Báo Chướng.
Như thế thấy rõ,
chẳng những sát sanh tạo thành sự thọ khổ trong luân hồi, trong sanh tử, mà
trộm cướp cũng đồng khiến cho chúng sanh sanh tử không dứt.
Nếu không trộm
cắp thì không tạo thành tội trộm cắp cực trọng và không chiêu cảm quả khổ trong
tam ác đạo. Cho nên răn ngừa tội trộm cắp là một sự kiện trọng yếu.
Chẳng những tài
vật của nhân dân không được trộm lấy, mà bất cứ tài vật có chủ nào, dù là tài
vật của quỷ thần, của giặc cướp, một vật dù nhỏ bé như cây kim, ngọn cỏ, cũng
không được cố ý trộm cắp.
Tài vật của quỷ
thần là những đồ cúng trong miễu quỷ thần, đều không được trộm lấy. Vì những đồ
cúng trong miễu thờ quỷ thần, tức quỷ thần làm chủ, hay người làm chức Từ giữ
miễu làm chủ. Phàm những tài vật có chủ đều không được phép trộm lấy.
Tài vật của kẻ trộm
cướp là những thứ mà kẻ trộm lấy được, vốn là đồ lấy trộm. Hiện tại nếu trộm
lấy đồ vật của kẻ trộm cướp, tại sao nói là phạm tội trộm cướp? Cổ đức đối với
việc này có hai lối giải thích:
- Như tài vật
của mình bị kẻ trộm lấy đi, trong tâm mình nghĩ rằng chúng đã mất rồi. Hiện
tại, kẻ trộm hoàn toàn không bằng lòng hoặc không nói cho mình lấy lại, thì
thuộc về tội “không cho mà lấy”. Trường hợp này căn cứ vào ý tưởng mà phạm tội;
nghĩa là sau khi kẻ trộm lấy đồ, tâm khởi niệm đã mất rồi, nếu như chưa khởi
niệm ấy mà lấy lại thì không phạm tội.
- Đồ vật
của kẻ trộm lấy của kẻ khác, đã thuộc về sở hữu của giặc cướp. Hiện tại kẻ trộm
hoàn toàn không có nói cho mình. Nếu mình lấy lại của kẻ cướp kia, ấy là giặc
cướp đi lấy của giặc cướp, thuộc về tội “không cho mà lấy”. Cho nên lấy tài vật
của kẻ cướp cũng vẫn phạm tội trộm cướp.
* Về việc
lấy lại tài vật của kẻ trộm cướp, Phật giáo tại Nhật Bản có một câu chuyện thật
như thế này:
Trong một ngôi
chùa ni, vị trụ trì hiệu là An Dưỡng tỳ kheo ni. Một đêm nọ, có kẻ trộm lẻn vào
chùa lấy mùng, mền, nệm, gối... của chùa mang đi.
Đêm ấy, An Dưỡng
tỳ kheo ni ngủ không có mền đắp, phải lấy giấy đắp. Nhằm tiết Đông trời quá
lạnh, ni sư run rẩy, miệng đánh bò cạp. Bấy giờ, có một tiểu ni nghe được, xô
cửa bước vào. Khi vừa vào tới phòng, thấy có chiếc áo ngự hàn dồn bông rơi dưới
đất. Tiểu ni nhặt lên và đem đưa với ni sư, nói rằng: “Chiếc áo này là của kẻ trộm
làm rơi lại, xin thầy hãy mặc cho bớt run và đỡ lạnh”.
An Dưỡng tỳ kheo
ni đáp rằng: “Đồ vật của kẻ trộm lấy được tức là đồ của kẻ trộm rồi. Chúng ta
là người xuất gia, không được tùy tiện dùng đồ vật của người đã trộm lấy. Thầy
nghĩ kẻ trộm chưa đi xa, con nên mau mau mang trả cho nó”.
Tiểu ni vâng
lệnh, tức tốc đuổi theo kẻ trộm, giao trả chiếc áo và nói rõ lời Thầy mình dạy.
Tên trộm nghe xong thấm thía và cảm động, liền đem toàn bộ đồ đã trộm trả lại
cho nhà chùa. Lại đến trước mặt tỳ kheo ni An Dưỡng xin Ngài nhận lại đồ vật và
hoan hỷ cho chú ta thành tâm sám hối.
Tỳ kheo ni nói
rằng: “Thật làm nhọc cho cậu quá! Đồ lấy được đã gói tử tế, giờ lại mang giao
cho chùa”. Trên nét mặt của An Dưỡng tỳ kheo ni lộ vẻ từ bi khoan thứ, khiến kẻ
trộm vô cùng cảm động.
Tóm lại:
Tất cả tài vật,
bất luận quý, tiện, trọng, khinh, cũng không luận là nhiều, ít, tốt, xấu, cho
đến những vật nhỏ nhất như một cây kim, một ngọn cỏ đều không được không cho mà
lấy. Nếu trộm lấy tức là phạm giới trộm cắp, nên trong kinh văn nói: “Bất đắc
cố đạo” (không được cố ý lấy).
Tại sao không
được cố ý lấy trộm?
Trong kinh văn,
Phật dạy như sau: “Bồ Tát ưng sanh Phật tánh, hiếu thuận tâm, từ bi tâm, thường
trợ nhứt thiết nhân sanh phước, sanh lạc” (Là Phật tử, lẽ ra phải luôn luôn có
lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui).
Hai chữ “Phật
tánh”, bổn Việt văn dịch là “luôn luôn”, ý nói: Phật tánh là một pháp thường
trụ, bất sanh bất diệt, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Hành giả Bồ Tát
luôn thấy biết như thế và nhận chân tất cả chúng sanh trong tương lai đều sẽ
thành Phật. Bổn phận của một vị Bồ Tát đối với Phật hết lòng cung kính, cúng
dường còn không đủ, làm sao có thể trở lại trộm lấy tài vật của các Ngài?
Nếu như trộm lấy
tài vật của các Ngài (chúng sanh) tức là đồng với tội trộm tài vật của chư
Phật, tội này lớn biết dường nào? Nếu nhìn xa thì tất cả chúng sanh đều sẽ
thành Phật. Nếu nói gần hơn, thì tất cả chúng sanh đều là cha mẹ. Bổn phận làm
con phải sanh tâm hiếu thuận, hiếu kính cha mẹ không hết, đâu nên trộm lấy tài
vật của cha mẹ? Nếu trộm lấy tài vật của cha mẹ, tội ấy lớn biết chừng
nào?
Bây giờ không
nói chúng sanh đều là Phật vị lai, làm cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, mà cứ xem
chúng sanh là chúng sanh. Bổn phận của Bồ Tát là lấy việc lợi ích chúng sanh
làm bổn hoài, đối với chúng sanh cần phải sanh tâm từ bi. Chúng sanh gặp khốn
khổ khó khăn, Bồ Tát phải lo giúp đỡ, chúng sanh cần chi, phải vội cấp cho,
không được nhẫn tâm an nhiên ngồi xem chúng sanh bị khổ đói khát. Như thế làm
sao nỡ lấy đi tài vật của chúng sanh, nhẫn tâm làm cho chúng sanh bị khổ đói
rét? Ngoại sanh mạng đã bị cướp đi thì nội sanh mạng nương vào đâu mà sanh tồn?
Sự việc này đâu đúng với tư cách của Bồ Tát?
Hành giả Bồ Tát
chân chánh phải thường giúp cho mọi người sanh phước, sanh lạc, không nên trộm
lấy tài vật của người mà làm cho người bị tội, bị khổ (đối với sanh phước, sanh
lạc mà nói). Đây là việc tối yếu!
Giúp cho mọi
người sanh phước là khiến cho mọi người gieo trồng nhân an lạc; giúp cho mọi
người sanh vui là khiến cho người được quả vui. Hành giả Bồ Tát cần phải thường
an trụ tâm từ bi như vậy, cần phải thực hành theo những thiện sự như vậy, làm
lợi ích cho khắp tất cả chúng sanh, khiến chúng sanh được an vui và giải thoát.
Đấy là hạnh từ bi tế độ của Bồ Tát cần phải có.
Nếu Bồ Tát trộm
cướp tài vật của người, tức đoạt ngoại sanh mạng của người, làm cho sanh sống
của người bị quẫn bách, bức ngặt, là vi phạm với thánh giáo của Đức Phật Đà,
cho nên nói là “không thuận”. Đồng thời, tất cả chúng sanh đã đều là cha mẹ
nhiều đời, nhiều kiếp của mình. Làm con đã không phụng dưỡng cha mẹ, lại trở
lại trộm lấy tài vật của cha mẹ, làm não hại cho cha mẹ, đâu còn tội lỗi nào
nặng hơn?
Đứng về mặt luật
pháp hay Phật pháp đều là bất hiếu. Đã bất hiếu thì với tư cách làm người còn
không trọn, thì đâu còn tư cách gì gọi là Bồ Tát? Vì thế, chỉ có kính cẩn vâng
theo lời Phật dạy, mới có thể gọi là hiếu thuận. Không trộm cắp tài vật của
người mới gọi là từ bi. Làm cho chúng sanh không bị nghèo cùng, thiếu thốn mới
gọi là sanh phước, sanh lạc.
Bồ Tát vì lợi
sanh mà phát tâm Bồ Đề, nhằm vào khía cạnh nào cũng phải thực hiện Đàn Ba La
Mật, đem hết khả năng của mình bố thí cho chúng sanh, khiến chúng sanh không sợ
thiếu thốn về đời sống. Nếu không thực hành như vậy thì trái với tinh thần nên
có của Bồ Tát.
Nếu chẳng những
không thực hành như vậy mà trở lại trộm cắp tài vật của người, khiến chúng sanh
bị thống khổ, nghèo thiếu, có thể nói là một tội ác rất lớn. Cho nên kinh văn
nói: “Bồ Tát này phạm Ba La Di tội”.
Giới trộm cắp
vừa xem qua rất là đơn giản, nhưng nếu vi phạm chính là hủy hoại Tam Tụ Tịnh
Giới của Bồ Tát.
Việc ấy như thế
nào?
Không nên trộm
mà đi trộm là phạm Nhiếp Luật Nghi Giới, cần phải huệ thí cho chúng sanh mà
không huệ thí là phạm Nhiếp Thiện Pháp Giới. Cần phải nhiếp hóa chúng sanh mà
không nhiếp hóa là phạm Nhiếp Chúng Sanh Giới. Cần phải giúp cho mọi người sanh
phước, sanh lạc mà không giúp, trái lại trộm lấy tài vật, làm cho người sanh
tội, sanh khổ, vi phạm đức hạnh của Bồ Tát thái quá nên kết thành tội Ba La
Di.
Điều văn của
giới trộm cướp đã giảng rõ, nhưng còn những điều trọng yếu cần phải nói rõ
thêm:
Căn cứ trong các
kinh luận, kết thành tội trộm cướp phải hội đủ năm điều kiện, tức năm duyên,
mới thật sự phạm căn bổn trọng tội. Không phải hành vi trộm cướp nào cũng kết
thành căn bổn trọng tội. Năm duyên ấy như sau:
1. Thị hữu chủ
vật (là vật có chủ): tài vật bị trộm đích thực có chủ, không phải vật vất bỏ
hoặc không thuộc về bất cứ ai. Đồng là có chủ, nhưng vật còn được chia thành ba
phẩm:
a. Thượng phẩm
vật: vật của Phật, Pháp, Hiện Tiền Tăng vật, tứ phương Tăng vật, phụ mẫu - sư
trưởng vật.
+ Phật vật: Phật
tử phải hiểu Phật có công đức tối thù thắng, cần phải có tâm chí thành, cung
kính cúng dường Phật. Nếu chẳng những không cung kính cúng dường, lại còn trộm tài
vật của Phật, đương nhiên là không được. Tội trộm tài vật của Phật nặng hay
nhẹ, trong kinh tạng có hai lối giải thích:
- Theo kinh Niết
Bàn thì chỉ mắc tội Thâu Lan Giá, còn gọi là Thâu Lan Giá Gia hay Tát Thâu La,
không phạm trọng tội. Trung Hoa dịch là Đại Chướng Thiện Đạo, Đại Tội, Thô Ác...
Tội này là một trong sáu tụ. Nó là tội nhân của hai thiên đầu tiên là Ba La Di
và Tăng Tàn (ở đây chỉ nói qua tên tội, không cần giải thích kỹ vì phần này
thuộc về Đại Luật Tỳ Kheo).
Vì Phật không
chấp trước ngũ sở, đối với bất cứ tài vật chi đều không xem là vật sở hữu của
mình, dù bị người trộm lấy, đối với vật bị mất, Phật không bao giờ cảm thấy
luyến tiếc, khổ não. Vì thế, tội của người trộm cắp không nặng lắm.
- Theo kinh
Thiện Sanh và Phạm Võng này, trộm tài vật của Phật bị ghép vào trọng tội. Tại
sao vậy? Vì trộm của người hạ phẩm còn kết thành trọng tội, Phật là đấng thiên trong
thiên, thánh trong thánh, địa vị của Ngài cao thượng không ai sánh bằng. Huống
chi là tài vật của Ngài do hàng nhân thiên thành kính cúng dường, không vì một
lý do gì được trộm lấy tài vật đó đem đi. Do đó, không được nói là chỉ phạm tội
khinh.
+ Pháp vật: tức
chỉ Tam Tạng giáo điển, ghi chép lại ngôn giáo của Phật đã tuyên thuyết, gồm
Kinh, Luật, Luận. Pháp của Phật thuộc về Pháp Bảo vô giá. Vì nội dung trong Tam
Tạng giáo điển của Phật tuyên thuyết đều dạy người hướng thượng, hướng thiện,
hướng quang minh, hướng đến đường giải thoát, hướng về quả vị Bồ Đề.
Chẳng những trộm
kinh, luật, luận là phạm tội cực trọng; mà thiêu đốt kinh, luật, luận cũ hư
đồng như tội thiêu đốt cha mẹ mình, đều phạm tội cực trọng! Những người không biết
việc ấy có tội, trong khi thiêu đốt cho là đốt giấy chữ, chỉ phạm tội khinh
cấu.
Lại còn có
trường hợp những người mượn kinh, luật, luận, sớ sao của người khác xem, có ý
muốn lấy luôn không trả lại. Hoặc bên trong có chỗ hư tổn, không nói rõ với
người mình mượn kinh, cũng không thay thế người chủ quyển kinh để tu bổ lại, cứ
để như vậy, lén gấp lại rồi đem trả, không nói cho người chủ biết bên trong đã
bị hư tổn. Trường hợp trên đều phạm tội cực trọng.
Cho nên nếu mượn
kinh, luật, luận của người khác cần phải đúng kỳ hẹn đem trả lại. Nếu bên trong
có chỗ hư tổn, phải tìm cách tu bổ lại kỹ lưỡng; và đối với người chủ kinh,
công khai nói rõ cho họ biết. Đấy là đức hạnh cơ bản làm người cần phải có,
huống chi là một Phật tử thọ Bồ Tát giới, mượn kinh pháp của người lại cố ý
chiếm đoạt luôn, hoặc nội dung bị hư tổn mà không nói rõ thì tội lỗi lớn biết
dường nào!
+ Tăng vật: tài
vật của Tăng đoàn. Tổ Nam Sơn Luật Sư dạy rằng: “Trộm cắp tài vật thông cả Tam
Bảo, nhưng riêng tài vật của chúng tăng thì nặng nhất”. Vì thế, tỳ kheo làm tổn
hại hay thọ dụng tài vật của chúng tăng, tối thiểu chừng một sợi lông, tức là
đối với thánh phàm trong mười phương mỗi mỗi đều kết tội.
Cho nên trong
Luật Ngũ Phần nói: “Khi Phật còn tại thế, các Phật tử, bất luận vương thần, sĩ
thứ, đem tài vật cúng dường cho Phật, Đức Phật đều từ chối và đáp rằng: -Quý vị
nên đem cúng dường cho chúng tăng sẽ được phước báo lớn”.
Theo lời Phật
dạy trong Luật, thì thấy tài vật của chúng Tăng rất là quý trọng, không nên tùy
tiện tự trộm lấy. Nếu tùy vọng tâm tham lam trộm lấy thì tội ấy rất nặng.
* Luận về việc
thọ quả báo, kinh Đại Tập có dẫn chuyện về sự thọ khổ của Long Nữ mù như
sau:
Khi Phật còn tại
thế, một hôm có long nữ mù đến đầu, mặt đảnh lễ Phật, bạch rằng: “Kính bạch Thế
Tôn! Bổn nhân địa của con (chỉ nghiệp nhân đã tạo đời trước), nhớ lại một lúc
nọ, con đến vườn rừng của nhà chùa, lén hái trộm mười trái Am-la để ăn. Do nhân
duyên ác nghiệp ấy, sau khi con xả thân người, đọa vào địa ngục, thọ thống khổ
không sao nói được. Sau khi thoát khỏi địa ngục, nhân ác nghiệp vẫn còn. Hôm
nay con phải mang thân long nữ mù này, lại bị đói khát và thường bị các thứ
trùng cắn rúc máu mủ trên thân mà ăn. Sự thống khổ ấy không thể nào nhẫn thọ.
Hôm nay, con nguyện quy đầu nơi Phật, nương về với Phật, mong cầu giải thoát
thân thống khổ này”.
Đức Phật dạy
rằng: “Này long nữ! Nghiệp nhân ấy quá nặng, kế với nghiệp ngũ vô gián (1). Tại
sao vậy? Vì tài vật của tứ phương tăng, thường trụ tăng hoặc hiện tiền tăng là
của thí chủ có tâm thành kính cúng dường mong cầu phước báo. Hoặc là hoa trái,
hoặc cây trong vườn rừng, hoặc cơm cháo, thức ăn uống, cùng thuốc men, giường
nệm... tất cả những vật nhu dụng của chúng tăng, nếu tự mình lén lấy xài dùng,
hoặc đem cho người quen hay bà con, láng giềng, cùng bạch y, tội này nặng hơn
tội A Tỳ địa ngục”.
Tiếp theo Phật
nói kệ rằng:
Thà nuốt hoàn
sắt nóng cháy đỏ,
Khiến cho trong
miệng lửa phựt ra,
Những đồ ăn uống
của chúng tăng,
Tự mình không
nên riêng thọ dụng.
Thà dùng dao bén
tự cắt tóc,
Da thịt thân
mình để ăn dùng,
Phật tử tại gia
và người tục,
Không nên ăn
dùng của chúng tăng.
Bộ Chư Kinh Tập
Yếu nói: “Hiện nay kẻ thế tục si mê, thấy tài vật phước điền, sanh tâm tham lam
cẩu thả, lấy dùng tư dưỡng cho bản thân mình, ăn những thức ăn uống của chúng
tăng, thọ dụng hoa quả của chúng tăng, dùng những súc vật của chúng tăng nuôi
đem về cỡi, làm việc riêng cho mình, dẫn dụ nô bộc của chúng tăng nuôi để sai
khiến, mượn tài vật của chúng tăng không trả, hoặc nương cậy quan quyền thế lực
tìm kiếm lỗi lầm của chúng tăng...”
Dùng những việc
như thế làm tổn hại chúng tăng không thể nào kể ra cho hết được. Đêm khuya
thanh vắng, suy nghĩ đến những tội này sao khỏi rùng mình, sởn óc và đau
lòng.
Ở các tu viện,
gìn giữ tài vật của chúng tăng, không cho người thế tục lấy, không phải có tâm
xan lẫn, không bố thí mà chính là vì thương xót hàng bạch y, sợ họ phải thọ lấy
kịch khổ ở tương lai. Vì thế, đem của chúng tăng cho người thế tục, không phải
chỉ tổn hại cho người thế tục, mà cũng làm lụy cho người trị sự trong chùa. Do
nghiệp nhơn ấy, chỗ thọ sanh ở tương lai đồng với người thế tục thọ khổ.
Như Phước Tăng
tỳ kheo đi nơi đồng vắng, thấy một đại thọ bị vô số loài trùng cắn ăn hết sức
ghê sợ. Lúc trở về, thầy đem chuyện ấy bạch lên Phật. Phật dạy rằng: “Cây đại
thọ ấy tiền thân là một vị sư trong chùa thời quá khứ. Vô số loài trùng cắn cây
ăn là người thọ dụng tài vật của chúng tăng”. Tội báo trộm cắp tài vật của chúng
tăng thâm trọng như thế nên trong kinh Phương Đẳng, Hoa Tụ Bồ Tát nói
rằng:
Ngũ nghịch, tứ
trọng,
Ngã diệc năng
cứu
Đạo tăng vật
giả
Ngã sở bất
cứu.
Dịch:
Tội ngũ nghịch,
tứ trọng
Ta có thể cứu
được.
Tội trộm cắp tài
vật của chúng tăng
Ta không thể cứu
được.
Lại kinh Đại Tập
nói: “Đạo tăng vật giả, tội đồng ngũ nghịch” (tội trộm cắp tài vật của chúng
tăng mang tội ngang với tội ngũ nghịch).
Kinh Quán Phật
Tam Muội nói: “Dụng tăng kỳ vật giả, quá sát bát vạn tứ thiên phụ mẫu đẳng tội”
(tội dùng tài vật của chúng tăng nặng hơn tội sát hại tám muôn bốn ngàn cha
mẹ).
Chúng ta hãy thử
tưởng tượng xem, tội trộm cắp của chúng tăng nặng biết dường nào; thật là làm
cho con người dù không lạnh cũng phải run. Nhưng cùng là tài vật của chúng
tăng, nhưng mức độ phạm tội lại có sự sai biệt bất đồng với tài vật của hiện
tiền tăng cũng như tứ phương tăng. Nhưng bất luận là tài vật của tăng chúng thế
nào, chủ yếu là lấy trộm một vật rất nhỏ, chừng bằng sợi lông, cũng là phạm tội
cực trọng. Việc này nếu nói rõ ra thì phiền toái phi thường, nên ở đây không
cần nói nhiều.
Tóm lại:
Tài vật của
chúng tăng không nên trộm lấy, nếu tham lam trộm lấy phải phạm trọng tội, Phật
cũng không cứu được.
Chúng ta tại sao
lại can phạm đến những trọng tội như thế để hiện tại chính bản thân mình bị gác
bỏ ra khỏi biển Phật pháp, tương lai phải bị khổ quả cực hình nơi ác đạo?
b. Trung phẩm
vật: tài vật của hữu tình, nhân loại và của thiên giới. Trộm tài vật trung phẩm
này nếu của nhân loại là phạm trọng tội. Nếu của chư thiên, chỉ phạm tội khinh cấu
hoặc dù phạm trọng tội, nhưng giới thể không bị tán thất.
c. Hạ phẩm vật:
tài vật của quỷ thần và súc sanh. Nếu trộm lấy chỉ phạm tội khinh cấu, hoặc nếu
là trọng tội, nhưng giới thể không mất.
Tài vật có chủ
gồm ba phẩm bất đồng đã nói trên, bên cạnh còn có một vấn đề cũng cần giải
thích nữa, là tài vật chôn cất dưới đất, nếu trộm lấy có phạm tội hay
không?
Khi Phật còn tại
thế, một số tỳ kheo cho rằng Phật chế định giới trộm cắp là chỉ nhằm răn cấm
không được lấy tài vật trên mặt đất, còn những tài vật chôn dưới mặt đất thì
không ngăn cấm. Về sau, Đức Phật biết được đã cực lực quở trách là hiểu lầm ý
Phật.
Vì tài vật chôn
giấu dưới đất dường như vô chủ, nhưng thực sự là của quốc vương (hay thuộc về
quốc gia). Nếu lấy tài vật ấy là phạm tội trộm cắp. Vì quyền sở hữu của nhân
dân chỉ ở trên mặt đất, còn quyền sở hữu của quốc gia luôn cả dưới mặt đất như
mỏ vàng, mỏ bạc... nếu đào lấy là phạm tội trộm của quốc gia.
2. Hữu chủ tưởng
(tưởng là vật có chủ): chia thành hai loại: tưởng có chủ và tưởng vật của
người. Hai loại này, mỗi loại đều có sáu thứ sai khác:
a. Loại tưởng có
chủ gồm:
- Có chủ tưởng
có chủ.
- Có chủ nghi có
chủ.
Nếu trộm lấy tài
vật như thế thành trọng tội.
- Không chủ tưởng
có chủ.
- Không chủ nghi
có chủ.
Nếu trộm lấy tài
vật như thế thành tội khinh cấu.
- Có chủ tưởng
có chủ.
- Không chủ
tưởng không chủ.
Nếu lấy tài vật
như thế hoàn toàn không phạm tội.
b. Loại tưởng
vật của người gồm:
- Vật của người
tưởng vật của người.
- Vật của người
nghi là vật của người.
Nếu trộm lấy tài
vật ấy thì phạm trọng tội.
- Vật của người
tưởng là vật của phi nhơn.
- Vật của người
nghi là vật của phi nhơn.
- Vật của phi
nhơn tưởng là vật của người.
- Vật của phi
nhơn tưởng là vật của phi nhơn.
Nếu trộm lấy
những tài vật như thế sẽ phạm tội khinh cấu.
Tội trộm cướp
hoặc khinh hay trọng, có tội cùng không, hoàn toàn do tưởng nghĩ của kẻ trộm
đối với tài vật lúc ấy như thế nào mà định tội; không phải căn cứ vào một mặt
rồi đều phán vào tội Trọng mà không phân biệt rõ ràng.
3. Đạo tâm: Chỉ
cho khi có một tâm niệm trộm cắp, lấy trộm tài vật của người để hoàn thành chủ
nghiệp của nghiệp trộm cướp. Do có một tâm niệm trộm cướp, khi lấy tài vật của
người, không có ý tưởng người ta cho mình, cũng không nghĩ là của mình, cũng
không nghĩ vật ấy là đồ phấn tảo (thứ hư hỏng, vất đi), không có ý lấy tạm dùng
sẽ trả lại, không có ý cho vật ấy là của người thân. Do không có những ý tưởng
trên, nên thành chủ nghiệp trộm cắp.
4. Trị ngũ tiền:
Lấy tài vật giá trị cao, nhiều tiền mới phán vào tội Ba La Di. Luật Ngũ Phần
nói: “Luật pháp của nước Ma Kiệt Đề thời vua A Xà Thế chế định tội trộm tài vật
giá đáng năm tiền trở lên thì bị tội tử hình. Về sau, đức Phật chế giới tỳ
kheo, tham chiếu vào luật quốc gia đương thời, cũng phán định tỳ kheo trộm lấy tài
vật năm tiền trở lên phạm Ba La Di tội.
Ở Ấn Độ ngày
xưa, một đồng tiền lớn bằng 16 đồng tiền nhỏ. Còn ở Trung Hoa kia, dù trộm lấy
năm tiền hay tài vật đáng giá năm tiền, đều kết thành trọng tội. Nếu trộm từ
bốn tiền trở xuống, chỉ phạm tội khinh. Dù kết thành tội trọng, nhưng giới thể
cũng không bị mất.
Trường hợp mỗi
lần trộm tài vật không tới năm tiền, nhưng hai ba lần mới được năm tiền thì
phạm tội khinh hay trọng? Điều này cần phải xem xét ý niệm kẻ trộm khi ấy mà
quyết đoán: nếu cố tâm đi trộm nhiều lần cho đến số năm tiền thì phạm tội
trọng.
Nếu kẻ trộm
không có ý tương tục, thì cứ mỗi lần trộm, một lần kết tội khinh. Mười lần
trộm, kết tội khinh mười lần. Còn thêm một vấn đề nữa là tùy địa phương mà tài
vật lấy được đáng giá năm đồng tiền hay chưa được năm đồng tiền mà kết tội
khinh hay trọng. Thí dụ như một vật ở Tân Gia Ba giá đáng năm tiền hay hơn năm tiền,
nhưng ở Kiết Long Ba lại không đến năm tiền. Việc nầy cần phải xem xét giá trị
đồ vật ở nơi trộm mà luận tội. Như vật bị trộm ở Tân Gia Ba đáng năm tiền hay
hơn năm tiền thì kết thành trọng tội, nhưng có thể đem dùng ở Kiết Long Ba thì
vật ấy không đến năm tiền.
5. Cử ly bổn xứ
(lấy đem đi khỏi chỗ cũ): Nói vật của người cất giấu tại một nơi, kẻ trộm đem
vật ấy ra khỏi nơi người chủ cất giấu. Bất luận tự mình di động vật, bảo người
di động, phương tiện di động, dùng chú thuật di động. Lúc tài vật ly khai khỏi
chỗ cũ thì thành tội trộm cắp.
Trường hợp mượn
tiền bạc hay tài vật của người, về sau chối nợ không chịu trả. Nếu người chủ nợ
chưa có ý không đòi, tâm họ còn hy vọng người mượn sẽ trả đủ số tiền mượn cho
mình thì vẫn không kết thành tội trộm cắp. Khi nào chủ nợ thấy tuyệt vọng không
đòi được nữa, quyết định bỏ số nợ ấy, thì người mượn phạm tội trộm cắp.
Như trường hợp
có người bạn thân đem tiền của, vàng bạc, châu báu gởi cho mình; về sau mình
phủ nhận là chưa từng nhận đồ của người gởi. Không phải mới phủ nhận một lần
liền bị kết tội, tại sao vậy? Vì người chủ kia không bao giờ bỏ tài vật một
cách dễ dàng, mà nhất định dùng nhiều phương pháp, hoặc đối với người kia nói
rõ ngày tháng đã trải qua trong thời gian gởi tài vật, hoặc nói nhân duyên hai
người là thân hữu với nhau để hy vọng người kia trả lại.
Đến khi người
chủ tài vật tuyệt vọng, không còn hy vọng đòi được và có ý tưởng bỏ của. Khi
ấy, người chiếm đoạt tài bảo kia mới đầy đủ nhân duyên kết thành tội trộm cắp.
Đến như những hàng hóa hay tài vật phải đóng thuế mà qua mắt nhân viên kiểm tra
chính phủ, khi đạt được mục đích trốn thuế mới kết thành tội trộm cắp.
Trường hợp sai
bảo người trộm cắp, nếu bảo người đến nơi ấy lấy vật ấy đem về. Nhưng người
nhận lời sai bảo lại đi đến nơi khác, lấy vật khác đem về, thì người đi trộm
đem về kia phạm tội trộm cắp, còn người sai bảo chỉ mang tội phương tiện trộm
cắp.
Trường hợp người
sai bảo đi lấy tài vật, tiền bạc, cố tâm có ý trộm cắp, còn người nhận lời sai
bảo kia vô tâm, cho rằng chỉ theo lời sai bảo, cần lấy đồ vật, tiền bạc... đem
về. Khi tài vật ly khai khỏi chỗ của người chủ cất giấu, thì người sai bảo kẻ
đi lấy phạm tội trọng, còn người nhận lời sai bảo không phạm tội.
Trường hợp trái
lại, nếu người bảo đi lấy tiền bạc, đồ vật không có tâm trộm cắp, nhưng người
được bảo đi lấy lại có tâm trộm cắp; lúc tài vật ly khai khỏi chỗ của người chủ
cất giữ thì người lấy phạm trọng tội, còn người sai bảo đi hoàn toàn không phạm
tội.
Lại còn trường
hợp người sai bảo đi, bổn ý muốn người mình sai bảo trộm lấy tài vật đáng giá
năm tiền, nhưng người kia lại đi lấy tài vật không đủ số năm tiền mà chỉ bốn
tiền trở xuống. Trường hợp này, cả hai đều chỉ kết thành tội khinh cấu mà thôi.
Trái lại, nếu bảo người đi trộm lấy đồ vật, bổn ý người sai bảo muốn lấy chừng
bốn tiền trở xuống, nhưng người nhận lời sai bảo lại trộm lấy tài vật đáng giá
năm tiền trở lên. Trường hợp này, người sai bảo chỉ bị kết tội khinh cấu, còn người
đi lấy phạm trọng tội.
Lại nữa, nếu
người bảo đi lấy tài vật, bổn ý không định nhiều ít, năm tiền trở lên hay bốn
tiền trở xuống... Người đi lấy trong tâm mù mờ, trộm tài vật đem về. Trường hợp
này kết tội cách nào? Phải xem xét giá trị tài vật ấy mà quyết định:
- Nếu giá đáng
năm tiền trở lên thì cả hai đều mang tội trọng.
- Nếu giá đáng
bốn tiền trở xuống thì cả hai chỉ bị kết tội khinh cấu.
Còn có trường
hợp cả hai người đi lấy món đồ trị giá năm tiền trở lên, nhưng khi chia, mỗi
người chỉ nhận được phân nửa, nghĩa là không đến năm tiền. Trường hợp này lẽ ra
không phạm tội, nhưng vì lúc tài vật ly khai khỏi địa phương cất giữ, giá đáng
năm tiền hay hơn, nên cả hai đều phạm tội trọng.
Hoặc giả có
trường hợp chỉ bảo cho người đi lấy vật ấy, nhưng tự mình không có ý lấy một
phần nào trong số đó, thì người dạy bảo này không phạm tội trọng. Nhưng nếu lúc
người nhận lời sai bảo lấy tài vật ly khai khỏi chỗ cũ đem về, người sai bảo
nhận một phần do người đi trộm chia cho. Nếu người sai bảo biết rõ đồ vật là do
trộm cắp đem về mà vẫn tiếp thọ, thì không tránh khỏi tội trộm cắp. Nếu người
ấy hoàn toàn không biết đồ vật vốn là do trộm cắp đem về, tưởng lầm là của
người tặng cho mình thì dù có nhận cũng không tội.
Theo sự phân
biệt trên, chúng ta thấy trộm cướp có nhiều tội khác nhau và rất vi tế. Nếu
không lưu tâm, chỉ một chút cũng có thể phạm giới rồi. Thế nên, chúng ta là
Phật tử, nhất là một vị Đại Thừa Bồ Tát, đối với giới trộm cướp này cần phải
đặc biệt lưu ý một cách nghiêm cẩn.
Vậy phải làm thế
nào để không phạm tội trộm cắp?
Trong Luật dạy
chúng ta thế này: Nếu trong tâm nhận là người khác cho mình, hoặc xem đồ vật
hay tiền bạc ấy là của mình, hoặc cho là vật phấn tảo người khác không cần
dùng, vất bỏ, hoặc lấy đồ vật hay tiền bạc có ý nghĩ là của thân hữu, tạm dùng
sau này sẽ trả lại, hoặc vì bệnh loạn tâm cuồng trí, không biết là đồ vật, tiền
bạc của người. Những trường hợp trên không phạm giới trộm.
Trộm cướp cũng
đồng với sát sanh. Có khi Bồ Tát có thể từ trong tay người khác cướp đoạt tài
vật lại. Việc này Ấn Thuận Luật Sư trong Phật Pháp Khái Niệm có thuyết
minh:
“Trộm cướp và
sát sanh vẫn tương đồng. Bất luận là quốc vương, tể tướng, đại thần hay thường
dân, nếu có người cướp tài vật một cách phi pháp, thì Bồ Tát không ngần ngại
truất phế, lật đổ quyền vị của các quốc vương, tể tướng, chủ tụ lạc hay thường
dân ấy... Với khả năng của mình, vị Bồ Tát đoạt lại tài vật từ trong tay kẻ
cướp đoạt đem trả lại cho người bị cướp đoạt. Đây là việc cần phải thực hiện,
không thể bỏ qua. Đối với kẻ cướp đoạt kia, việc làm này của Bồ Tát cũng là một
thiện hạnh. Vì nếu để cho họ thọ dụng tài vật đã cướp đoạt một cách phi pháp,
tức là gia thêm tội ác cho họ càng sâu. Cướp đoạt lại là cứu tế cho họ.
Trong tâm Bồ Tát
hoàn toàn không có tâm niệm giận ghét như đối với cừu thù, mà vẫn phải có tâm
từ bi, lân mẫn với những kẻ ác ấy hơn người lương thiện. Nếu làm như vậy mà những
người ấy vẫn không lìa bỏ những hành vi tội ác, cứ buông lung cướp đoạt tài vật
của người một cách phi pháp, Bồ Tát cần phải dùng tinh thần “ngã bất nhập địa
ngục, thùy nhập địa ngục” (ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục). Đã có
tinh thần như vậy, đối với người hành động phi pháp trên, cứ giết họ hay đoạt
tài vật trở lại!”
Vấn đề này, Du
Già Luận Bồ Tát Giới Bổn nói rất rõ ràng như sau:
“Nếu chư Bồ Tát
khi thấy kẻ cường đạo hay bọn trộm cướp đoạt lấy tài vật của người khác hoặc
của tăng già hay tháp Phật. Kẻ cường đạo kia ngoan cố buông lung, tùy tình tự ý
thọ dụng những tài vật đã cướp đoạt ấy. Buông lung thọ dụng tài vật của Tam Bảo
mà không biết tội ấy rất nặng, tương lai sẽ thọ khổ trong ác thú trải qua nhiều
kiếp.
Bồ Tát thấy thế,
đối với kẻ giặc cướp ấy sanh khởi tâm lân mẫn thâm sâu, muốn làm lợi ích an lạc
cho chúng, tùy theo khả năng của mình, chọn lấy một phương cách cưỡng bức mà
đoạt tài vật, đừng để bọn chúng buông lung thọ dụng mà trong đời vị lai phải
chịu lấy khổ quả bi thảm.
Bồ Tát vì tâm
lân mẫn, muốn lợi ích hữu tình mà đoạt lại tài vật. Nếu đồ vật ấy thuộc về tăng
già thì đem trả cho tăng già; thuộc về tháp Phật đem trả lại tháp Phật; là tài
vật của thường dân, trả lại cho thường dân. Riêng mình, một vật rất nhỏ như sợi
tơ, sợi tóc đều không tâm ham muốn.
Bồ Tát vận dụng
khả năng, tự mình có sức mạnh đoạt lại tài vật đem trả lại chỗ cũ, do tâm lân
mẫn đối với hữu tình, vị Bồ Tát đó chẳng những không vi phạm tội mà lại còn
sanh nhiều công đức. Nếu đối với tài vật đã đoạt lại, sanh khởi tâm tham, dù
một vật nhỏ như sợi tơ, chẳng những không sanh công đức, lại trở thành kẻ trộm
cướp, đoạt lấy của cải kẻ trộm cướp là một việc tuyệt đối không được”.
Không nên trộm
cướp mà trộm cướp, buông lung theo vọng tình thọ dụng quyết không nên. Đã có
nghiệp nhơn này đương nhiên phải thọ khổ quả.
Nói về chánh báo
thì đọa trong tam ác thú, chịu nhiều thống khổ.
Nói về dư báo
sau khi thoát khỏi tam ác đạo, sanh trong nhơn đạo phải chịu hai thứ quả báo là
bần cùng và cộng tài bất đắc tự tại. Nghĩa là tài vật trên thế gian thuộc về sở
hữu cộng đồng của năm nhà:
- Ác quốc
vương.
- Giặc
cướp.
- Nạn
nước.
- Nạn lửa.
- Con bất hiếu
phá của.
Vì thế
gọi là “cộng tài bất đắc tự tại”, chứ không phải có nghĩa ai cũng có thể tự do
thọ dụng. Nói theo Phật pháp thì tiền của dù nhiều đến đâu, không sớm thì muộn cũng
đều tiêu tan, không thể vĩnh viễn là vật của mình; nên tục ngữ có câu:
Tiền tài bất hội
siêu tam đại,
Vãng vãng đệ thị
cập thân nhi tận.
Dịch:
Tiền của không
bao giờ tồn tại hơn ba đời.
Thường thường truyền
đến đời mình đã hết.
Vì thế, theo
Phật pháp, việc tích chứa tiền của giàu có chính đáng còn không được khích lệ
tán dương, hà huống làm giàu trộm cướp hoặc do kiến lợi vong nghĩa mà được, đều
là những việc nhơ bẩn và muôn ngàn tội ác. Đức Phật không bao giờ tán thán, hứa
khả. Nhưng bất hạnh thay cho thế nhân! Quá yêu tiếc tiền của, chỉ ghét ít chứ
không ghét nhiều, vì thế thường tạo nhiều tội ác. Họ không biết rằng: không nên
tích tụ tiền của. Vì sao vậy?
Vì đến khi ta
tích tụ được nhiều tiền của thì sanh mạng của ta cũng sắp kết thúc. Cổ đức có
hai câu răn dạy:
Chúng sanh chỉ
hận tụ vô đa,
Cập đáo đa thời
nhãn bế liễu
Dịch:
Một đời chỉ hận
chứa không nhiều,
Đến khi được
nhiều thì nhắm mắt.
Khi nhắm mắt
chẳng mang được gì theo! Cái có thể mang theo chính là Nghiệp, thế tại sao cứ
khổ thân vì của, vì tiền mà tạo nghiệp?
Cho nên làm
người, nếu không trộm lấy của người, chẳng những đời này không bỏ được tâm tham
lam, tật đố, thân tâm được an lạc, thanh tịnh, mà trong đời tương lai được phước
báo đại phú, đại tài bảo, hào quý tự tại. Tiền của vật quý của mình, quốc
vương, trộm cướp, nạn nước, nạn lửa không thể xâm đoạt. Vì thế, hàng Phật tử
nói riêng, tất cả nhân loại nói chung, cần phải vâng lời Phật dạy, nghiêm cẩn
trì giới không trộm cướp này cho thanh tịnh.
Chú
thích:
1) Tứ Nhiếp Pháp:
Bồ Tát dùng bốn pháp này để nhiếp hóa chúng sanh. Tứ Nhiếp Pháp gồm:
- Bố Thí Nhiếp:
nếu chúng sanh ưa thích tài vật thì đem tài vật bố thí, ưa nghe chánh pháp thì
đem chánh pháp bố thí, khiến chúng sanh nhân đó sanh tâm ưa thích, thân cận,
nương theo mà bẩm thọ giáo pháp.
- Ái Ngữ Nhiếp:
tùy theo căn tánh của chúng sanh mà dùng lời khéo léo, nhã nhặn an ủi, khuyến
dụ, khiến chúng sanh sanh tâm thân ái, nương tựa mà bẩm thọ đạo pháp.
- Lợi Hành Nhiếp:
từ ba nghiệp thân, khẩu, ý sanh khởi thiện hạnh, làm lợi ích cho chúng
sanh.
- Đồng Sự Nhiếp:
dùng pháp nhãn xem căn tánh của chúng sanh, tùy chỗ ưa muốn của chúng mà phân
thân thị hiện đồng việc làm với chúng, để chúng sanh do đây mà bẩm thọ đạo
pháp.
2) Ngũ Vô Gián:
địa ngục A Tỳ thứ tám trong tám cảnh đại địa ngục. Gọi địa ngục A Tỳ là Ngũ Vô
Gián vì có năm duyên cớ không gián đoạn:
- Thủ quả vô gián:
thọ quả báo không gián đoạn, vì tạo tội cực ác, chiêu cảm quả khổ trong địa
ngục này, thuận theo hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) hoặc sanh nghiệp (nghiệp đời
vị lai), thời gian tạo nghiệp cùng với thọ quả liên tục, không gián đoạn đến
đời khác.
- Thọ khổ vô gián
- Mạng vô gián:
thọ mạng của tội nhơn trong địa ngục này tương tục, không gián đoạn.
- Hình vô gián:
ngục A Tỳ này rộng tám muôn do tuần, thân hình của tội nhân cũng lớn tám muôn
do tuần, không còn một chỗ hở trống, nên kinh Địa Tạng nói: “Nhứt nhân diệc mãn,
đa nhân diệc mãn” là lý ấy (một người cũng đầy, mà nhiều người cũng đầy).