KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.9. SÂN TÂM BẤT THỌ HỐI GIỚI
(tâm sân hận,
không chịu tiếp thọ sám hối)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử tự sân, giáo nhân sân...” cho đến câu “thị Bồ Tát Ba La Di tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử
tự mình giận, bảo người giận, duyên giận, nhân giận, cách thức giận, nghiệp
giận. Người Phật tử lẽ ra phải làm sao cho chúng sanh được những căn lành,
tránh sự gây gổ, thường có lòng từ bi, hiếu thuận. Nếu trái lại đối với tất cả
chúng sanh, cả đến loài phi chúng sanh, mà đem lời nhục mạ, lại thêm dùng tay
chân, dao gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ. Thậm chí, nạn nhân kia lấy lời nhỏ
nhẹ xin cầu sám hối tạ tội, nhưng vẫn không nguôi giận, Phật tử này phạm lấy Bồ
Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Đối với Bồ
Tát, tội lỗi của sân nặng hơn tham. Chẳng hạn tham có được đồ chúng đông đảo
nên tiếp cận với chúng sanh, thường cùng chúng sanh giao tiếp, liên quan mật
thiết. Còn sân hận là thứ ác độc làm tổn hại người, không thể thường qua lại
lui tới với chúng sanh. Dù có ý muốn tiếp xúc với chúng sanh, nhưng chúng sanh
đã biết tính nóng giận của Bồ Tát, sẽ ly khai xa lìa thì làm sao nhiếp hóa
chúng sanh?
Cho nên, đứng về
phương diện lợi sanh thì không có thứ ác pháp nào có thể siêu thắng hơn một tâm
niệm sân của Bồ Tát. Tại sao vậy?
Vì thứ sân độc
này khiến chúng sanh có thể giáo hóa đều xa lánh. Ngoài ra còn có đủ trăm nghìn
thứ chướng ngại như chướng ngại hạnh nhẫn nhục của Bồ Tát, phá hoại tâm đại bi
của Bồ Tát.
Tâm đại bi là
động lực duy nhất bạt trừ thống khổ cho chúng sanh. Chúng sanh bị bất cứ thống
khổ gì, Bồ Tát đều nhằm vào bi tâm của mình để bạt trừ khổ não cho chúng sanh. Nhưng
khi sân tâm phát khởi, thì quên hẳn sự thống khổ của chúng sanh, nên chẳng
những không giải trừ lại còn làm tăng sự thống khổ, gây tổn hại cho chúng sanh.
Cho nên vị Bồ Tát chân chánh phát tâm độ sanh, phải luôn an trụ trên tâm từ bi,
thương xót nỗi thống khổ của chúng sanh. Thấy chúng sanh ngu si, vô trí lại
càng đáng thương hơn nữa, nên từng giờ, từng phút tìm cách giải quyết sự khó
khăn khổ não cho chúng sanh, không nên sân hận làm tăng gia sự thống khổ cho
chúng sanh.
Bồ Tát vì hóa độ
chúng sanh trong sanh tử, thà hy sinh cảnh giới an vui tịch diệt Niết Bàn thì
không nên phát đại sân nộ đối với chúng sanh. Nếu Bồ Tát khởi tâm sân hận sẽ
hành động những việc không phải đối với chúng sanh. Như vậy làm sao có thể tu
học hạnh Bồ Tát tự lợi, lợi tha?
Hơn nữa, Bồ Tát
lấy nhẫn nhục làm bản hoài. Dù chúng sanh có đến làm não loạn mình cũng không
nên đối với chúng sanh khởi tâm sân hận.
Nên biết chúng
sanh não loạn, đánh mắng, khủng bố, giết hại mình hoặc trói cột mình đều do nơi
ác nghiệp thuở quá khứ của mình phát sinh, nên mới sinh ra những việc bất như ý
ấy. Như thế chỉ nên buồn trách mình, không nên đối với chúng sanh sân hận quở
trách.
Lại nữa, nói về
luật nhân quả, sở dĩ người đối đãi với mình như vậy là do mình ở thời quá khứ
đã từng não hại người. Do nghiệp nhân đó, mà hiện phải cảm thọ những nỗi thống
khổ như vậy. Nếu nay ta không an tâm nhẫn thọ những điều này thì chỉ gieo thêm
nhân khổ đến tận đời vị lai.
Vì thế, đối với
lỗi lầm của người khác, không chịu an tâm nhẫn thọ bỏ qua là tự mình chuốc lấy
sự phiền phức cho chính mình và tự mình trói buộc lấy mình. Cho nên hành giả Bồ
Tát ngay lúc phát sanh nóng giận, dù không nghĩ đến chúng sanh, cũng phải nghĩ
đến mình. Khi có tư tưởng như vậy thì tâm nóng giận tự nhiên không phát
sanh.
Lại nữa, trường
hợp chúng sanh gây ra những chuyện phi lý làm mình khổ, không phải là tội lỗi
của của chúng sanh mà là do ma phiền não sai sử làm như vậy. Chính chúng sanh
kia cũng không làm chủ được.
Ta hôm nay đã
phát tâm Bồ Đề, cầu quả vô thượng Chánh Giác, phải vì chữa trị đại bịnh phiền
não cho chúng sanh. Ngay lúc bệnh sân phiền não của chúng sanh phát hiện, chính
là lúc ta phải đối trị cho chúng sanh. Phải cấp thời dùng thuốc pháp tối thượng
từ bi trị liệu căn bệnh sân phiền não cho chúng sanh, mới giúp cho chúng sanh
được thuyên giảm, dứt trừ vĩnh viễn, mới là hợp đạo.
Như vậy Bồ Tát
không nên chấp theo sở kiến thông thường của chúng sanh mà phát đại sân nộ, lôi
đình, đem giận trả giận.
Lại nữa, chúng
sanh ở trong sanh tử thì cả mình và người đều đau khổ, chúng sanh không hiểu
Phật pháp nên ngu si, mê muội mới đến tăng gia khổ não cho ta. Chúng ta thực
lòng không nên buồn trách họ. Ta đã phát Bồ Đề tâm, đã biết chúng sanh trong
sanh tử toàn là khổ não, thì lẽ nào lại làm tăng sự khổ não giống như chúng
sanh vô trí kia? Chẳng những ta không nên làm như vậy mà còn phải tùy theo sức
mình, khả năng mình khiến cho chúng sanh xa lìa những thống khổ, mới là một
Phật tử hành Bồ Tát đạo.
Vì ta lúc tối sơ
phát tâm Bồ Đề, chính là phải vì tất cả chúng sanh gánh vác lấy gánh nặng.
Chẳng những đối với những nỗi đau khổ nhỏ nhặt phải nhẫn thọ cho chúng sanh, mà
đại kịch khổ trong địa ngục, ta cũng phải lãnh thọ thế cho chúng sanh. Có như
vậy mới không trái với bổn thệ của ta.
Nếu không thể
nhẫn thọ những nỗi khổ lớn hay nhỏ này, tự mình không thể điều phục được, thì
làm sao khiến cho chúng sanh xa lìa các phiền não? Suy tư như thế, tự nhiên
không bao giờ sân hận.
Lại nữa, Bồ Tát
đã thọ sanh trong uế độ này, thế giới ác trược dĩ nhiên phải có những điều bất
như ý. Lúc những việc bất như ý hiển hiện, chỉ có tự mình phải điều phục lấy
mình để thoát khỏi cảnh khổ bất như ý ấy, đâu nên phát đại sân nộ?
Như người đi vào
trong rừng rậm đầy gai góc, đương nhiên là phải bị gai góc đâm vào thân. Lúc ấy
chỉ tìm cách làm thế nào mau ra khỏi rừng gai góc ấy. Nếu sân hận mắng nhiếc
những gai nhọn đâm vào thân mình thì thật hoàn toàn không hợp đạo lý.
Bồ Tát lại suy
tư như vầy: sanh mạng nhục thể của tất cả chúng sanh đều không vĩnh cửu. Niệm
niệm đều tiến đến chỗ hoại diệt. Xưa nay không một sát na nào dừng trụ. Vị Bồ
Tát có đủ trí huệ, đối với sanh mạng nhục thể vô thường hoại diệt ấy, không nên
nhẫn tâm khởi niệm sân hận. Lại không nên vì sân hận mà não hại chúng sanh,
thậm chí còn đoạn tuyệt sanh mạng của chúng sanh!
Hành giả Bồ Tát
đối với tất cả chúng sanh não hại mình đều phải suy tưởng nhiều khía cạnh như
vậy, để chỉ thấy rằng chúng sanh đáng thương xót. Đối với tất cả đều phải dung
thứ, nhờ đó có thể nhẫn thọ tất cả sự não hại của chúng sanh không khởi tâm sân
hận nữa.
Bồ Tát thực hành
sáu pháp Ba La Mật, nhất là Nhẫn Nhục Ba La Mật, nhờ chúng sanh làm trợ duyên
để thành tựu. Vì thế nếu không có chúng sanh thì công đức sáu ba la mật không thể
viên thành. Hơn nữa, Bồ Tát tu hạnh Nhẫn Nhục, cần phải có người đến não hại
thì Bồ Tát mới có thể thành tựu hạnh Nhẫn Nhục. Nếu không như vậy thì hạnh Nhẫn
Nhục của Bồ Tát làm sao tu thành được!
Ở Tây Phương Cực
Lạc Tịnh Độ, không cần tu pháp nhẫn nhục, vì ở trong cõi ấy đều là chư Thượng
Thiện Nhân câu hội, không có ai não hại ai. Ở uế độ Ta Bà này, ai đến não hại
Bồ Tát, thì người ấy chính là người giúp thành tựu hạnh Nhẫn Nhục cho Bồ Tát,
và người ấy cũng chính là thiện tri thức của Bồ Tát. Thế thì đối với người ấy, tạ
ơn không xiết, sao lại trở nên sanh tâm sân hận?
Không lưu tâm tạ
ơn đã là việc không đúng rất lớn, lại còn sanh tâm tức giận với người ấy thì
đâu phải là tư cách của một vị Bồ Tát? Vì thế, Bồ Tát đối với chúng sanh đến
não hại mình, chỉ nên cám ơn, không nên sân não!
Bồ Tát quan sát
vạn vật, vạn sự, tất cả các pháp trong vũ trụ đều từ nhân duyên sanh. chúng
sanh sân hận, đánh đập Bồ Tát cũng là do nhân duyên. Duyên bên ngoài như do tay
chân, gậy gộc, gươm đao của chúng sanh. Duyên bên trong do sanh mạng nhục thể
của mình. Nhân duyên trong ngoài kết hợp lại mới thành việc đánh đập, mạ nhục.
Vì thế, không nên đơn phương sân hận với người, vì nếu sân hận với người thì
nên sân hận với chính mình.
Tại sao nếu sân
hận với người thì nên sân hận với chính mình?
Vì có nhục thân
của mình, người mới đến đánh mắng mình. Đánh đập mắng nhiếc đã do nhân duyên mà
thành, tất nhiên không có thật tánh. Thế thì đã không có người năng đánh mắng,
cũng không có mình là kẻ bị đánh mắng.
Suy tư như thế
thì Nhẫn còn không có cơ sở để thành lập, thì làm sao có pháp gì gọi là Sân?
Nên kinh Pháp Cú nói:
Tri sân đẳng
dương diệm,
Nhẫn diệc vô sở
nhẫn.
Dịch:
Biết sân như khí
nóng,
Nhẫn cũng không
có chỗ để nhẫn.
(Dương: khí dương;
diệm: nóng bừng. Dương diệm là sức nóng của vầng thái dương, ở những chỗ trống
trải như sa mạc buổi trưa, trời hạ, sức nóng bốc lên)
Kinh Tư Ích cũng
dạy: “Thân mình cùng kẻ oán địch và đao trượng đều do tứ đại sanh. Với địa,
thủy, hỏa, phong chưa từng thấy có sự tổn thương. Dầu cho thân này có bị lóc
từng mảnh thịt, nhưng tâm ấy vẫn thường nhiên bất động. Biết rõ tâm không phải
ở trong, không phải ở ngoài sanh ra. Các pháp niệm niệm, sanh diệt không ngừng.
Tánh của nó thường không tự lập. Ở trong ấy không có người mạ nhục, cũng không
có ai là người cung kính. Tất cả pháp đều như huyễn, như mộng, nên Bồ Tát đối
với việc mạ nhục, chẳng những không sanh tâm sân hận. Trái lại, càng gia tăng
sức nhẫn nhục cho chính mình. Bồ Tát đối với người cung kính mình chẳng những
không sanh tâm vui mừng, ưa thích, thậm chí cũng không xem sự cung kính ấy là
việc để mình hưởng thụ”.
Bồ Tát chẳng những
không nên đối với chúng sanh sanh tâm sân hận, bức não không duyên cớ, mà chính
chúng sanh cố ý đến não hại Bồ Tát, Bồ Tát cũng vận dụng những phương tiện suy
tưởng để nhẫn thọ.
Trong kinh dạy
ba cách tư duy để nhẫn thọ sự não hại của người khác:
1. Trách nghiệp
khiên ương tư (suy nghĩ tự trách do nghiệp lực chiêu cảm tai ương):
Bồ Tát khi bị
người bức bách não hại, phải suy tưởng như vầy: Ta bị những nỗi thống khổ tai
nạn như vầy, không phải do nhân duyên gì khác, mà chính do nghiệp lực của ta đã
tạo gây trong thời quá khứ theo đuổi, khiến ta phải chịu sự bức bách, não hại
của người. Nếu ta không nhẫn thọ thì sẽ bị gia tăng nhân thống khổ và tự trói
cột lấy mình. Như thế là tự mình không thương lấy mình. Chỉ có nhẫn thọ mới
tránh khỏi khổ lớn trong tương lai. Thế nên đối với sự bức não của người khác,
chúng ta cần phải nhẫn thọ.
2. Tánh gia hình
khổ tư (tư duy rằng tự tánh của sinh mạng là hành khổ)
Hành khổ là cái
khổ của sự sanh diệt không ngừng. Người bức bách, não hại và người bị bức bách,
não hại, tự thể tánh sanh mạng của cả hai đều bị khổ nên lẽ ra không nên ai bức
bách, não hại để gia tăng sự thống khổ cho nhau.
Hiện chúng sanh
vô tri mê tối, vô cớ đến não hại thân ta, khiến thân ta chịu rất nhiều sự thống
khổ. Lỗi ấy là do người, nhưng ta là người đã hiểu được đạo lý thì không nên hành
động theo sự hiểu biết của những người thông thường, làm gia tăng sự thống khổ
cho chúng sanh. Nên dù hiện tại ta bị thống khổ đến mức độ nào, cũng đều phải
nhẫn thọ, tuyệt đối khống được trở lại não hại người.
3. Dẫn liệt
huống thắng tư (tư duy đem sự kém thua so sánh với cái thắng):
Là những hành
giả trong Nhị Thừa, mục đích là mong cầu tư lợi, còn không làm khổ chúng sanh.
Ta là Bồ Tát Đại Thừa, lấy lợi tha làm bổn nghiệp duy nhất, nên khi thấy chúng sanh
khổ, ta phải giúp họ bạt trừ không hết, sao lại làm việc gia tăng sự thống khổ
cho chúng sanh? Suy tư như thế rồi tự nhiên an nhẫn với các thống khổ.
Nho gia Trung
Quốc có nói: “Giữa người với người tương xử với nhau, không làm sao tránh khỏi
việc oán hận mất lòng, nhưng nhất quyết không nên dùng oán trả oán, mà phải
dùng trực trả oán, dùng đức báo oán”.
Dùng đức báo oán
là như thế nào?
Như người đem
đại thống khổ đến cho ta, ta lại đem đại an lạc trả lại cho người. Đó là dùng
Đức để báo oán.
Dùng trực trả
oán là như thế nào?
Như có người làm
cho ta chịu nhiều đau khổ, ta đừng buồn giận họ, mà nên tự nghĩ đấy là nợ ta
phải trả. Đấy là dùng Trực báo oán.
Nếu người người
đều có thái độ như thế thì trên thế gian này làm sao có thể xảy ra không khí
bạo ác hung tàn, nhưng nhìn khắp cả nhân loại trên thế gian hiện nay, mấy ai
được quan niệm lương hảo này? Khắp mọi nơi đều diễn ra cảnh bạo lực hung tàn.
Bạo lực càng mãnh liệt chừng nào càng được mọi người xem là anh hùng đệ nhất.
Vì thế, không lạ gì trên toàn thế giới, nơi nào cũng nhiễu nhương, không an ổn.
Nhân loại dường như đang sống trên ngọn núi lửa, giờ giờ phút phút trong cảnh
sợ sệt, hãi hùng.
Vì thế, chúng ta
phải nhận chân rằng: hạnh nhẫn nhục của Phật pháp thật là một sự kiện tối cần
yếu, phải luôn được đề xướng và thực hành một cách thiết thực.
Dù là người đến
xúc phạm bạn, nhưng nếu họ đã biết lỗi, không muốn cho bạn sanh phiền não, nội
tâm không an vui, nên đến tạ tội với bạn. Là một vị Bồ Tát, bất luận là như thế
nào, khi ấy, bạn cần phải tiếp thọ sự sám hối tạ lỗi của chúng sanh để mối quan
hệ giữa hai bên được hòa thuận trở lại, không nên tạo sự căng thẳng mãi, như thế
mới là hợp đạo.
Nhưng nếu trong
khi ấy, nội tâm của bạn vẫn ôm ấp mối sân hận cao độ, không tỏ thái độ tiếp thọ
sự sám hối tạ lỗi của chúng sanh. Đấy không còn là lỗi của chúng sanh mà hoàn
toàn là lỗi của Bồ Tát. Vì vậy, đề mục của giới này là “sân tâm bất thọ hối
giới”.
Chữ Giới là ngăn
ngừa, cấm chỉ không cho phát sanh tội lỗi nói trên. Giới này thất chúng đệ tử
đều có thể vi phạm. Nhưng quy định khinh hoặc trọng không giống nhau, là do
quan niệm sai khác rất lớn giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Đại Thừa Bồ Tát
lấy việc tiếp độ chúng sanh làm nhiệm vụ duy nhất. Bất cứ mọi lúc tới lui, qua
lại, tiếp xúc với chúng sanh đều phải tỏ thái độ thân thiết đầy thiện cảm, và
sắc diện luôn hòa vui. Nếu Bồ Tát đối với chúng sanh thường sanh nóng giận, sắc
diện lộ vẻ sân nộ, không đúng với tư cách tiếp đãi người. Do vậy, sự quan hệ giao
tiếp với chúng sanh càng thêm cách biệt. Cho nên tội này rất nặng.
Thanh Văn Tiểu
Thừa lấy tư lợi làm mục đích duy nhất, nên không cần giao tiếp thường xuyên với
chúng sanh. Nhưng đôi khi bị người gây chướng ngại việc tu đạo của mình nên
khởi niệm sân hận đối với người. Việc ấy dù không nên, nhưng chẳng qua chỉ mắc
tội nhỏ Đột Kiết La trong tụ thứ bảy mà thôi.
Chúng sanh không
ai thích nhìn thấy thái độ của người nổi trận lôi đình. Trong kinh dạy:
Chúng sanh bất
hỷ kiến,
Vô nghịch, vô
sân nhuế.
Dịch:
Tất cả chúng
sanh không thích thấy thái độ giận dữ nên đừng trái nghịch, đừng nổi sân
nhuế.
Vì người lúc nổi
giận, hiện ra tướng hung bạo, thân tưng bừng, miệng la hét, tâm phẫn nộ, làm
cho ai trông thấy cũng sợ. Tự mình không thấy biết, nhưng những người xung
quanh nhìn thấy rất rõ ràng. Phụ nữ khi phát sân nộ, người ta gọi là Dạ Xoa
cái, đàn ông khi nổi giận đùng đùng gọi là quỷ La Sát, mặt mày rất khó xem,
không ai thích nhìn thấy.
Sân tâm một khi
đã phát sanh rồi thì ba nghiệp đều gồm đủ như sắc diện lộ vẻ sân si, cử chỉ
hung thần ác quỷ, chính là thân nghiệp. Miệng thốt những lời thô ác, người khác
không muốn nghe lọt vào tai, đấy là khẩu nghiệp. Trong tâm phát sanh sân nộ
hung hăng, ấy là ý nghiệp. Một niệm sân khi nổi dậy, cả ba nghiệp đều hiện bày.
Thế thì hành giả trong Phật pháp không nên lưu tâm đặc biệt đến giới này
sao?
Đức Phật lại dạy
đại chúng rằng: “Nếu Phật tử là một vị Đại Thừa Bồ Tát, bất luận là tự sân,
hoặc bảo người sân, đều không thể được. Vì sân hận là thứ đại tặc cướp mất công
đức. Đã làm thương tổn từ tâm của mình lại cũng tổn thương đạo niệm của mình.
Đối với người đã không ích, với mình cũng bất lợi, thế thì hà tất chi mà sanh
sân hận, phát cơn nóng giận đùng đùng?”
Tự sân là tự
mình ôm ấp niệm sân hận bên trong, hàm chứa độc ác trong nội tâm, phát lộ ra
thân, khẩu, nghiệp bên ngoài, làm những việc bạo ác hung tàn, khiến chúng sanh
trông thấy phải sợ hãi, kinh hoàng.
Bảo người sân là
bảo người khác phát đại sân nộ đối với kẻ khác. Trường hợp này có người cho
rằng: tự mình nổi giận, muốn phát lúc nào cũng được, không có vấn đề gì khó;
còn bảo người khác nóng giận thì họ đâu dễ dàng gì nghe theo mình, nên khi bảo
họ nổi giận, mà họ liền nổi giận thì đâu có hợp lý?
Lời nói ấy thật
sai lầm! Nên biết mọi người đều có sẵn tánh hung ác bạo tàn, nên khi bạn bảo họ
nổi nóng, chỉ cần lúc ấy bạn nói vài câu khích động thì tâm họ đang vui vẻ
chuyển sang nóng giận tức thì. Nhưng nếu bạn bảo họ nhường nhịn, họ khó lòng
nghe theo, đôi khi còn không hài lòng, vì cho rằng làm người trên thế gian,
việc gì phải nhu nhược đến thế?
Nhẫn nhịn, nhu
hòa vốn là mỹ đức. Thực tế, đối với những việc đáng nhường nhịn, nhưng khi bảo
người làm thì lại rất khó khăn, còn sân nộ là thứ tội ác mà bảo người làm lại
rất dễ dàng. Do đó, đủ thấy nhân tính đa số là hung bạo, mà nhân từ thì lại rất
ít.
Bảo người khác
sân hận, khái lược gồm ba động cơ:
1. Mình đối với
người có ý không tốt: Nếu mình trực tiếp có thái độ sân si đối với người làm
mình phật ý thì chứng tỏ tư cách thấp kém của mình. Vì vậy, bảo người khác sân
hận với họ để thay mình rửa sự oán hận.
2. Bảo người này
sân hận với người kia, rồi mình đóng vai kẻ có lòng tốt, đi hòa giải đôi bên để
giữ thế trung gian trục lợi.
3. Bảo người sân
hận với những kẻ vốn là cừu địch của họ để cho đôi bên mưu nghịch, giết hại lẫn
nhau. Còn mình làm kẻ bàng quan, nhìn xem đôi bên xung đột, mưu hại lẫn nhau,
nội tâm vô cùng thích thú. Khởi tâm xúi giục người này sân hận với người kia
rất là độc ác. Cả hai trường hợp này: tự mình sân hoặc bảo người sân đều trái
với bi tâm của Bồ Tát và mang tội rất nặng.
Kết thành tội
sân tâm không tiếp thọ sám hối cũng có bốn điều kiện: nhân, duyên, pháp,
nghiệp, phân biệt sơ lược như sau:
1. Sân nhân
(nhân giận): chủng tử sân hận từ vô thỉ, trở lại huân tập, hàm chứa trong tạng
thức. Do chủng tử sẵn có ấy, hiện tại mới phát khởi tâm niệm sân, gọi là sân
nhân.
2. Sân duyên
(duyên giận): tâm niệm sân hận sau khi đã phát sanh, tiếp tục không gián đoạn.
Lại thêm đối tượng sân kia hiện ở trước mắt trợ giúp cho sự sân hận nổi lên, nên
gọi là sân duyên.
3. Sân pháp
(cách thức giận): mưu tính kế hoạch như thế nào để làm cho đối phương phải bị
nhục, như đánh đập, mạ nhục v.v... gọi là cách thức giận.
4. Sân nghiệp
(nghiệp giận): Do ba việc trên hòa hợp để thành tựu nghiệp sân hận, làm cho đối
phương biết rõ mình giận họ, gọi là sân nghiệp.
Cổ đức có dạy:
“Nghiệp thành tất ưng đọa trầm luân, oán kết vạn đại, thế thế mạc giải, khả bất
thận tai!” (Ác nghiệp thành rồi thì bị trầm luân đọa lạc; muôn đời kết oán kết
thù, đời đời không thể cởi mở, vậy thì không nên thận trọng hay sao?)
Nhưng Bồ Tát
muốn không sân hận phải làm cách nào?
Phải triệt để
tuân theo lời Phật dạy: “Ưng sanh nhứt thiết chúng sanh thiện căn vô tranh chi
sự, thường sanh từ bi tâm, hiếu thuận tâm” (nên làm cho chúng sanh tất cả được
những căn lành không tranh chấp, và phải thường có lòng từ bi, lòng hiếu
thuận).
Theo Phật pháp,
tâm địa của tất cả chúng sanh vốn là nhu hòa, thuần thiện, nhưng vì từ vô thỉ,
bị vô minh phiền não che đậy khiến chúng sanh khởi tâm sân hận, phát sanh tranh
luận, tranh chấp. Lúc đầu không cần thiết, nhưng dần dà đi đến cảnh ẩu đả tàn
khốc với nhau, thậm chí gây cảnh máu rơi thịt nát. Đấy là sự thống khổ của
chúng sanh.
Sự thật là tất
cả sự tranh luận trên thế gian đều do tâm sân phát sanh. Nếu sân tâm không hiện
khởi tức là pháp vô tranh (không gây gổ, tranh chấp). Pháp vô tranh chính là
căn bản làm tăng thiện pháp.
Bồ Tát đã hiểu
đạo lý này thì phải thường khởi tâm từ bi, phát khởi căn lành sẵn có cho chúng
sanh. Khi căn lành ấy được phát khởi thì thực hành thiện sự và sẽ không bao giờ
xảy ra việc gây gổ, tranh chấp. Chừng ấy mọi người sẽ sống trong không khí hòa
vui, đi đến nơi nào cũng tạo được một bầu không khí tràn đầy hạnh phúc và thế
gian này sẽ trở thành cảnh nhân gian tịnh độ.
Nếu không thực
hành như vậy, ta phát nóng giận với người, người nổi sân hận với ta. Dần dần
đôi bên tranh cãi, ẩu đả, thì thế gian này biến thành đấu trường của A Tu La.
Bồ Tát lại phải thường sanh tâm hiếu thuận. Quán sát tất cả chúng sanh là cha
mẹ của mình. Trọn ngày luôn phụng dưỡng, kính thờ không đủ làm sao dám ngỗ
nghịch và sanh lòng tức giận đối với mẹ cha.
Về mặt thế gian
pháp, một người con đối với cha mẹ mà sanh lòng nóng giận thì bị mọi người cho
là đứa con bất hiếu. Huống chi một Phật tử thọ Bồ Tát giới mà không lo việc phụng
sự hiếu dưỡng, lại nhẫn tâm trái nghịch từ ý của song thân?
Nói ngược lại,
Bồ Tát cũng xem tất cả chúng sanh như con đỏ của mình, phải thường sanh tâm từ
bi dưỡng dục con trai, con gái của mình cho tử tế. Đến khi khôn lớn trở thành một
người hữu ích cho nhân quần, xã hội. Đâu thể nào nhẫn tâm sân hận với các con
của mình, thậm chí còn đánh đập, mạ nhục chúng?
Nói theo thế
tục, kẻ thường đánh đập, mắng chửi con cái là người không có tâm từ ái. Hà
huống là một vị Bồ Tát, đối với chúng sanh như con đỏ của mình mà không có tâm
từ bi, ái hộ hay sao? Làm sao có thể nhẫn tâm làm tổn hại các con của
mình?
Cho nên một hành
giả Bồ Tát chân chánh, không thể buông lung sân tâm của mình, không thể vừa mới
động đến đã đùng đùng nổi giận. Như thế sẽ không thể nào nhiếp hóa chúng sanh
tu theo Phật pháp.
Vì sân tâm khi
sanh khởi, tất nhiên mất tâm từ bi. Tâm từ bi đã mất thì huệ mạng của Phật cũng
bị đoạn tuyệt. Như vậy, còn đâu là tư cách của vị Bồ Tát?
Dù ở trường hợp
nào, Bồ Tát hóa độ chúng sanh đều phải khuyến hóa chúng sanh phát sanh thiện
căn, không được sân hận. Lại phải khởi tâm từ bi, tâm hiếu thuận đối với chúng
sanh. Nếu không thực hành như vậy mà trái lại, đối với tất cả chúng sanh cùng
những loài phi chúng sanh đem lời ác mắng mạ nhục, còn thêm đánh đập bằng tay
chân hay dao gậy mà vẫn chưa hả dạ thì hoàn toàn không đúng với tư cách của Bồ
Tát.
Ở trong kinh văn
nói loài phi chúng sanh, ý nghĩa rốt ráo là gì?
Có chỗ giải
thích phi chúng sanh là loại vô tình như cây đá v.v... Có chỗ cho là biến hóa
thân. Có chỗ nói là chư Phật, thánh nhân. Nếu đối với các đối tượng ấy sanh
khởi sân tâm thì những tội lỗi vương lấy có khinh, có trọng, luận giải bất
đồng.
Những trường hợp
phát tâm sân nộ đối với những loài vô tình như cây, đá... vẫn có thể xảy ra. Có
những người khi phát tâm đại sân nộ, chẳng những đánh mắng những kẻ chung quanh
mà ngay cả với những vật vô tình như bàn ghế, cây cối v.v... cũng vẫn nổi nóng,
đánh đá, chửi mắng lung tung. Vì cây đá... là loài vô tri nên dù bạn khởi đại
sân hận cách nào, đối với chúng hoàn toàn không bị tổn hại. Chẳng qua hành động
trên, chỉ chứng tỏ bạn là người không có công phu tu dưỡng, gây sự bất lợi cho
chính bạn. Hành động này không phạm căn bổn trọng tội, chỉ phạm tội khinh cấu
mà thôi.
Trường hợp
đối với hàng biến hóa nhân mà sanh tâm sân hận, dù biến hóa nhân thuộc về vô
tình, nhưng bạn cứ tưởng thuộc về hữu tình nên sanh tâm sân hận, mạ nhục, nên
cũng chỉ phạm tội khinh cấu.
Nếu đối với
chư Phật, thánh nhân mà sanh tâm sân hận. Vì không rõ các ngài là thánh nhân có
đủ các công đức nên mới sân si, cực lực đánh đập. Sở dĩ gọi các ngài là phi
chúng sanh, vì các ngài không như chúng sanh thông thường, tùy nghiệp thọ sanh
trong các cõi sanh tử.
Nếu đem lời ác
mạ nhục là khẩu nghiệp. Dùng tay chân, dao gậy đánh đập là thân nghiệp, mà vẫn
chưa thỏa dạ là ý nghiệp. Ba nghiệp như thế hung dữ còn hơn cọp sói nên kết
thành căn bổn trọng tội.
Bồ Tát dùng tâm
sân hận mãnh liệt tổn não hữu tình, hoặc hữu tình dùng tâm phẫn nộ mãnh liệt
xúc phạm Bồ Tát. Về sau hữu tình tỉnh ngộ biết mình có lỗi. Bấy giờ nạn nhân
kia mới đến trước mặt Bồ Tát, đặc biệt dùng lời nhỏ nhẹ xin lỗi cầu sám hối, tạ
tội. Đúng luật, Bồ Tát lúc ấy phải tiếp thọ sự sám hối của người, nhưng trái
lại nếu vẫn còn không hết giận thì Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Trường hợp trên
đây, vì người biết lỗi đến trước Bồ Tát cầu xin sám hối là đủ hai nghiệp thân
và ý. Họ dùng lời nhỏ nhẹ xin lỗi sám hối tạ tội là thêm phần khẩu nghiệp. Dùng
ba nghiệp kiền thành như thế để sám hối với Bồ Tát. Nếu Bồ Tát vẫn không hết
giận: trên thì trái với Phật dạy, giữa thì trái với bổn tâm của mình, dưới thì trái
với hạnh độ sanh. Ác nghiệp gia tăng không tổn giảm, thánh đạo cách xa không
thể tu hành. Cho nên nói Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Bồ Tát nổi sân
mắc phải trọng tội như vậy, vì mỗi khi có hành động cử chỉ sân nộ, chúng sanh
chẳng những không dám đến gần, lại còn ly khai xa rời Phật pháp. Nên biết rằng
Phật pháp cốt yếu nhiếp thọ chúng sanh. Nay bạn xô chúng sanh ra ngoài Phật
pháp, đó chính là tội ác của bạn. Vì vậy, nếu Bồ Tát sân si với chúng sanh, thì
tội ấy không thể dung thứ.
Nên kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Ninh ái nhiễm vô sân” (thà sanh tâm ái nhiễm, không nên sanh tâm
sân hận) là ý nghĩa này vậy.
Tại sao Phật lại
dạy như thế?
Vì ái nhiễm dù
không tốt, nhưng còn có thể kết duyên gần gũi với chúng sanh, để đem Phật pháp
giáo hóa, dẫn dắt khiến chúng sanh tín thọ để trở thành một người tốt trong
Phật pháp. Còn phát khởi nóng giận với chúng sanh, chỉ làm cho chúng sanh xa
lìa và kết ác duyên thì dù Phật pháp tốt đẹp đến đâu, chúng sanh cũng không
chịu tiếp thọ sự khuyến hóa của bạn, để tin theo Phật pháp mà tu hành.
Giới này đủ Tam
Tụ Tịnh Giới của Bồ Tát:
- Tự mình không
giận, không bảo người giận, thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Thường sanh
tâm từ bi thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Thường sanh
tâm hiếu thuận là Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Vì thế nếu
vi phạm giới này là hủy phá Tam Tụ Tịnh Giới thì không còn là tư cách của Bồ
Tát.
Giới này cũng có
đủ hai loại Tánh và Giá tội:
Tự trong tâm
mình khởi sân hận là bị giặc sân phiền não cướp mất hết tất cả công đức pháp
tài và làm thương tổn pháp thân huệ mạng của hành giả, nên thuộc về Tánh tội. Đức
Phật ngăn cấm không được vi phạm giới này, nếu có chỗ vi phạm thì thuộc về Giá
tội.
Phạm giới này
phải hội đủ năm duyên mới kết thành trọng tội. Phân biệt sơ lược như sau:
1. Thị chúng
sanh (là chúng sanh):
- Nếu đối với
chúng sanh thượng, trung phẩm mà nổi sân hận thì phạm căn bổn trọng tội.
- Với chúng sanh
hạ phẩm, sanh tâm sân hận, phạm tội khinh cấu.
Nếu với chúng
sanh hạ phẩm có đủ giới Bồ Tát mà sanh tâm sân hận cũng phạm căn bổn trọng tội,
nhưng giới thể không bị mất, cần phân biệt cho rõ.
2. Tưởng chúng
sanh (tưởng là chúng sanh): Gồm các trường hợp sau:
Căn cứ vào
Đương, Nghi, Tịch mà phân biệt tội trọng và khinh, mỗi loại có hai câu, thành
ra tất cả 6 trường hợp:
* Với ba trường
hợp này, nếu khởi tâm đại sân nộ thì phạm căn bổn trọng tội.
- Thật là chúng sanh
tưởng là chúng sanh thật.
- Thật là chúng
sanh nghi là chúng sanh thật.
- Thật không
phải chúng sanh tưởng là chúng sanh thật.
* Với ba trường
hợp này, nếu khởi tâm đại sân nộ thì phạm tội khinh cấu.
- Thật là chúng
sanh nhưng tưởng không phải chúng sanh.
- Thật không
phải chúng sanh tưởng không phải chúng sanh.
- Thật không
phải chúng sanh nghi là không phải chúng sanh.
3. Sân
tâm:
Trong tâm ôm ấp
niệm tức giận cao độ, khi người làm ta tức giận không đến bày tỏ ý sám hối tạ
tội, lòng ta luôn ôm ấp sự tức giận. Hoặc người đó sau khi biết lỗi đến trước
Bồ Tát, chí thành khẩn thiết cầu sám hối tạ tội, nhưng Bồ Tát vẫn sân hận không
nguôi, không chịu hòa giải, tha thứ cho người đến sám hối. Đây chính là chủ
nghiệp kết thành căn bổn trọng tội.
4. Sân tướng
(biểu lộ tướng không thọ sám hối):
Những người đến
Bồ Tát sám hối, tạ tội. Khi ấy, căn cứ vào đâu để biết Bồ Tát có tiếp thọ sự
sám hối của người hay không? Như người biết lỗi, đến trước Bồ Tát sám hối, tạ
tội, Bồ Tát liền vào phòng đóng cửa lại, làm hai bên ngăn ngại nhau. Dù người
ấy van xin, cầu khẩn cách nào, Bồ Tát cũng không đếm xỉa đến. Hoặc đối với
người đến sám hối, không chút thương tình, nói rằng: “Thôi ông đừng đến đây
nữa. Tôi không thể nào hòa giải với ông. Tôi suốt đời tức giận ông. Tôi trông
thấy ông càng thêm chán ghét. Tôi không muốn nói chuyện với ông nữa. Ông hãy mau
mau đi xa khỏi chỗ tôi v.v...” Như trên là biểu thị ý không tiếp thọ sự sám hối
của người.
5. Tiền nhân
lãnh giải (người trước mặt lãnh hội, hiểu rõ)
Bất luận bạn
dùng những lời cự tuyệt, dứt khoát hay dùng những hành động tỏ ý cự tuyệt. Nếu
người xác thực biết rõ bạn không chịu tiếp nhận sự sám hối của họ. Tùy theo hai
nghiệp thân khẩu của bạn biểu hiện nhiều hay ít, mà kết thành tội nặng hay
nhẹ.
Trong Du Già
Giới Bổn có nói về vấn đề này: Bồ Tát an trụ nơi giới pháp mà bị hữu tình vì
không biết nên có những hành động lỗi lầm xúc phạm đến Bồ Tát. Sau khi nghĩ
lại, biết mình có lỗi, hữu tình ấy liền đến trước Bồ Tát chí thành cung kính,
đúng như pháp mà nhận lỗi, khẩn thiết cầu xin sám hối. Đúng lẽ ra, lúc ấy Bồ
Tát phải sanh tâm đại hoan hỷ, tiếp thọ sự sám hối tạ tội của người, dùng những
lời từ hòa nhã nhặn an ủi để cho người được an vui. Nhưng Bồ Tát này trong tâm
lại còn ôm niệm giận ghét, nhân cơ hội này buông lời đả kích khiến người mất
hết danh dự, và tăng thêm phiền não. Như thế, hoàn toàn trái với giới luật Bồ
Tát và bị phạm tội nhiễm ô.
Dù cho Bồ Tát
không ôm tâm sân hận, bực tức đối với người đến sám hối, tạ tội; cũng không có
ý muốn tổn não người, nhưng vì bản tánh hẹp hòi, không thể dung thứ sự xâm phạm
mình trước kia, nên hiện tại dù người năn nỉ, sám tạ cách nào cũng không chịu
tiếp thọ. Như thế trái với bổn nguyện lợi sanh của Bồ Tát nên cũng thuộc về tội
nhiễm ô, vi phạm không thể dung thứ.
Lại nữa, Bồ Tát
an trụ giới luật dù hữu tâm hay vô ý xâm phạm, tổn hại đến hữu tình, hoặc dù
không tổn hại, nhưng nếu người khác cho là bạn làm tổn hại thì bạn phải thành
khẩn sám hối, tạ lỗi với hữu tình ấy, để tránh sự hiểu lầm mà kết thành oán thù
giữ hai bên. Nhưng vì trong tâm bạn có niệm ghét giận tật đố, hoặc do tánh cống
cao ngã mạn nên đã không nhận lỗi và không sám hối tạ tội với hữu tình. Hoặc do
nhân duyên đặc biệt nào đó, phải gắng gượng đến người nói lời khiêm nhượng,
nhưng trong tâm vẫn mang niệm khinh thường. Như vậy là không đúng với tư cách
một vị Bồ Tát, nên cũng thuộc về tội nhiễm ô.
Trường hợp Bồ
Tát dùng phương tiện để điều phục chúng sanh, khiến chúng sanh ra khỏi cảnh
giới bất thiện, được an trụ trong Phật pháp nên Bồ Tát không tiếp thọ sự sám
hối của chúng sanh. Trường hợp này không bị phạm tội.
Trường hợp bạn
phải đến trước người sám hối, tạ tội, nhưng bạn biết trước tánh tình của người
ấy ưa gây gổ, và sự việc không đến sám hối, tạ lỗi tính ra có phần tốt hơn. Vì
nếu đến sẽ làm tăng thêm phần nóng giận và phát đại sân nộ cho họ, nên bạn
không đến cũng không phạm tội.
Hoặc bạn biết cá
tánh của người ấy rất hòa nhẫn, đối với bất cứ việc gì cũng không có tâm hơn
thua. Nếu bạn đến sám hối chỉ làm cho người đó thêm hổ thẹn. Bạn nhận thấy như
thế nên không đến hối tạ, cũng không phạm tội.
Điều quyết định:
Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh không nên phát đại sân nộ. Đó là quy định
không thể thay đổi. Nhưng chúng sanh căn tánh bất đồng, vì thế phương pháp giáo
hóa dẫn dắt cũng không thể một mực.
Nghĩa là lúc cần
phải từ bi thì thực hành hạnh từ bi. Lúc đáng chiết phục cũng phải tỏ sân hận.
Như trường hợp chúng sanh tánh tình bạo ác, hoặc với những đồ chúng ác tánh, ác
kiến, vì muốn cho những người ấy tiến vào con đường chánh của Phật pháp nên
không thể không biểu lộ ra cặp mắt phẫn nộ của thần Kim Cang.
Cổ đức có
dạy:
Ngoại hiện oai
nghi tâm thực từ,
Khẩu hạ xích chi
niệm chí mẫn;
Chánh thị đại sĩ
điều phục cang cường
Chúng sanh chi
đại dụng,
Khởi dữ cụ tam
độc giả nhi tỷ gia?
Dịch:
Bên ngoài hiện
tướng oai nghi mà nội tâm thì hiền từ, ngoài miệng quở la, xua đuổi mà trong
lòng vô cùng thương xót. Đây chính là sự đại dụng để điều phục chúng sanh cang cường
của bậc đại sĩ, đâu có thể so sánh với những người đầy đủ tam độc trong
lòng.
Cho nên xưa nay
Phật pháp cũng có câu:
Kim Cương nộ
mục;
Bồ Tát tâm
trường.
Dịch:
Bên ngoài hiện
cặp mắt phẫn nộ như thần Kim Cương, nhưng tâm dạ lại là tấm lòng nhân hậu của
Bồ Tát.
Nơi đây xin nêu
một thí dụ, như trường hợp có những chúng sanh không biết hổ thẹn, nếu không
hủy phá cấm giới của Như Lai thì cũng vi phạm quy chế của Tăng đoàn. Bồ Tát
gánh vác trách nhiệm giáo hóa dẫn dắt mọi người. Nếu thấy chúng sanh có những
sai phạm phải quở trách, thì phải cực lực quở trách. Cần phải trị phạt thì trị
phạt; cần tẫn xuất thì phải y luật tẫn xuất. Tuyệt đối không được vị nể. Những
chúng sanh như vậy không nên dung túng họ làm ác mãi.
Nếu Bồ Tát có
tâm nhiễm ô, đối với người có tội nhiều lại thương xót, luyến ái, ấy là từ bi
giả dối. Trường hợp đáng quở trách mà không quở trách, đáng trị phạt mà không
trị phạt, đáng tẫn xuất mà không tẫn xuất; dung túng những người phá cấm giới,
phạm quy điều, để cho họ tiếp tục tạo ác, để rồi phải bị đọa lạc. Điều ấy chẳng
những không phải tâm từ bi của Bồ Tát mà thuộc về tội nhiễm ô, vi phạm giới
hạnh của Bồ Tát.
Cho nên một vị
Bồ Tát không phải giữ lấy một mặt từ bi mà được, có khi cũng cần hiện oai lực
để dẫn dắt chúng sanh đi lên con đường chánh của Phật pháp. Có những trường hợp
đặc biệt, Bồ Tát không cần phải quở trách, trị phạt, tẫn xuất các hành giả học
Phật ấy, vẫn không bị phạm tội.
Chẳng hạn như Bồ
Tát biết rõ kẻ ấy nương vào một thế lực ác. Dù trách phạt họ thế nào cũng không
có tác dụng. Hoặc biết chúng sanh ấy tánh tình đặc biệt ngang trái, không thể giảng
giải, hoặc nói lời chi họ cũng không chịu tiếp thọ. Hoặc biết chúng sanh ấy
không có chút tâm hổ thẹn. Nếu bạn hành sự đúng theo pháp, chẳng những họ không
tiếp thọ, lại còn thốt ra những lời thô ác, khiến việc làm của bạn không thành
tựu. Hoặc biết chúng sanh ấy tâm sân hận rất nặng, nếu quở trách, trị phạt
chẳng những họ không cho là bạn muốn dạy bảo để họ trở thành người tốt, ngược
lại giận ghét bạn suốt đời...
Những loại chúng
sanh nói trên bạn có thể mặc kệ chúng không cần quở trách, trị phạt, tẫn xuất,
mà không vi phạm giới Bồ Tát. Vì sao vậy?
Vì dù răn dạy
cách nào, nhất định phải đạt tác dụng lợi ích mới được. Bằng ngược lại, thà
đừng răn dạy tốt hơn.
Lại nữa việc trị
phạt, quở trách còn phải hợp và thích ứng với thời cơ. Nếu tình hình thực tế
lúc ấy không thích hợp, trị phạt sẽ sanh khởi chuyện tranh chấp, gây gổ càng dữ
dội. Nếu không trị phạt thì vấn đề lại không đến nỗi thành việc ác thì không
nên trị phạt.
Hoặc biết rõ nếu
trị phạt, quở trách, chẳng những không thể khiến người bỏ dữ theo lành, lại còn
làm cho tăng đoàn sanh chuyện gây gổ, náo loạn, không thể cùng nhau an tu, thậm
chí vì sự quở trách này mà tăng đoàn bị rạn nứt thì không nên quở trách.
Hoặc kẻ phá giới
phạm quy kia vốn là kẻ rất biết bổn phận, nhưng vì sự lầm lỡ nhất thời mà làm
những việc không đúng pháp, về sau tự phản tỉnh, biết mình có lỗi sẽ tự trách
phạt lấy mình và cải hối một cách nhanh chóng, thệ nguyện không bao giờ tái
phạm lỗi lầm.
Những trường hợp
như vậy, Bồ Tát không quở trách, trị phạt vẫn không vi phạm Bồ Tát giới. Với
người thường sanh tâm sân hận, tương lai quyết phải đọa lạc vào trong tam ác
đạo, thọ các quả báo thống khổ. Đại Trí Độ Luận có nói: “Do duyên cớ sân hận,
sau khi xả thân bị đọa vào tám cảnh đại địa ngục”.
Kinh Hoa Nghiêm
cũng dạy: “Tội sân hận thượng phẩm là nhân địa ngục; trung phẩm là nhân súc
sanh; hạ phẩm là nhân ngạ quỷ”. Nếu khi thọ quả báo trong tam ác đạo đã mãn, chuyển
sanh trong nhân gian sẽ bị hai thứ quả báo:
1. Thường bị
người tìm kiếm chỗ hay dở của mình. Nói bạn việc này không đúng, việc kia không
đúng. Xem như bạn là một người không có một điều gì đúng cả.
2. Thường bị
người não hại sự sinh hoạt của bạn, ở bất cứ nơi nào cũng làm cho bạn bị khổ
não. Do đó, bạn không bao giờ được an ổn.
Lại nữa, phàm
người có tánh nóng giận, do trong lúc phát đại sân nộ, sắc mặt hết sức khó
nhìn. Cho nên lúc chuyển sanh làm người tướng mạo rất xấu xa, người người thấy
đều không ưa thích. Chánh báo đã như vậy thì y báo thọ dụng hoàn toàn không
được vừa ý, thậm chí những hoa quả, phẩm vị của chúng dù ngọt, nhưng bạn ăn vào
lại rất đắng chua.
Theo Phật pháp
dạy: “Chư Thiên cõi Dục còn có sân hận, nhưng chư thiên hai cõi Sắc và Vô Sắc
đều không sân hận”. Trong Câu Xá Luận có câu tụng rằng: “Thượng nhị bất hành sân”
(hai cõi trời trên, sân tâm không hiện hành).
Hiện tại lúc làm
người thường vọng sanh sân hận thì trạng thái an vui thiền định của hai cõi
trên tự nhiên mất hẳn, không thể hưởng thọ. Chẳng những trạng thái an vui thiền
định ở thế gian không được phần mà vui giải thoát của Nhị Thừa tự nhiên cũng
không có.
Là một vị Bồ
Tát, cần phải lấy tư lợi, lợi tha làm bổn nguyện duy nhất. Và bổn nguyện này,
nhất định phải phát xuất từ nơi tâm từ bi mới có thể hoàn thành hạnh nguyện tư
lợi, lợi tha. Vì thế, nếu thường sanh tâm nóng giận thì hạnh nhị lợi nói trên
bị sân hận làm tổn hại. Cho nên dù ở bất cứ trường hợp nào, quyết không nên sân
hận vậy.