KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.34. TẠM LY BỒ ĐỀ TÂM
(giới tạm lìa Bồ
Đề tâm)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử hộ trì cấm giới...” cho đến câu “..phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật tử ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ Tát này, nên giữ gìn giới luật trong mọi tư thế đi, đứng, nằm, ngồi vững chắc như kim cương, như đeo trái nổi để qua biển lớn, như các tỳ kheo bị cột bằng dây cỏ. Phải thường có tín tâm lành đối với Đại Thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn chư Phật là Phật đã thành. Từ đó phát Bồ Đề tâm và giữ vững không thối chuyển. Nếu có một tâm niệm xu hướng theo Nhị Thừa hay ngoại đạo, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
3. Lời giảng
Điều trọng
yếu của giới trước là không cho hành giả làm ác để dứt trừ tất cả tội
lớn.
Điều quan yếu của
giới này cốt để hành giả tu thiện, tăng trưởng tất cả thiện nghiệp.
Lại có chỗ giải
thích là vấn đề đoạn ác của giới trước nhằm đoạn dứt phần thô ác của thân khẩu,
còn giới này là đoạn dứt về vi tế niệm của ý nghiệp.
Chúng ta thường
nói: phát Bồ Đề tâm chính là Bồ Tát, thối thất Bồ Đề tâm thì không phải là Bồ
Tát. Tại sao vậy?
Vì đại Bồ Đề tâm
là cơ bản của vạn hạnh cũng là cơ nhân (nền tảng và nhân tố) thành Phật, nên
tuyệt đối phải giữ gìn kỹ lưỡng không cho thối thất. Vì một khi thối thất hoặc
quên mất tâm Bồ Đề, thì không thể nào huân tu vạn đức và không thể hy vọng
thành Phật. Do vậy, không tể đủ tư cách để được gọi là Bồ Tát. Vị Bồ Tát dù chỉ
khởi một niệm nhỏ tạm bỏ tâm Bồ Đề thì đã trái với sự tu tập của mình từ trước.
Vì một vị Bồ Tát chân chính, lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm luôn nhớ tứ hoằng
thệ nguyện liên tục không gián đoạn, dù chỉ là trong khoảng một sát na. Nếu có
những niệm khác xen vào trong tâm, thì khó mong hoàn thành quả vô thượng Bồ Đề.
Vì thế, người Phật tử phải luôn luôn tinh cần giữ gìn Đại Thừa Bồ Đề tâm.
Giới này thất
chúng Phật tử đều có thể phạm. Nhưng Tiểu Thừa và Đại Thừa không giống nhau, vì
chỗ tu tập của hai bên khác nhau:
- Trường hợp
muốn bỏ Đại Thừa xu hướng theo Tiểu Thừa, nhưng chưa thực hành được, thì phạm giới
“có tâm từ bỏ Đại Thừa” thứ 8 đã nói ở trước. Nhưng nếu đã thực hành được theo
ý muốn thì rơi vào trường hợp bị mất giới và đã phạm giới trọng thứ 10 cũng đã
giảng nói ở trước. Còn trường hợp phạm giới này không phải là có ý muốn bỏ Đại
Thừa, mà chỉ vì cho là Tiểu Thừa dễ tu, nên muốn rằng sau khi đoạn kiết sử rồi
sẽ trở lại thực hành hóa độ chúng sanh cũng không muộn. Đây là điểm khác biệt
giữa giới này và giới “có tâm từ bỏ Đại Thừa” ở trước.
Đức Phật lại dạy
đại chúng rằng: “Nếu là một Phật tử phải hộ trì giới cấm mà mình đã thọ hết sức
kiên cố và nghiêm mật, không cho phạm một mảy may. Phải tinh tấn giữ gìn tịnh
giới như giữ gìn ngọc minh châu”.
Nhưng làm thế
nào mới có thể giữ gìn được như vậy?
Phải ở trong bốn
oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, và suốt trong sáu thời, ngày ba thời, đêm ba
thời, luôn hộ trì giới cấm của Phật. Phải giữ gìn tâm như giữ thành (cũng như
trong sách Nho nói: “Giữ miệng như giữ miệng bình, giữ ý như giữ thành”), không
để cho bất cứ cảnh giới nào lay động thì giới thể tự nhiên được kiên cố, và do
Giới mà đắc Định, nhờ Định mà phát Huệ. Ba môn Vô Lậu học được đầy đủ thì đương
nhiên không bị trái phạm.
“Đọc tụng giới
này” là nói về phương tiện hộ trì cấm giới, vì người Phật tử đôi khi không
tránh khỏi phạm giới. Căn bệnh này là do sự hiểu biết giới pháp chưa rành. Vì
thế, nếu thường đọc tụng giới cho thuần thục, biết rõ những điều khai, giá, trì
phạm của giới mới có thể giữ giới được kiên cố như kim cương. Kim cương là vật
hết sức cứng rắn và sắc bén, có thể làm hư hoại muôn vật mà không bị muôn vật
làm hư hoại. Đây là dùng thí dụ để ám chỉ giới có công năng phá trừ các tội ác,
mà các tội ác không thể hủy hoại được giới.
Hoặc ý muốn nói
giới có công năng kháng cự lại sự xâm lăng của giặc phiền não. Hoặc ý nói tâm
nghiêm trì tịnh giới của Bồ Tát kiên cố không bị lay động giống như kim
cương.
“Như đeo trái
nổi qua bể lớn”: đây là hình ảnh dùng để thí dụ cho người Phật tử nghiêm trì
giới luậ. Thí dụ ấy trong kinh có thuật lại như sau:
Xưa có một vị
thương nhân mang trái nổi qua biển lớn. Đến giữa biển, bỗng nhiên có con quỷ La
Sát khẩn thiết cầu xin thương nhân trái nổi. Dĩ nhiên, thương nhân không bao
giờ muốn cho trái nổi.
La Sát lại khẩn
thiết van xin: “Nếu ngài không cho nguyên trái nổi thì xin cho một nửa vậy”.
Thương nhân cũng không bằng lòng.
Cuối cùng nó tha
thiết chỉ xin một chút mà thôi. Nhưng thương nhân cũng không đồng ý, tại sao
lại keo kiệt quá như vậy?
Sự thật thì
không phải keo kiết, nhưng vì sinh mạng của người qua biển hoàn toàn nương vào
trái nổi. Nếu cho quỷ La Sát, dù chỉ một chút thì người qua biển sẽ bị chôn
thân trong biển cả, không bao giờ đến được bờ bên kia.
Dùng thí dụ nói
trên để chỉ cho người Phật tử nghiêm trì cấm giới, muốn vượt qua biển khổ sinh
tử, hoàn toàn phải nương nhờ bè tịnh giới của Như Lai. Nếu giữa đường gặp quỷ
la sát phiền não, ái nhiễm v.v... khẩn thiết cầu xin một điều trái với mười
giới trọng hay bốn mươi tám giới khinh, thậm chí chỉ một chút tội khinh cấu nhỏ
như vi trần, người Phật tử nhất quyết không được theo ý nguyện của la sát phiền
não.
Tại sao
vậy?
Phải biết pháp
thân huệ mạng của mình hoàn toàn nhờ nơi giới. Nếu giới bị hư tổn, chắc chắn sẽ
bị đắm chìm trong biển khổ sinh tử, vĩnh viễn không bao giờ được giải thoát. Vì
thế, Phật tử phải triệt để hộ trì cấm giới nghiêm mật như thế.
“Như các tỳ kheo
bị cột bằng dây cỏ”: Đây cũng là ví dụ. Ý nói người Phật tử phải nghiêm hộ giới
cấm, vấn đề này có một câu chuyện có thật như sau:
Khi Phật còn tại
thế, một số quý tỳ kheo bị cướp bắt đoạt hết y phục, lại còn có ý định giết các
vị tỳ kheo này.
Trong bọn cướp,
có một người hiểu biết hơn, đưa ý kiến rằng: “Chúng ta không cần phải giết các
thầy này. Tôi được biết quý tỳ kheo đích thực tin rằng cỏ cây vẫn có sinh mạng.
Các thầy vâng giữ giới cấm của Phật, không dám làm thương tổn chúng, nên không
bao giờ dám nhổ cỏ sống. Chúng ta chỉ cần dùng dây cỏ trói cột tay chân các
thầy lại, mấy ổng sẽ không dám cử động”.
Bọn cướp nghe
lời, dùng dây cỏ cột các tỳ kheo. Quả thật, quý ngài vâng giữ giới cấm của
Phật, ngồi yên không dám cử động.
Lúc ấy, có một
quốc vương đi săn ngang qua con đường này, thấy những người không mặc y phục,
tưởng là ngoại đạo lõa hình. Các tùy tùng của vua tâu rằng: “Đấy không phải là
ngoại đạo lõa thể, mà là sa môn Thích tử”.
Quốc vương dùng
kệ hỏi quý tỳ kheo rằng:
Khán thời tợ vô
bệnh,
Phì tráng hữu đa
lực,
Như hà vi thảo
hệ,
Nhật dạ bất
chuyển trắc?
Dịch:
Khi mới trông
thấy dường như không bịnh,
Mập mạp mạnh
khỏe sức dồi dào,
Vì duyên cớ chi
bị cỏ trói cột,
Ngày cũng như
đêm không hề cử động?
Quý tỳ kheo dùng
kệ đáp lại rằng:
Thử thảo thậm
nguy thúy,
Đoạn thời khởi
hữu nan?
Đản vị Phật Thế
Tôn,
Kim cang giới sở
chế
Dịch:
Thứ cỏ này thật
rất mong manh,
Nếu muốn bứt đi
nào có khó gì?
Chỉ vì gìn giữ
kim cương giới,
Do đức Như Lai
đã chế ra.
Quốc vương nghe
quý tỳ kheo nói, vô cùng cảm động, đối với Tam Bảo sanh lòng thâm tín, bèn đích
thân mở trói cho quý thầy, đồng thời cúng dường y phục cho quý thầy mặc về tinh
xá.
Chúng ta thấy
quý tỳ kheo vì hộ trì tiểu giới còn không tiếc thân mạng huống gì đại sĩ giữ
gìn Đại Thừa Bồ Tát giới mà dám hủy phạm giới pháp hay sao?
Thường sanh tín
tâm đối với Đại Thừa. Đây là ý nói nếu chỉ hộ trì cấm giới của Như Lai mà không
có chánh tín đối với Đại Thừa, thì việc hộ trì tịnh giới kia chỉ thuộc về tán
thiện mà thôi, không thể đạt đến quả vị Phật được.
Tín tâm lành đối
với Đại Thừa như thế nào?
Là tin chắc tự
mình quyết định sẽ thành Phật!
“Tín tâm tín thọ
pháp Đại Thừa” dĩ nhiên có thể phát sanh, nhưng muốn gìn giữ tín tâm ấy đừng
thối chuyển không phải là một việc dễ dàng.
Muốn giữ cho tín
tâm này không thối thất, phải luôn sanh khởi tín tâm trong tất cả các thời,
nghĩa là sanh khởi tín tâm liên tục, không được gián đoạn, không để cho những
tạp niệm khác xen lẫn vào. Điều này phải dùng đến tín tâm quyết định: tự tín
nhiệm mình và biết mình là một Đức Phật sẽ thành. Vì hạnh nguyện chưa mãn,
phiền não, nghiệp chướng chưa sạch hết, nên chưa chứng đắc quả địa trang nghiêm
mà thôi.
Còn như chư Phật
trong mười phương, trong thời quá khứ và hiện tại, vì ba thân đã viên mãn, vạn
đức đã trang nghiêm nên là Phật đã thành. Chúng sanh với Phật vốn bình đẳng
không hai, tâm cũng không sai khác. Chỉ khác ở điểm đã thành và chưa thành mà
thôi. Nhưng chúng sanh chưa thành Phật kia, tương lai nhất định sẽ thành
Phật.
Thế thì Phật
trước, Phật sau có gì sai khác?
Nên trong kinh
này nói: “Thường có lòng tin như vậy thì giới phẩm đã trọn vẹn”.
Hành giả Tiểu
Thừa sở dĩ không có hy vọng thành Phật, không phải vì các ngài không có khả
năng thành Phật, mà vì các ngài thiếu chánh tín nơi Đại Thừa là mọi người đều
có khả năng thành Phật. Tự mình còn thiếu tín tâm ấy thì đối với tất cả chúng
sanh cũng không hy vọng họ được thành Phật. Vì thế hành giả Tiểu Thừa chỉ cầu
tự độ và không độ người khác.
Trái lại, hành
giả Đại Thừa tin chắc tự mình có thể thành Phật, nên đối với tất cả chúng sanh
cũng tin chắc rằng họ đều có thể được thành Phật. Vì thế các ngài chẳng những
lo tự độ để mong chứng đắc Phật quả, vạn đức trang nghiêm, đồng thời cũng lo tinh
tấn hóa độ chúng sanh, khiến cho tất cả đồng thành Chánh Giác.
Tinh thần của
Đại Thừa cao siêu và thù thắng hơn Tiểu Thừa hoàn toàn đặt căn bản trên điểm
này. Nguyên khởi mọi giá trị của Đại Thừa vẫn nằm nơi đây.
“Phát tâm Bồ Đề
niệm niệm không bỏ tâm ấy” (trong bổn Việt văn dịch là “phát tâm Bồ Đề giữ vững
không thối chuyển”): câu này ý nói tín tâm lành đối với Đại Thừa dù đã đủ,
nhưng nếu không phát đại Bồ Đề tâm thì tín tâm của bạn không nơi nương tựa. Cho
nên phải phát đại Bồ Đề tâm để cho tín tâm sẵn có của mình được kiên cố.
- Hộ trì cấm
giới là thuộc về Hạnh.
- Thường sanh
khởi tín tâm lành đối với Đại Thừa là thuộc về Tín.
- Tự biết mình
là Phật chưa thành là Giải.
Ba pháp: Tín -
Hạnh - Giải như thế nhất định phải có trí thể Bản Giác của nó; nhưng trí thể
Bản Giác chính là Đại Bồ Đề Tâm. Cho nên muốn chứng vô thượng Phật quả, cần
phải lấy sự phát đại Bồ Đề tâm làm chủ yếu.
Làm thế nào có
thể phát khởi đại Bồ Đề tâm?
Phải biết rằng
đại Bồ Đề tâm do nơi Đại Bi tâm mà sanh khởi. Nên trong kinh Vô Tận Ý nói: “Vì
muốn cứu độ tất cả chúng sanh nên khởi đại bi nguyện lực... thú hướng mong cầu
quả vô thượng Bồ Đề. Nếu không vì hóa độ chúng sanh thì tôi không phát tâm Bồ
Đề".
Trong Bồ Đề Tâm
Luận cũng nói: “Từ nơi tâm Đại Bi mà phát sanh Đại Bồ Đề tâm. Cho nên tất cả
pháp tối thắng trong Phật pháp đều lấy tâm Đại Bi làm căn bản”.
Trong Vô Sai
Biệt Luận nói: “Khi tu nhân tức là Bồ Đề tâm, lúc quả đức viên mãn gọi là Vô
Thượng Chánh Giác, Bồ Đề tâm pháp không thể nghĩ bàn, chư Phật Như Lai đều tán
thán”.
Kinh Vô Úy
Thượng Thọ Vấn nói: “Phát Bồ Đề tâm sanh các phước đức dường như hư không rộng
lớn, tối thắng, cao tột, không cùng tận”.
Vì thế, nếu
người nào sanh khởi một tâm niệm ngoại đạo, tức là đã mất hẳn tư cách của Bồ
Tát. Nếu không lạc vào Nhị Thừa thì cũng thành kẻ ngoại đạo. Cho nên Bồ Tát
nghiêm trì Bồ Tát giới, tuyệt đối không nên sanh khởi một tâm niệm Nhị Thừa
ngoại đạo (bổn Việt văn dịch là: “Một tâm niệm xu hướng theo Nhị Thừa, ngoại
đạo”). Nếu không như thế tức phạm khinh cấu tội.
Chỉ có một niệm
này, tại sao lại kết thành tội khinh cấu?
Vì dù là một
niệm rất ngắn và tạm thời, nhưng nó gây thương tổn cho Phật chủng và làm thối
thất tâm Bồ Đề. Do đó, trở thành ma nghiệp, vậy thì không nên ngăn ngừa trước
hay sao? Như tôn giả Xá Lợi Phất thối thất tâm Đại Thừa, xu hướng Tiểu Thừa còn
bị mất thiện lợi hết sức lớn lao. Phật tử chúng ta thọ Bồ Tát giới, trì Bồ Tát
giới, nên lấy đó làm gương để tự thức nhắc vậy.