KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.30. KINH LÝ BẠCH Y GIỚI
(giới quản lý
cho bạch y)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử dĩ ác tâm cố...” cho đến câu “phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử
vì ác tâm, tự mình hủy báng Tam Bảo, giả làm ra vẻ kính mến, miệng nói không mà
hành vi lại có, làm quản lý cho hàng bạch y, hoặc làm mai mối cho nam nữ giao
hội dâm sắc, gây thành các nghiệp kiết phược. Những ngày lục trai trong mỗi
tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sát sanh, trộm cướp, phá
trai, phạm giới, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Mười giới như
thế cần phải học, hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm Chế Giới có giảng
rõ.
Lời giảng
Làm
những điều tội ác tổn hại chúng sanh, trái với tâm từ bi của Bồ Tát là những
điều mà giới trước ngăn cấm.
Nếu công nhiên
hủy phá giới cấm của Như Lai, thương tổn đức hạnh của Bồ Tát là điều ngăn cấm
của giới này.
Có người cho
rằng hành giả Thanh Văn kính trọng, giữ gìn giới luật, trong khi Bồ Tát ở trong
thế gian lo thực hành việc lợi sanh nên không cần phải nghiêm trì giới luật,
gặp những trường hợp thuận lợi có thể phương tiện thì không ngần ngại cứ nắm
lấy phương tiện. Nếu nghĩ như vậy và thốt ra những lời như thế thì thật là hết
sức sai lầm.
Nên biết rằng
tịnh giới Như Lai, bất cứ là hành giả ở trong giới nào của Phật pháp đều phải
nghiêm cẩn giữ gìn, không được có chút sai sót. Đặc biệt nhất là hành giả Bồ
Tát, vì du hành giáo hóa khắp nhân gian, đi đến nơi nào cũng phải tiếp xúc với
chúng sanh. Nếu đức hạnh của chính mình không kiện toàn thì làm sao có thể làm
sư phạm cho nhân thiên? Làm sao có thể thuyết phục mọi người tu học Phật
pháp?
Vì thế vị Bồ Tát
chân chính, phát tâm Bồ Đề, cần phải tự mình giữ gìn giới hạnh thanh tịnh hơn
gấp bội lần hành giả Thanh Văn. Luôn luôn một lòng nhớ nghĩ, hộ trì cấm giới
vững chắc dường như kim cương. Bồ Tát thà hy sinh tánh mạng của mình, quyết
không hủy phạm giới cấm của Như Lai. Vì thế, không nên trở lại sanh khởi ác
tâm, làm những điều tội ác: dâm, sát, đạo, phỉ báng v.v... Nếu làm những việc
ấy là không hợp pháp và dĩ nhiên là không xứng danh của người Phật tử.
Cho nên hành giả
Bồ Tát không nên tự cho mình là Bồ Tát mà có thể tùy tiện hủy phá cấm giới của
Như Lai. Khổ quả ấy bạn phải lãnh thọ, không thể nào viện cớ vì bạn là vị Bồ
Tát nên không có trách nhiệm về sự trái phạm giới luật. Đây là điều mà người
Phật tử hành Bồ Tát đạo cần phải đặc biệt nghĩ kỹ!
Giới này có chỗ
gọi là giới “không kính hảo thời”, nhưng ở đây gọi là “giới quản lý cho bạch
y”.
“Hảo thời” là
những ngày lục trai hằng tháng và ba tháng trường trai hằng năm. Theo tương
truyền, ngày lục trai và ba tháng trường trai là thời gian quỷ thần đắc lực hỗ
trợ.
Nếu trong khoảng
thời gian hảo thời ấy, hàng Phật tử tại gia chuyên lo tu tập pháp lành, làm
việc phước thiện thì được công đức nhiều hơn lúc bình thường.
Đối với những
người thế gian có tâm kính trọng lúc hảo thời này, chuyên lo tu thiện nghiệp
thì hàng chư thiên vô cùng hoan hỷ, chư vị sẽ ban cho những điềm lành, ủng hộ
quốc gia, nhân dân được an cư lạc nghiệp.
Trái lại, nếu
những lúc hảo thời không lưu tâm kính sợ, buông lung tạo tội ác, chư thiên
trông thấy không hoan hỷ. Do đó, chiêu cảm những tai họa dị kỳ khiến đời sống
của nhân dân chịu nhiều thống khổ không sao nói hết.
Giới quản lý
bạch y này là giảng nói về những tội lỗi của người xuất gia là phải có nhiệm vụ
dẫn dắt hàng Phật tử tại gia tu hành đúng như lời Phật dạy: ăn chay, giữ giới,
sám hối, tụng kinh, niệm Phật để cùng tiến tu trên đường giải thoát.
Nếu Bồ Tát không
thực hành như vậy, trái lại, miệng nói không mà việc làm lại mang tính chất
chấp có, cai quản, chỉ dẫn việc thế tục, hướng dẫn hàng bạch y đi theo con
đường sinh tử. Như vậy đâu phải là việc làm của người xuất gia? Vì thế không
thể nói là giới kính hảo thời mà phải gọi là giới quản lý bạch y.
Trong thời Mạt
Pháp hiện nay, có rất nhiều chuyện trái ngược phát sanh. Chẳng hạn người tại
gia đi làm việc của người xuất gia, như đem kinh mõ đi tụng kinh sám cho người.
Kẻ xuất gia lại làm những việc của người tại gia như làm tùng sự trong những
lãnh vực doanh thương cho người tại gia. Vì những hiện tượng đảo điên như vậy,
nên giữa Tăng và tục thường xảy ra rất nhiều sự tranh chấp. Hiện tượng quái lạ
này không phải chỉ xảy ra ở một nơi nào mà đâu đâu cũng đều như vậy. Thế nên
còn đợi đến bao giờ mới nhận thấy sự suy tàn của Phật pháp?
Nếu chúng ta
muốn Phật pháp hưng thạnh trở lại, cần phải khẩn cấp vạch rõ phương thức hành
động cho cả tăng lẫn tục:
Như Phật tử tại
gia phải lấy việc hộ pháp làm nhiệm vụ chính. Phải đứng ở lãnh vực hộ pháp mà
hộ trì Phật pháp, không được làm công việc của người xuất gia.
Còn hàng Phật tử
xuất gia phải lấy việc hoằng pháp làm sự nghiệp. Phải đứng trên lập trường
hoằng pháp mà hoằng dương Phật pháp không được làm những công việc của người
tại gia.
Đức Phật lại dạy
đại chúng rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, nếu không dùng tâm tốt
thực hành Bồ Tát đạo, mà lại vì ác tâm, tức là không có tâm kính thành đối với
Tam Bảo, tự thân hủy báng Tam Bảo, giả vờ kính mến, miệng thì nói không mà hành
vi lại thực sự có”.
- Tự thân hủy
báng Tam Bảo là thân nghiệp không thanh tịnh.
- Giả vờ kính
mến là ý nghiệp không thanh tịnh.
- Miệng nói
không mà hành vi lại có là khẩu nghiệp không thanh tịnh.
Lại có chỗ giải
thích rằng: Tự thân hủy báng Tam Bảo là không phải chỉ riêng miệng hủy báng.
Người hủy báng Tam Bảo phải do nơi tâm niệm xuất phát. Khi tâm niệm đã bất
chính thì thân tự nhiên cũng bất chính, làm bất cứ việc gì cũng đều không chân
thật.
Chẳng hạn có
người nương náu trong ngôi Tam Bảo, nhưng sau đó trở lại hủy báng. Điều ấy
chứng tỏ người đó không có lòng tin chân thành đối với Tam Bảo. Họ chỉ giả dối
thân cận để tựa nương, hy vọng mọi người cung kính cúng dường cho mình. Khi mục
đích không đạt được, bấy giờ bắt đầu hủy báng ngôi Tam Bảo, bảo rằng Tam Bảo
không chân thật thế này, thế kia... Do nương tựa trong ngôi Tam Bảo, mà mang ý
niệm như vậy, dù đôi lúc hành vi dường như mang vẻ lợi ích, như tuyên nói những
đạo lý giải thoát, không, vô ngã v.v... cho người, nhưng những hành động này
luôn luôn biểu hiện tinh thần lẩn quẩn trong vòng “chấp có”.
Nên thông thường
trong kinh nói:
Phát ngôn tắc
khẩu khẩu thuyết không,
Tố lý tắc thời
thời hành hữu.
Dịch:
Thốt ra lời nói
thì lời lời đều nói là không,
Trên thực tế,
mọi việc làm lúc nào cũng là có.
Hiện tượng này ở
trong Phật giáo nơi nào cũng có. Trường hợp cụ thể như có những người ngoài
miệng nói Ngã là không mà tự mình lại chấp ngã hơn ai hết. Hoặc nói tiền bạc là
của cải chung, của năm nhà, tất cả đều không phải là của riêng mình; vì đến
ngày cuối cùng, con người chỉ ra đi với hai bàn tay không v.v... Nói thì nói
vậy, nhưng riêng mình thì mong được tiền của càng nhiều càng tốt. Lại còn không
dám bỏ ra một đồng để cứu giúp người. Đây là chứng minh điều trong kinh dạy:
“Miệng thì nói không, mà hành vi là có”.
“Làm quản lý cho
bạch y”, câu kinh văn này có những giới bổn không có. Nhưng ở đây nói thêm câu
này để ám chỉ công việc của hàng bạch y, cư sĩ không phải là việc của người
xuất gia lo liệu, nên gọi là “làm quản lý cho người bạch y”. Việc quản lý ấy
như thế nào?
Trong kinh dạy: “Vì
hàng bạch y thông tri giúp cho nam nữ giao hội dâm sắc, gây thành các nghiệp
kiết phược”.
Chữ “thông” ở
đây có nghĩa là truyền đạt cho biết.
Chữ “tri” là
biết.
Nghĩa là truyền
đạt ý của bên nam cho bên nữ, hay của bên nữ cho bên nam, để tạo điều kiện cho
hai bên hành động buông lung. Do đó, người nam gây phiền trược cho người nữ,
người nữ nhiễm ái yêu thương người nam. Hai bên triền phược, ái nhiễm lẫn nhau,
trói cột nhau, rồi cùng trôi lăn vào vòng sinh tử luân hồi không biết ngày nào
được giải thoát. Việc làm như thế là trói cột cho mình và người, cho nên đó
không thể nào là việc của người xuất gia nên làm.
Bồ Tát xuất gia
cần phải vì mọi người mà cởi mở sự trói cột, nói rõ tội ác của ái dục là cội
gốc sinh tử luân hồi. Tùy theo căn cơ của mỗi người mà dần dần dẫn dắt họ đồng
đi lên con đường giải thoát quang đãng, không còn bị trôi lăn trong sinh tử
luân hồi, bị các phiền não triền phược trói cột như vậy mới đúng.
Ngày lục trai
mỗi tháng và ba tháng trường trai mỗi năm là khoảng thời gian gọi là “hảo
thời”.
* Những ngày lục
trai là mùng 8, 14, 15, 23, 29 và 3. Những ngày thiếu không có 30 thì đôn lên
tức là 28, 29. Ngày lục trai cũng gọi là Lục Thiên Nhật, là ngày các thiên
vương, thiện thần tuần hành trong nhân gian, khảo sát các điều thiện ác.
- Ngày mùng 8 và
23 là ngày của những vị sứ giả của Tứ Thiên Vương giáng hạ để tuần hành trong
nhân gian, thị sát để xem thế nhân hành thiện hành ác.
- Ngày 14 và 29
là ngày của Thái Tử Tứ Thiên Vương giáng hạ tuần hành thị sát nhân gian.
- Ngày rằm và 30
là ngày của bốn vị Thiên Vương đích thân giáng hạ thị sát nhân gian.
Nếu các ngài
nhận thấy nhân gian nhiều người y theo Phật pháp tu tập thiện nghiệp, các Ngài
vô cùng hoan hỷ, sẽ bảo hộ quốc giới và ban phước cho khắp nhân gian.
Trái lại, nếu
thấy nhiều người tạo ác, các ngài rất lo buồn và sẽ giáng những điềm bất an cho
quốc giới để cảnh cáo thế nhân, nhắc nhở họ phải bỏ dữ làm lành.
Vì sự quan hệ
này, Đức Phật mới dạy Phật tử nam nữ tại gia, đã quy y Tam Bảo, thọ Ngũ Giới,
hoặc thọ Bồ Tát giới, mỗi tháng những ngày lục trai nên thọ Bát Quan Trai Giới
trong một ngày một đêm, thì được phước đức hơn những ngày khác.
* Ba tháng
trường trai trong mỗi năm là tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín. Ba tháng này
gọi là Tam Thiện Nguyệt; là những tháng Đế Thích Thiên Vương đích thân giáng hạ
nhân gian để tuần hành, thị sát. Trong cung điện của Đế Thích Thiên Vương có
chiếc Đại Bảo Cảnh (chiếc gương báu lớn).
- Tháng Giêng
chiếu xuống Nam Thiệm Bộ Châu.
- Tháng Hai
chiếu Tây Ngưu Hóa Châu.
- Tháng Ba chiếu
Bắc Câu Lưu Châu.
- Tháng Tư chiếu
Đông Thắng Thần Châu.
- Tháng Năm trở
lại chiếu Nam Thiệm Bộ Châu v.v...
Như thế, tất cả
có bốn châu, và mỗi năm một châu được chiếu ba lần. Kính này chiếu soi tất cả
các thiện ác trong nhân gian. Phàm nhất cử, nhất động cử tâm động niệm của
người đời đều hiện rõ trong Đại Bảo Cảnh. Nhật trai (ngày ăn chay), nguyệt trai
(tháng ăn chay) kể trên là những lúc quỷ thần làm việc đắc lực, cũng là hảo
thời mà bốn vị Thiên Vương và Đế Thích thiên vương thay nhau đi tuần hành, thị
sát.
Do đó, Phật tử
nên khuyên nhủ mọi người thực hành các pháp lành như trai giới, lễ Phật, niệm
kinh, phóng sanh, bố thí v.v... xa lìa các tội ác, tu tập các phước đức, trợ
giúp cho mọi người tu tập thiện nghiệp, như thế mới hợp với tinh thần đạo
pháp.
Nếu trong những
ngày tháng rất tốt ấy, thế nhân không biết khéo léo tu tập các phước đức, mà
trái lại làm những điều trái phạm giới luật, lẽ tất nhiên tội ác sẽ rất
lớn.
Đặc biệt là cần
phải chú ý ở đây dạy những ngày tháng hảo thời trên, Phật tử phải lưu tâm xa
lìa ác pháp, tu tập thiện nghiệp, không có nghĩa là ngoài những tháng ngày ấy
ra, thì có thể tùy ý buông lung tạo các tội ác. Giống như trường hợp các vị thủ
trưởng cơ quan địa phương, bình nhật thì chểnh mảng, lơ là công việc. Đến khi
cấp trên đến thanh tra kiểm điểm, thì vội vàng lo đôn đốc nhân viên làm việc
nghiêm chỉnh.
Nếu cho rằng
ngày lục trai và ba tháng trường trai cần phải tu thân tiến đức, còn những ngày
tháng khác có thể lơ lơ là là, mặc tình tạo tội là lầm to! Những ngày lục trai
và ba tháng trường trai nói trên, nếu không dụng công tu tập thiện nghiệp trái
lại còn giúp người làm việc sát sanh, trộm cắp, phá giới, phạm trai là hoàn
toàn trái hẳn với tư cách của người Phật tử. Nên trong kinh kết luận: “Phật tử này
phạm khinh cấu tội”.
Nếu đích thân
dạy người tạo nghiệp sát sanh, trộm cắp thì không phải là tội khinh cấu, mà là
căn bản trọng tội. Sở dĩ ở đây phán định là tội khinh cấu vì bạn làm mai mối
cho nam nữ v.v... hoặc cho hàng bạch y nghĩa làm trung gian, viễn nhân, để cho
người tạo nghiệp ác sát, đạo, dâm...
Lúc hảo thời cần
phải thọ trì Bát Quan Trai Giới mà bạn không đúng theo pháp phụng hành, đó là
phá trai, phạm giới. Nên trong kinh Anh Lạc dạy: “Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát tu tập
pháp Lục Độ thanh tịnh, kiêm tu giới pháp Bát Quan Trai của chư Phật, thì thiện
nam tử, thiện nữ nhơn này đối với pháp Lục Độ đã đầy đủ hạnh thanh tịnh. Nếu
không tu trì thì gọi là phạm giới”.
Trong Bồ Tát
Giới Bổn Sơ Tân cũng giải thích rằng:
- Không tu tịnh
hạnh, chạy theo trần duyên, làm mất tâm Bồ Đề, đoạn chủng tánh Phật, ấy gọi là
sát sanh.
- Miệng thì nói
không mà hành vi chấp có, trái nghịch thánh đạo, thọ dụng vật cúng thí của
người. Cứ một miếng thì kết một tội. Ấy gọi là tội trộm cướp.
Giới này ngăn
cấm năm chúng xuất gia bất cứ thời kỳ nào cũng đều không được quản lý cho bạch
y, tuyệt đối không được gần gũi với bạch y, để tạo những điều phi pháp. Riêng
hai chúng tại gia đã thọ Bồ Tát giới, nếu lúc hảo thời không có tâm tôn trọng,
cung kính cũng phạm khinh cấu tội.
Nên kinh Thiện
Sanh nói: “Nếu Ưu Bà Tắc trong mỗi tháng không thọ trì Bát Quan Trai Giới,
không cúng dường Tam Bảo thì mắc tội thất ý”.
Giới này hoàn
toàn mang tính chất nghiêm cấm, không có trường hợp khai miễn. Cả Đại Thừa lẫn
Tiểu Thừa đều chế định như vậy.
Kinh
văn
“Mười giới như
thế cần phải học, phải hết lòng kính trọng phụng trì, trong phẩm Chế Giới có
giảng rộng.
Lời giảng
Hai câu kinh văn
trên là tổng lược kết khuyến mười giới ở trên. Nghĩa là đối với những giới này,
Phật tử cần phải đúng pháp tu học, từng giờ, từng phút hết lòng kính trọng,
phụng trì.
Trên đây chỉ
giảng sơ lược thôi, trong phẩm Chế Giới sẽ giảng rộng hơn.